Web novel

Chương 494: Cuộn Tranh

Chương 494: Cuộn Tranh

Ngồi trước bàn viết, Dorothy chăm chú nhìn cuộn da dê cổ xưa trải ra trước mặt, trên đó vẽ chi chít vô số ký hiệu rườm rà và cổ ngữ phức tạp. Rõ ràng, trong trận chiến với Muhtar, khi hắn đột nhiên gia tăng sức mạnh và giải phóng thứ Giới Luật Ác Ý đáng sợ kia, khiến Vania và Shadi bị đánh gục trong nháy mắt, thì nguồn gốc chính là thứ này. Hắn đã kích hoạt nội dung khế ước, để Bamigura, Thánh Thú Tử Đạo, ban sức mạnh cho mình, nhưng cái giá phải trả là một phần ba linh hồn.

“Thánh Thú Tử Đạo Bamigura… một thực thể mang thần tính sống trong thế giới bên trong. Cảm giác thứ này khá giống như Haimohois, vị thần mà mà Giáo Hội Vực Sâu thờ phụng vậy. Loại tồn tại cư ngụ ở rìa thực tại và thế giới bên trong, một sự hiện diện mạnh mẽ chỉ dưới các vị thần, có thể lập giao ước với con người. Dùng cái giá để đổi lấy sức mạnh hoặc ân huệ.”

“Lúc Giáo Hội Vực Sâu tiến hành nghi thức hiến tế, theo một nghĩa nào đó, đó cũng coi như đang thực hiện khế ước với Haimohois. Nhưng… lấy hơn hai nghìn sinh mạng làm tế phẩm, rốt cuộc chúng muốn thứ gì từ Haimohois? Chắc chắn không chỉ đơn giản là để lấy lòng nó…”

Đặt Cuộn Trục Khế Ước Linh Hồn trên mặt bàn, Dorothy thoáng suy nghĩ về những sinh vật thần tính như Haimohois và Bamigura. Nhưng chỉ suy xét một lát, cô liền kéo sự chú ý trở lại cuộn khế ước trước mắt, bắt đầu cân nhắc xem nó có thể mang lại lợi ích gì cho bản thân.

“Vật này có thể dùng để lập khế ước với một sinh vật thần thánh. Về mặt lý thuyết, mình có thể liên hệ với Bamigura, hỏi xem liệu nó có sẵn lòng đổi đối tượng khế ước hay không. Nhưng mình hoàn toàn không hiểu rõ về con Thánh Thú Tử Đạo này, cũng chẳng biết quan hệ của nó với Giáo phái Sự Giáng Lâm của Đấng Cứu Thế mật thiết tới đâu. Mạo hiểm liên hệ trực tiếp thì rủi ro quá lớn, tốt nhất không nên làm vậy…”

“Tuy nhiên, nội dung trên cuộn trục có thể bị xóa sạch rồi ký lại từ đầu. Nói cách khác, sau này nếu mình gặp được một sinh vật thần thánh hay một tồn tại mạnh mẽ nào đó ở thế giới bên trong, thêm nữa nếu quan hệ hai bên đủ tốt,mình có thể thương lượng với họ ký một bản khế ước đôi bên cùng có lợi.

“Ý tưởng này cũng không tồi. Chỉ là hiện tại, mình chưa quen biết tồn tại ở thế giới bên trong đủ tầm như vậy… cho nên nhất thời cuộn trục này cũng chưa có tác dụng lắm.”

Dorothy, khẽ gõ ngón tay lên cuộn trục, nghĩ thầm như vậy. Giờ đây, cô không chỉ thiếu một đối tượng để ký kết khế ước, mà thậm chí vẫn chưa hiểu rõ nội dung có thể thiết lập trong cuộn khế ước này. Vì thế, cô quyết định sau này sẽ dành thời gian nghiên cứu kỹ hiệu quả cụ thể của cuộn trục này rồi mới tính bước tiếp theo.

Nghĩ xong, Dorothy cất cuộn khế ước tạm thời chưa dùng tới sang một bên, ngay lập tức chuyển sự chú ý của mình trở lạo những chiến lợi phẩm khác. Tất cả các vật phẩm thần bí đã kiểm tra xong, và tiếp theo là các văn bản thần bí.

Trong đống vật tư mà Muhtār lưu trữ, Dorothy tìm thấy hai văn bản được bảo tồn dưới dạng các cuộn giấy da thú cũ. Cẩn thận mở cuộn giấy đầu tiên, cô phát hiện ra đó là một bản thảo có tựa đề “Yếu Lược Giới Luật Khổ Hạnh,” một bảng tổng hợp các điểm trọng yếu và các giáo lý cơ bản cho Kẻ Vượt Giới trên Con Đường Khổ Hạnh. Nội dung của nó đã cung cấp cho Dorothy cái nhìn sâu sắc hơn về con đường khổ hạnh cay đắng này.

Theo nội dung ghi chép trong văn bản thần bí, các cấp bậc của Con Đường Khổ Hạnh được gọi như sau: cấp Hắc Thổ là “Tu Sĩ Giới Luật,” cấp Bạch Tro là “Bậc Thầy Giới Luật,” cấp Xích Hoàn là “Chấp Chính Giới Luật,” và cấp Hoàng Kim là “Người Phán Quyết.”

Bốn cấp danh xưng ấy lần lượt ứng với bốn cảnh giới trong giới luật, “Giới Tự – Giới Nhân – Giới Địch – Giới Quốc,” tức quá trình đưa giới luật dần từ trong ra ngoài, từ bản thân đến người khác, từ số ít đến số nhiều.

Khác với một số con đường Kẻ Vượt Giới khác, người đi trên Con Đường Khổ Hạnh có phương pháp rèn luyện đặc thù để mài dũa tâm trí và thu thập tâm linh. Ngay từ khi còn ở cấp Hắc Thổ, với tư cách Tu Sĩ Giới Luật, họ phải chọn ra vài điều giới luật cho riêng mình để thực hành khổ tu. Thành quả của việc tu luyện những điều giới luật này không chỉ liên quan tới nghi thức thăng cấp về sau, mà còn quyết định sau khi đạt cấp Xích Hoàn, trở thành Chấp Chính Giới Luật, họ có thể áp đặt loại giới luật nào lên kẻ địch.

Ví dụ, trong bản Yếu Lược này có ghi lại hai loại giới luật điểu hình như sau: Giới Luật “Khắc Kỷ Vô Thương” và Giới Luật “Khắc Sợ Vô Tránh.”

Khắc Kỷ Vô Thương là một loại tu hành cần người khổ tu, trong mọi thử thách, đều phải kiềm chế bản thân, không gây tổn thương. Đây là quá trình đè nén bản năng tấn công và gây hại nảy sinh từ nội tâm. Dù là khi bị muỗi cắn, rắn độc quấn quanh, bị kẻ khác châm chọc khiêu khích trắng trợn,… họ đều phải kiềm nén tuyệt đối, chịu đựng mà không phản công. Cho dù bản thân chịu đau đớn cũng không được đánh trả. Trải qua một thời gian dài chịu đựng cả về thể xác lẫn tinh thần, cuối cùng họ sẽ đạt đến trạng thái có thể tuỳ ý khống chế dục vọng  tấn công của chính mình. Sau khi “Giới Tự” vững vàng, mới có thể “Giới Nhân”, rồi tiến tới “Giới Địch”.

Nói cách khác, sau khi Khắc Kỷ Vô Thương được tu tập hoàn tất, khi đạt tới cấp Xích Hoàn thì sẽ biểu hiện ra khả năng giới luật phản thương khó chịu kia; mà khi nâng cấp đến bậc hoàng kim, thì lại trở thành giới luật ác ý càng khiến người khác tức điên hơn.

Về phần Khắc Sợ Vô Tránh, về cơ bản quá trình tu tập cũng gần như tương tự, nhưng tập trung vào việc khắc phục nỗi sợ và bản năng trốn tránh. Người tu hành phải chịu đựng những hình thức khổ hạnh cực đoan và nguy hiểm mà vẫn không thoái lui. Ví dụ như ngồi thiền giữa núi tuyết chỉ với manh áo mỏng, hoặc nhịn đói hàng tháng trời mà vẫn kiên trì không ăn… Chỉ cần có thể tiếp tục kiên định hoàn tất quá trình khổ tu mà không hề trốn tránh dù chỉ một lần, thì sẽ được coi là hoàn thành Khắc Sợ Vô Tránh. Giới luật này, khi ở cấp Xích Hoàn đem áp đặt lên kẻ địch, sẽ biến thành giới luật buộc kẻ địch phải đánh tay đôi với mình, không được né tránh, không được bỏ chạy.

Tóm lại, bản chất sức mạnh của Chấp Chính Giới Luật chính là lấy những điều giới luật từng áp đặt lên bản thân trong tu hành trước kia, chuyển hóa thành giới luật áp đặt lên kẻ khác. Những gì mình đã thực hành trong quá khứ sẽ được thăng hoa thành khả năng và giới luật tương ứng mà mình có thể sử dụng sau khi đạt đến cấp Xích Hoàn. Đây chính là “muốn giới người trước hết phải giới mình”

Ngoài ra, Yếu Lược còn chú ý nhấn mạnh rằng, trong quá trình tu hành những giới luật, nghiêm cấm tuyệt đối việc dùng bất kỳ khả năng thần bí nào để làm trợ lực. Tu hành bắt buộc phải là khổ hạnh, bắt buộc người tu phải thực sự đau đớn, phải cảm nhận được gian khổ, thống khổ thì mới tu thành giới luật. Quy tắc này từ đầu đã triệt để chặn đứng mọi khả năng “gian lận”.

“À, mình hiểu rồi… bản chất cốt lõi Con Đường Khổ Hạnh là giới mình trước, rồi mới giới người. Những giới luật ấy đều phải tự mình nghiêm khắc kiềm chế thì mới có thể áp đặt lên người khác.

“Mình còn tự hỏi tại sao Muhtār không bày ra mấy cái giới luật kiểu như ‘cấm thở’—hóa ra bản thân hắn cũng không thể không thở được lâu dài, nên dĩ nhiên không thể dùng giới đó để trói buộc người khác. Phải giới mình trước rồi mới giới người mà,” Dorothy suy ngẫm.

Nhìn cuộn Yếu Lược trong tay, Dorothy không khỏi cảm khái. Đồng thời cô cũng nhận ra, theo lý này, những giới luật mà mỗi Chấp Chính Giới Luật có thể thi triển đều sẽ khác nhau, bởi phương pháp khổ luyện của mỗi người khác nhau, nên giới luật cuối cùng họ thành tựu cũng sẽ muôn hình vạn trạng.

Tuy vậy, theo nội dung ghi chép, “Khắc Kỷ” và “Khắc Sợ” là hai phương pháp tu luyện phổ biến nhất, vì vậy hầu hết những người đi theo Con Đường Khổ Hạnh đều lấy hai kiểu khổ tu này làm lựa chọn ưu tiên. Nhưng do sức lực con người có hạn, cơ thể cũng không chịu nổi quá nhiều thử thách, nên số giới luật mỗi người cuối cùng tu luyện thành công cũng không nhiều; đến khi đạt cấp Xích Hoàn thì áp được lên người kẻ địch nhiều nhất cũng chỉ hai điều mà thôi.

“Dù sao thì,” Dorothy kết luận.

“Vì sức mạnh của những giới luật này xoay quanh việc ràng buộc kẻ thù, chúng phần lớn mang tính phòng thủ hoặc bị động. So với việc đơn độc chiến đấu, họ sẽ phát huy hiệu quả lớn hơn nhiều khi ở trong một đội nhóm. Nếu như Muhtār sở hữu khả năng tấn công chủ động mạnh mẽ như một Nguyên Tố Sư, thì Vania đã không thể trụ lại.”

Dorothy thầm đánh giá như vậy trong lòng, sau đó cô đặt tập tài liệu trong tay xuống một bên rồi bắt đầu trích xuất linh tính. Do nội dung của tập tài liệu này khá đầy đủ, thậm chí có phần liên quan đến Xích Hoàn và Hoàng Kim nên lần này Dorothy thu hoạch được không ít tâm linh, tận 9 điểm Đèn Lồng, 7 điểm Im Lặng và 5 điểm Khải Huyền.

Tiếp theo, Dorothy bắt đầu xem xét cuộn văn bản thần bí thứ hai. Đây cũng là một cuộn da thú, nhưng khác với bản trước, trên đó không chỉ có chữ mà còn có cả hình vẽ. Nhìn kỹ từng nét, cô nhận ra đây dường như là bản sao chép của một bức tranh khác.

“Bản sao bức bích họa Chúa soi sáng thế gian”, đó là tên của cuộn tranh da thú này. Trên đó, bằng những nét bút mảnh tinh tế, hiện lên một bức họa: một người đàn ông tóc dài xõa xuống, nửa thân trên để trần, thân hình cường tráng, tuấn mỹ, đầu quấn vòng nguyệt quế, đôi mắt không có đồng tử.

Ông đứng ở phần trên của bức tranh, hai tay dang rộng, ánh mắt hướng thẳng phía trước, gương mặt không biểu cảm. Chung quanh là vầng mặt trời đang tỏa sáng rực rỡ, và trong hai bàn tay dang ra, ông cầm hai vật khác nhau.

Trong bàn tay phải, người đàn ông cầm một cây quyền trượng; còn trong tay trái, lại cầm một thanh kiếm lưỡi cong hình trăng khuyết. Ở hai bên bánh xe mặt trời phía sau lưng ông, có hai hình người nhỏ bé đứng song song.

Bên cạnh cây quyền trượng là một bé trai, tóc cắt ngắn, mặc áo choàng với mũ trùm đầu được kéo ra sau. Cậu đứng bên cạnh vầng hào quang với một biểu cảm ngưỡng mộ thành kính khi cậu nhìn lên người đàn ông giữa bánh xe mặt trời. Cậu bé bước tới với hai tay dang rộng, dường như sắp bước vào vầng hào quang và ôm lấy người đàn ông. Các đường nét trên khuôn mặt của cậu có một sự giống nhau mờ nhạt với người đàn ông kia.

Còn bên phía thanh kiếm cong là một bé gái. Khác với bé trai, cô bé không hề hướng mắt về phía bánh xe mặt trời, mà chỉ lặng lẽ đứng yên, gần như không có động tác nào khác. Chiếc mũ trùm áo choàng dài được cô đội chỉnh tề, che khuất phần trên gương mặt, chỉ để lộ phần miệng không hề có biểu cảm. Mái tóc mềm dài óng mượt xõa ra từ dưới vành mũ, buông xuống hai bên má rồi chảy dài tới tận thắt lưng. Thần thái tĩnh lặng, u nhã của bé gái này tạo nên sự đối lập rõ rệt với dáng vẻ sùng kính đầy hiếu động của bé trai kia.

Bên dưới hình vẽ ba người, một lớn hai nhỏ kia, là một tấm bản đồ thế giới. Trên bản đồ, Dorothy có thể dễ dàng nhận ra dáng hình của nhiều lục địa quen thuộc—Tân Lục Địa ở phía tây, Lục Địa Ufiga ở phía nam, Lục Địa Băng Giá ở phía bắc, và Lục Địa Chính ở trung tâm—tất cả những mảng đất liền ấy đều được đặt dưới chân ba nhân vật ở phần trên bức họa.

Quanh mép bức họa và bản đồ là vô số hàng chữ bao quanh. Chỉ liếc mắt, Dorothy liền nhận ra đó chính là ngôn ngữ Đế Quốc.

Trải cuộn giấy phẳng trên bàn làm việc, Dorothy nghiên cứu nó một cách cẩn thận, biểu cảm của cô nhuốm vẻ say mê. Rõ ràng, cô đã hoàn toàn bị cuốn hút bởi hình ảnh được mô tả trong bức tranh ngay khi cô nhìn thấy nó. Sau khi nhìn chằm chằm vào nó trong một thời gian khá dài, cô thở ra từ từ và bắt đầu suy ngẫm về nội dung của cuộn giấy.

Đến lúc này, Dorothy có một cảm giác tiềm thức rằng hình ảnh được mô tả trong bức tranh rất… khác thường.

“Bức tranh này… nó là đang vẽ Đức Chúa Chân Quang sao, hay nói cách khác là Đấng Cứu Thế Rạng Rỡ? Đánh giá từ phông nền bánh xe mặt trời và tựa đề mà Muhtār chú thích riêng, có vẻ là như vậy. Nhưng có một vấn đề—nếu người trong tranh thực sự là Đấng Cứu Thế Rạng Rỡ thì hai đứa trẻ đứng cạnh là ai?”

Nhìn chằm chằm vào cuộn tranh, trong đầu Dorothy đầy những câu hỏi. Trước đây cô đã từng nhìn thấy nhiều bức chân dung tôn giáo từ kỷ nguyên trước, chẳng hạn như bức minh họa Nữ thần Sung túc được tìm thấy trong số đồ đạc của Darlene. Bức tranh đó mô tả nữ thần và bốn vị thần phụ, và mỗi thần phụ đều có đặc điểm rõ ràng khiến người xem dễ nhận biết đó là các nhánh nào của con đường Chén Thánh. Tương tự, trong các kho tài liệu nghiên cứu của Công tước Barrett, có những biểu ngữ được vẽ bởi các lực lượng nổi dậy trong Cuộc nổi dậy của Vua Gió ở Pritt hàng thế kỷ trước, với biểu tượng Mặt Trăng và bốn kỵ sĩ trên khiên.

Nhưng cuộn tranh này thì khác. Nó không theo mẫu một chính bốn phụ, mà chỉ là một hình chính và hai người bạn đồng hành. Không chỉ vậy, hai phụ đó lại là trẻ con, và không có dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy họ là những vị thần liên quan đến Đèn Lồng. Cả nguyên mẫu Thánh Mẫu lẫn Thánh Tử dường như đều không khớp, điều này thật khó hiểu. Nếu hình chính thực sự là Đức Chúa Chân Quang hoặc Đấng Cứu Thế Rạng Rỡ, thì ngoài những vị thần phụ tương ứng, còn ai khác xứng đứng bên cạnh Ngài được?

“Những dòng chữ trên cuộn tranh này là chữ Đế Quốc… nói cách khác, bức họa có khả năng được tạo ra trong Kỷ Nguyên Đế Chế, Kỷ Nguyên Thứ Ba. Nếu vậy, người được vẽ trên đó rất có thể chính là Vua Ánh Sáng. Đánh giá từ phần chú thích trên tranh, Giáo phái Sự Giáng Lâm của Đấng Cứu Thế dường như cũng đã đồng nhất Đức Chúa Chân Quang, Đấng Cứu Thế Rạng Rỡ với Vua Ánh Sáng. Mặc dù họ có nhiều điểm tương đồng, nhưng liệu… họ có thực sự được coi là cùng một thực thể không?

“Còn nữa… người đàn ông trong tranh cầm những món đồ này cũng khiến mình thấy lạ. Tay phải cầm quyền trượng, tay trái cầm kiếm cong. Cảm giác kỳ quặc thật. Thông thường trong phong cách mỹ thuật tôn giáo hệ Ánh Sáng, quyền trượng là yếu tố quen thuộc, nhưng kiếm cong? Hầu như chưa từng thấy bao giờ…”

Tập trung vào hai vật được cầm bởi hình trung tâm, sự bối rối của cô càng sâu sắc hơn. Dựa vào chú thích của Muhtār, Dorothy biết được đây là bản sao chép từ một bức bích họa nào đó trong di tích không xác định. Nhưng loại bích họa tôn giáo này không giống tác phẩm nghệ thuật tự do tùy hứng—Từng chi tiết của chúng đều được quy định nghiêm cẩn, mỗi hình tượng, tư thế hay vật phẩm đều mang một ý nghĩa tượng trưng nhất định. Một khi đã được khắc lên tường, thì chắc chắn có hàm ý, tuyệt đối không thể có chi tiết dư thừa.

Trong tranh tôn giáo, những vật cầm trong tay thần linh lại càng có ý nghĩa, thậm chí có thể nói là trọng tâm mà cả bức tranh muốn biểu đạt, nên tuyệt đối không thể vẽ hay khắc bừa bãi. Vậy nên việc thanh kiếm cong xuất hiện trong tay người đàn ông kia chắc chắn có tầng ý nghĩa nào đó sâu xa.

Khi Dorothy mới bước vào con đường thần bí, trong một văn bản thần bí mà Aldrich từng trao cho cô đã viết rõ: quyền trượng chính là biểu tượng tiêu biểu nhất của Đèn Lồng, đầu trượng phát sáng tượng trưng cho ngọn đuốc, cho mặt trời, cho trung tâm của sự chú mục, cho phương hướng dẫn đường, cho sự kết hợp giữa quyền lực và tín ngưỡng. Vì vậy, trong mỹ thuật của Giáo Hội Ánh Sáng, quyền trượng thường xuyên xuất hiện.

Nhưng kiếm cong thì hoàn toàn khác—không những chẳng bao giờ có mặt trong mỹ thuật của Ánh Sáng, mà trong thần bí, ý nghĩa mà nó thường gắn liền còn hoàn toàn đối nghịch với Đèn Lồng nữa.

Ánh mắt dán chặt vào bức họa trên da thú trước mặt, biểu cảm của Dorothy ngày càng trở nên nghiêm túc hơn. Càng quan sát, ánh nhìn của cô từ từ rời khỏi hình vị thần ở phần trên của bức họa, chuyển dần xuống phía dưới, nơi có một tấm bản đồ mà trước đó cô đã vô tình bỏ qua.

Bức bản đồ chỉ phác họa một đường viền đại khái, không hề ghi chú bất kỳ thông tin địa lý cụ thể nào. So với hình tượng thần thánh phía trên, phần bản đồ này trông hết sức sơ lược.

Lúc đầu, Dorothy chỉ định xem thử trên bản đồ có đánh dấu điểm đặc biệt nào không, hoặc chí ít có ghi lại những địa danh cổ thuộc Kỷ Nguyên Thứ Ba. Vậy mà sau khi đảo mắt khắp tấm bản đồ thô sơ sơ sài đến cực điểm ấy, cô chẳng tìm thấy chút thông tin nào đáng để lưu tâm. Đang có chút thất vọng, Dorothy chuẩn bị đưa ánh mắt trở lại bức họa thần thánh phía trên để tiếp tục nghiên cứu, thì đột nhiên, ngay vào khoảng khắc đó, cô phát hiện ra một điểm bất thường.

Nhíu chặt mày, Dorothy dán mắt vào tấm bản đồ trong họa quyển, đặc biệt chú ý đến khu vực bên trái—tức vị trí phía đông của lục địa. Càng nhìn kỹ, cô càng cảm thấy hình dáng nơi đó có điều gì không đúng.

Sau khi quan sát thêm một lúc, Dorothy lập tức khơi gọi trí nhớ, đem tấm bản đồ thế giới mà mình từng xem ra so sánh đối chiếu. Chẳng bao lâu, cô đã nhận ra sự khác biệt.

Bản đồ trên cuộn tranh này cho thấy, phần Lục Địa Chính lớn hơn đáng kể so với các bản đồ tiêu chuẩn hiện tại! Các khu vực khác trông bình thường, nhưng phần phía đông của Lục Địa Chính được mở rộng rất lớn.

Lục Địa Chính trên bản đồ của bức tranh tường này lớn hơn gần một phần ba so với các bản đồ hiện đại!

Hãy bình luận để ủng hộ người đăng nhé!