Bờ biển phía bắc của Biển Chinh Phục, Ivengard.
Ivengard là một trong những quốc gia quan trọng nằm ở bờ biển phía bắc của Biển Chinh Phục. Toàn bộ lãnh thổ của nước này là một bán đảo khổng lồ, vươn dài từ lục địa chính xuống phía nam, cắm thẳng vào lòng Biển Chinh Phục.
Chạy dọc phần phía nam của Bán đảo Ivengard là dải núi Spineridge trải dài bất tận, kéo từ nam lên bắc dọc theo đường sống núi trung tâm của bán đảo. Những ngọn núi này chia bán đảo thành hai khu vực phía đông và phía tây.
Từ xa xưa, dãy núi Spineridge đã đóng vai trò vô cùng trọng yếu trong lịch sử Ivengard. Trên dãy núi dài ấy có vô số thị trấn quân sự với những con đèo hiểm trở và nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Do đó, dọc theo toàn bộ dãy núi có rất nhiều pháo đài quân sự và điểm du lịch nổi tiếng. Tuy nhiên, điều khiến Spineridge được biết đến nhiều nhất lại nằm ở phần phía nam.
Gần bờ biển ở cực nam của bán đảo, ẩn mình trong Dãy núi Spineridge, có một nơi gọi là Thung lũng Rachel. Tên của thung lũng này nổi danh trên toàn thế giới, khắc sâu trong trái tim của hàng trăm triệu tín đồ. Đây chính là thánh địa linh thiêng và quan trọng bậc nhất của phái Thánh Mẫu thuộc Giáo Hội Ánh Sáng, cũng là đích đến cuối cùng của biết bao người hành hương tôn thờ Thánh Mẫu.
Ở cuối phía nam của Dãy núi Spineridge là một thung lũng tươi tốt và đẹp như tranh vẽ. Giữa hai ngọn đồi xanh tươi là một thung lũng rộng lớn, qua đó một dòng suối trong vắt chảy ra từ sâu trong hẻm núi. Dọc theo hai bên bờ sông, những tấm bia đá phủ đầy rêu và quấn đầy dây leo đứng cách nhau mỗi chục mét, mỗi tấm được khắc những đoạn kinh ca ngợi Thánh Mẫu.
Lướt ngược dòng trên dòng chảy nhẹ nhàng là những chiếc thuyền chèo nhỏ, được điều khiển bằng tay. Trên mỗi chiếc là những người hành hương từ khắp nơi trên thế giới. Sau những chặng đường dài vạn dặm, cuối cùng họ đã đặt chân tới chốn thiêng liêng mà lòng họ hằng khao khát hướng tới.
Ở tận cùng sâu thẳm của Thung lũng Rachel sừng sững Đại Thánh Đường Cứu chuộc, đích đến tối thượng của cuộc hành hương. Truyền thuyết kể rằng nhà thờ Thánh Mẫu vĩ đại này được xây dựng dưới một thác nước, và những dòng nước trong vắt chảy qua thung lũng có nguồn gốc từ chính nơi này. Chặng cuối cùng của mỗi cuộc hành hương là chèo thuyền ngược dòng đến nhà thờ bằng đường nước, và tại đó, họ sẽ hoàn tất các nghi thức cuối cùng của cuộc hành hương của họ.
Lúc này đang là vào cuối tháng Ba, Thung lũng Rachel lại chào đón một làn sóng người hành hương khác. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới, cùng ngồi chung trên những chiếc thuyền nhỏ, ra sức chèo về đích cuối cùng; chẳng bao lâu nữa họ sẽ chạm tới điểm kết thúc của hành trình.
Trong thung lũng Rachel, vô số con thuyền nhỏ đang đồng loạt tiến về phía trước, bắt đầu đoạn đường cuối trong cuộc hành hương của mình. Còn ở lối vào thung lũng, trên quảng trường lát cẩm thạch rộng mênh mông với hàng loạt tháp nhọn khổng lồ sừng sững, số du khách tụ tập còn đông hơn hẳn số người hành hương – họ cùng nhau dừng lại để chiêm bái nơi cửa ngõ của thánh địa..
Để bảo tồn sự thanh tĩnh của thánh địa, không phải ai cũng có tư cách tiến vào thung lũng hành hương. Mỗi ngày của mỗi tháng, chỉ một số lượng giới hạn thẻ thông hành được phát ra, phần lớn chúng được dành riêng cho những cá nhân được giáo hội chỉ định được công nhận là tín đồ sùng đạo. Đối với những du khách bình thường, nơi xa nhất họ có thể đi là quảng trường này, từ đó họ chỉ có thể nhìn về phía thung lũng bên ngoài. Tuy không thể thấy được điều gì thật sự quý giá, nhưng chỉ riêng danh tiếng lừng lẫy của thánh địa cũng đã đủ thu hút rất đông khách tham quan mỗi ngày.
Trên quảng trường rộng lớn, vô số khách tham quan không đủ tư cách hành hương vẫn dạo bước, tò mò ngắm nghía cảnh vật xung quanh. Mặc dù việc tiếp cận Thung lũng Rachel bị hạn chế, nhưng chỉ riêng lối vào thánh địa cũng đủ thu hút ánh nhìn. Bởi danh tiếng quá lớn, nơi này từ lâu đã trở thành một điểm dừng chân không thể thiếu trên mọi tuyến du lịch.
Trung tâm của quảng trường nhộn nhịp, ngay trước pho tượng khổng lồ của Thánh Mẫu, một người đàn ông trông thô ráp đứng với con trai của mình, người có vẻ khoảng mười một hoặc mười hai tuổi. Quần áo đã mòn của họ cho thấy cả hai chẳng thuộc tầng lớp giàu có gì – có lẽ là cha con nhà quê vừa lên. Họ vừa trầm trồ trước pho tượng sừng sững, vừa thì thầm bàn luận về thánh địa
“Bố, bức tượng này to quá! To hơn những bức trong làng… không, thậm chí còn to hơn những bức trong các nhà nguyện thành phố! Bố nghĩ phải cần một tảng đá to như thế nào để tạc bức này? Tại sao họ lại làm nó to như vậy?”
“Ừ, chắc chỉ có thánh địa mới có tượng lớn thế này thôi… Còn về việc tại sao họ lại làm nó lớn như vậy… ta nghĩ có lẽ là tượng càng lớn thì Thánh Mẫu càng thương xót chúng ta chăng?” người đàn ông trả lời, gãi đầu. Rõ ràng từ phong thái của ông rằng, học vấn của ông không đặc biệt cao.
“Vậy tức là, vì nó là một thánh địa, nên nó có một bức tượng to? Vậy tại sao đây lại là một thánh địa hả bố?”
“Ờ… tại sao nó lại là một thánh địa… cái đó thì …”
Câu hỏi rõ ràng đã làm người cha lúng túng. Ông nhíu mày, cố gắng hết sức để đưa ra một câu trả lời, nhưng vốn kiến thức ít ỏi chẳng giúp ông đưa ra lý do rõ ràng nào.
Đúng lúc ấy, một giọng nữ trong trẻo bỗng vang lên không xa bên cạnh hai cha con.
“Bởi vì đây là nơi Thánh Mẫu đã từng giáng trần xuống thế giới trần gian.”
Giật mình, hai bố con quay về phía giọng nói. Ở đó, họ thấy một nữ tu trẻ xinh đẹp khoảng mười lăm hoặc mười sáu tuổi, mặc áo choàng trắng và đeo kính. Cô tiến lại gần họ với một nụ cười dịu dàng.
“Áo trắng… một nữ tu?” người cha lẩm bẩm trong sự ngạc nhiên.
“A! Là một chị sơ! Chị ơi, vậy chị đang nói là, nơi này là thánh địa của Thánh Mẫu vì Người đã từng đến đây sao?” cậu bé hớn hở hỏi, gương mặt ngây thơ không hề có sự gượng gạo hay dè dặt như cha mình.
“Đúng vậy,” nữ tu mỉm cười đáp, “Thánh Mẫu lần đầu tiên giáng trần xuống thế giới trần gian là ngay tại Thung lũng Rachel này. Hơn 1.300 năm Thánh Mẫu vĩ đại và nhân từ đã cùng tổ tiên chúng ta đứng trên mảnh đất Ivengard này để chống lại tai ương từ biển cả ập đến những con dân mà Người hằng thương yêu.”
Đáp lại câu hỏi của cậu bé, nữ tu áo trắng bắt đầu kể lại thần thoại được ghi lại trong kinh sách thánh. Trong mắt đứa trẻ, từng lời rơi xuống đều khơi dậy một tia sáng hiếu kỳ.
“Tai ương từ biển cả… Đó là thứ gì mà đến từ biển cả vậy? Nó có phải là một con sóng khổng lồ không?”
“Không, nó là một thứ đáng sợ hơn nhiều so với một con sóng. Đó là một tà thần, là một trong ba kẻ thù của Chúa, và cũng là một trong ba Con Thú Tai Họa…”
“Kẻ thù của Chúa? Ba Con Thú Tai Họa…” cậu bé thì thầm nhắc lại, ánh mắt càng thêm sáng rực hiếu kỳ. Nữ tu áo trắng thì khẽ xoay người, nhìn về phía Nam, như thể xuyên qua cả chân trời để hướng đến tận cùng biển cả, giọng nàng vang đều, ngân như kinh văn, tiếp tục câu chuyện của mình.
“Đúng thế. Như được viết trong kinh sách thánh, Đấng Cứu Thế từ trong một ánh sáng rực rỡ giáng trần. Trong bốn ngày, Ngài đã bình định mọi miền đất lớn, quét sạch mọi điều ác từ dưới chân chúng ta, trục xuất chúng ra khỏi cõi người. Cũng từ đó, hết thảy sự độc ác của thế gian đều bắt đầu căm ghét Đấng Cứu Thế, chúng liên kết với nhau mở ra cuộc phản công chống lại Ngài. Trong số đó, hùng mạnh nhất chính là Ba Con Thú Tai Họa.
“Một con thú trong số đó từ phía nam mà đến – từ biển sâu nổi lên. Nó là một con cái, là hiện thân của tham lam, nhơ nhớp và dâm loạn.
“Tham lam – bởi bụng nó vĩnh viễn trống rỗng, luôn ngấu đói. Nơi nó bước qua, mọi sinh linh động đậy đều bị nuốt sạch. Biển đã cạn nguồn nuôi nó, nó liền bò lên bờ để ăn cả đất liền.
“Nhơ nhớp – bởi nó bẩn thỉu đến mức hơi thở của nó lan truyền một mùi hôi thối trên hàng ngàn dặm. Những người hít phải hơi thở của nó sẽ mắc bệnh hiểm nghèo, quằn quại trong đau đớn. Chưa cần nó đặt chân đến bờ, các dịch bệnh đã tràn lan khắp dải đất ven biển.”
“Dâm loạn – bởi nó vừa là kẻ đẹp nhất, vừa là kẻ ghê tởm nhất. Nó quyến rũ vô số sinh vật hùng mạnh, bắt họ trở thành nô lệ của nó. Trong bụng nó lúc nào cũng mang thai hàng trăm, hàng ngàn dị vật; nó sinh nở không ngừng, đẻ ra từng bầy tay chân. Nó vừa là Con Thú Tai Họa, vừa là Mẹ của Tai Họa.”
“Con thú cái ấy từ vực sâu ngoài biển Nam mà đến. Đại dương cúi mình trước nó; biển bị nó biến thành máu đỏ tươi. Trong biển máu, nó dấy lên những ngọn sóng khổng lồ nhấn chìm vô số vùng đất, cùng thủy triều đỏ thẫm tiến về phương Bắc, tiến tới thách thức Đấng Cứu Thế trên Thánh Sơn. Thủy triều đỏ nhấn chìm đất liền; nó và bầy con cùng nhau nuốt trọn sự sống, nơi nó đi qua chẳng còn gì sót lại.”
Nữ tu mặc áo trắng nói khi cô nhìn về phía chân trời phía nam, như thể cô có thể nhìn thấy chính hướng mà Con Thú đã từng đến. Người cha và cậu con trai lắng nghe chăm chú, đặc biệt là cậu bé, dường như bị cuốn hút hoàn toàn.
“Thật là một con quái vật đáng sợ… Thế rồi sau đó thì sao? Đấng Cứu Thế có đánh bại nó không?”
Nữ tu mỉm cười nhẹ nhàng và tiếp tục câu chuyện của mình.
“Có ba Con Thú, chúng từ ba phương hướng kéo đến: con thú phương Nam, con thú phương Tây, và con thú phương Bắc cùng nhau tấn công Thánh Sơn. Chúng thề phải hủy diệt hết thảy những gì mà Đấng Cứu Thế đã cứu rỗi. Đấng Cứu Thế đứng trên Thánh Sơn, nhìn thấy tai ương khổng lồ cùng lúc nổi lên từ ba hướng, bèn hóa thành ba tia sáng, mỗi tia bay về một hướng. Một trong những tia sáng đó bay về phía nam và giáng xuống một thung lũng, rồi ánh sáng ấy hóa thân thành một người phụ nữ xinh đẹp và nhân từ. Đây chính là Thánh Mẫu.
“Thánh Mẫu đã hiển linh giáng trần tại thung lũng Rachel này, chặn đứng đường tiến về phía Bắc của con thú phương Nam. Người dùng sức mạnh cứu rỗi nhân loại đang bị dịch bệnh của con thú hành hạ, cứu rỗi những kẻ nô lệ bị con thú mê hoặc, gột rửa biển cả đã nhuốm đỏ bởi sự nhơ nhớp của nó. Thánh Mẫu đánh bại con thú phương Nam cùng lũ con ô uế của nó, hoàn toàn xua đuổi tàn dư của chúng khỏi thế giới này. Đó cũng là nguyên do vì sao thung lũng Rachel trở thành Thánh địa của Thánh Mẫu.”
Nữ tu áo trắng tiếp tục chăm chú kể lại câu chuyện trong Thánh điển. Nghe xong, cậu bé đứng bên cạnh tròn xoe đôi mắt, chớp chớp liên hồi. Sau khi ngẫm nghĩ một lát, cậu bé hào hứng nói:
“Ồ… thì ra là vậy? Thánh Mẫu từng giáng lâm tại nơi này, đánh bại con thú tà ác, cho nên đây mới trở thành thánh địa thiêng liêng. Cuối cùng em cũng hiểu rồi! Cảm ơn chị, chị sợ!”
“Haha… thật nhờ có cô giải thích đấy, thưa sơ. Chúng tôi đều là người nhà quê, chẳng học hành gì, con trai muốn hỏi mà tôi cũng chẳng biết trả lời thế nào. Hôm nay đúng là mở mang tầm mắt…” người đàn ông bên cạnh, cũng là cha của cậu bé, cười đáp. Sau khi nghe lời hai cha con, nữ tu áo trắng mỉm cười ôn hòa đáp lại
“Không sao đâu. Nếu trên thế giới này vẫn còn một người chưa từng nghe đến sự tích của Chúa, thì chúng tôi phải truyền đạt lại cho họ. Đó chính là bổn phận của chúng tôi, tôi chỉ đang làm tròn trách nhiệm mà thôi.”
“A… vậy sao? Quả thật sơ là một tín đồ mộ đạo.”
Kể xong câu chuyện về Thánh Mẫu, hai cha con liền chào tạm biệt nữ tu áo trắng để tiếp tục tham quan nơi khác. Trên hiện trường, chỉ còn lại một mình nữ tu đứng đó, vừa ngước nhìn về phía Nam xa xăm, vừa âm thầm suy nghĩ điều gì đó.
“Câu chuyện về lần đầu tiên Thánh Mẫu giáng trần để chiến đấu với Con Thú phương Nam… Mình đã đọc nó trong kinh sách thánh nhiều lần trước đây. Từng tin vào nó không chút nghi ngờ. Nhưng bây giờ, khi ôn lại nó, trong lòng lại mang những cảm giác mới, phức tạp hơn.”
“Chưa bàn đến phương diện của Thánh Mẫu, riêng miêu tả về con thú phương Nam trong Kinh Sách Thánh đã không thể không khiến người ta liên tưởng đến Mẫu Thân của Chén Thánh… Vị thần tối cao được Giáo phái Afterbirth tôn thờ. Có quá nhiều chi tiết trùng lặp. Liệu con thú phương Nam thực sự có thể là Mẫu Thân của Chén Thánh không?
“Nhưng nếu đúng là như vậy, thì câu chuyện trong kinh sách thánh tuyên bố rằng Thánh Mẫu—một vị thần tạp sắc—lại đánh bại Mẫu Thân của Chén Thánh, một vị thần thuần sắc sao? Điều đó, theo lý thuyết mà nói, là không thể xảy ra… Theo lời tiểu thư Dorothea, các vị thần thuần sắc phải là những sinh vật cao hơn so với những vị thần tạp sắc. Vậy thì, làm thế nào mà Thánh Mẫu lại đánh bại con thú phương Nam? Hay là… lịch sử chân thực, thực ra chẳng hề giống với những gì kinh sách đã ghi lại?”
Vẫn nhìn chằm chằm về phía chân trời phía nam—hướng mà Con Thu Phương Nam được cho là đã đến—Vania miên man suy nghĩ, cho đến khi một cảm giác kỳ lạ bắt đầu len lỏi vào cô.
“A… khoan đã. Tại sao mình lại nghi ngờ nội dung của kinh sách thánh chứ? Thậm chí còn đặt câu hỏi về sức mạnh của Tam Ngôi? Kể từ khi nào mình bắt đầu nghĩ rằng Thánh Mẫu lẽ ra không thể đánh bại Con Thú Phương Nam? Đây là những sự thật vốn không thể nghi ngờ, những câu chuyện mà chúng ta phải tin một cách vô điều kiện—Vậy mà mình lại bắt đầu dao động?
“Thật là bất kính quá, Vania ơi…”
Tự gõ nhẹ vào trán, Vania tự trách mình nội tâm. Trong giáo lý của Giáo Hội Ánh Sáng, những gì được viết trong kinh sách thánh là điều tuyệt đối – không cho phép chất vấn, càng không thể dùng lý tính để mổ xẻ. Vậy mà trong lòng cô bắt đầu phân tích nó một cách lý trí. Cô thậm chí đã bắt đầu đặt câu hỏi về cấp độ sức mạnh của chính Tam Ngôi—những suy nghĩ hoàn toàn không phù hợp với một nữ tu.
“Hmm… chắc dạo gần đây mình nói chuyện với tiểu thư Dorothea nhiều quá. Dần dần, bị ảnh hưởng ít nhiều từ cô ấy rồi chăng? Cô ấy luôn có cái thói quen phân tích đủ thứ, dù cho đó là Thần thánh cũng không ngoại lệ …
“Vậy có lẽ mình nên hạn chế các cuộc trò chuyện của mình với tiểu thư Dorothea trong một thời gian và tập trung vào việc tu dưỡng một trái tim sùng đạo hơn… Nhưng nếu mình ngừng nói chuyện với cô ấy, trong cả Giáo hội này mình thật sự biết tìm ai để thật sự giãi bày tâm sự đây? Lạy Chúa, con phải làm gì đây…”
Đứng trước bức tượng khổng lồ của Thánh Mẫu, Vania mang theo tâm tình rối ren ấy mà thầm khấn nguyện. Chính vào lúc đó, một giọng nói đột nhiên vang lên sau lưng cô.
“Sơ Vania, vậy ra sơ ở đây.”
Quay lại theo tiếng nói, Vania thấy một giáo sĩ lớn tuổi đang đi về phía mình. Khi thấy ông, cô ngay lập tức đáp lại.
“A, Cha Volka, ngài đang tìm con sao?”
“Vâng,” vị giáo sĩ nói.
“Nhóm thuyền cuối cùng gần như đã sẵn sàng. Sơ Vania, chúng ta có thể đi đến bến tàu bây giờ và chuẩn bị cho việc khởi hành. Các công tác chuẩn bị cho buổi lễ của sơ tại nhà thờ đã hoàn tất—chúng ta chỉ còn chờ sơ .”
Nghe điều này, Vania hơi ngạc nhiên.
“Eh… buổi lễ đã sẵn sàng rồi sao? Nhanh vậy. Con còn tưởng nó sẽ không được tổ chức cho đến sau khi cuộc hành hương kết thúc chứ.”
Vania bày tỏ sự bối rối của mình, Volka giải thích.
“Ban đầu đúng là như vậy. Nhưng bây giờ sơ là người truyền giáo Phúc âm được giao nhiệm vụ khai sáng Hạ Thụ, nên chuyến hành hương này có thêm nội dung thúc đẩy việc cải đạo của Hạ Thụ. Sơ sẽ đóng một vai trò trung tâm và đặc biệt hơn trong cuộc hành hương này, vì vậy cấp bậc của sơ không thể quá thấp. Đó là lý do tại sao chúng tôi quyết định đẩy nhanh nghi thức thăng cấp của sơ.”
“Mọi sự chuẩn bị cần thiết đã được hoàn tất, và mọi điều kiện đã được đáp ứng ở mức cao nhất. Giờ chỉ còn thiếu sự hiện diện của sơ thôi, vậy nên đừng chần chừ nữa.”
Sau khi lắng nghe lời của Volka, Vania gật đầu và trả lời.
“À… vâng, con hiểu rồi. Vậy chúng ta đi thôi.”
Và thế là, Vania đi theo Volka đến bến thuyền ở cửa thung lũng. Sau khi lên một chiếc thuyền nhỏ đã được chuẩn bị trước, họ chèo vào Thung lũng Rachel, đi ngược dòng về phía sâu của nó.
Trên thuyền, Vania chèo thuyền một cách tượng trưng trong khi chiêm ngưỡng những tấm bia đá xếp dọc hai bên bờ sông và phong cảnh đẹp. Sau hơn một tiếng đồng hồ xuôi ngược dòng nước, chiếc thuyền cuối cùng đã tiến đến phần sâu nhất của thung lũng.
Ở cuối thung lũng một dòng thác lớn đổ từ giữa hai ngọn núi, bọt tung trắng xóa. Dưới chân thác là một nhà thờ lớn bắc ngang qua sông, như thể được xây dựng trên một cây cầu khổng lồ. Hai bên nhà thờ là những công trình tôn giáo dày đặc. Vania nhận ra, đây hẳn là Đại Thánh Đường Cứu chuộc của Thung lũng Rachel.
Đến cuối thung lũng, Vania mong đợi chiếc thuyền sẽ dừng lại. Nhưng bất ngờ thay, con thuyền không hề ngừng mà tiếp tục tiến về phía trước. Qua dưới chân cây cầu nơi nhà thờ lớn bắc ngang sông, con thuyền còn lao thẳng tới dòng thác khổng lồ phía trước. Vania cảm thấy lo lắng trước hiện tượng này, nhưng Volka lại trấn an cô.
“Đừng lo lắng, Sơ Vania. Chúng ta đang đi về phía Đại Thánh Đường Cứu chuộc thật sự. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
“Đại Thánh Đường… Cứu chuộc thật sự?”
Nghe lời của Volka, Vania cố gắng dẹp bỏ sự bất an của mình và nhìn chiếc thuyền đi vào dòng nước đổ xuống. Cô nhận thấy rằng chiếc thuyền đang di chuyển một cách đều đặn. Ngay cả khi cô không chèo, nó vẫn lướt đi một cách êm đềm qua dòng chảy hỗn loạn.
Khi họ đi qua dưới thác nước, Vania kinh ngạc khi thấy rằng dòng nước bằng cách nào đó đã tách ra—dòng nước đổ xuống chuyển hướng xung quanh chiếc thuyền nhỏ của họ. Không một giọt nào rơi vào bên trong. Giáo phục của cô vẫn khô ráo hoàn toàn. Cứ thế, cô đã đi qua thác nước và đi vào một hang động được chiếu sáng dịu dàng.
Bên trong hang động dài, hẹp, được chiếu sáng bởi những ánh đèn rải rác, chiếc thuyền trôi nổi trên một con sông ngầm. Sau khoảng hai mươi phút, họ đi qua một lối đi nhỏ và đi vào một không gian rộng lớn, mở.
Bên ngoài hang động như một thế giới khác: một thung lũng rộng rãi, màu mỡ. Trong mắt Vania, những dòng suối trong vắt chảy từ vùng cao nguyên xa xôi. Cây cối xếp hàng dọc hai bên bờ sông, vô số bông hoa nở rộ giữa bãi cỏ, và nhiều loài động vật hoang dã, trông giống như hươu, uống nước một cách bình tĩnh ở rìa nước.
Ở cuối con sông là một nhà thờ giống như một pháo đài lớn—lớn hơn và lộng lẫy hơn ba hoặc bốn lần so với nhà thờ bên ngoài. Các tháp chuông cao vút trên thung lũng, và tiếng chuông du dương của chúng vang vọng khắp thánh địa ẩn. Phía sau nhà thờ là một cái cây khổng lồ, thân của nó rộng hơn một trăm mét, vươn thẳng lên trời. Tán lá rộng lớn của nó che khuất bầu trời, che bóng gần một nửa thung lũng bên dưới.
Nhìn thấy cái cây khổng lồ này, Vania đứng sững sờ—không chỉ trong sự choáng ngợp, mà còn trong sự ngạc nhiên.
Thực ra cô đã từng thấy những cây đại thụ tương tự ở những nơi khác. Phải, trên Đảo Hạ Thụ, tại Khu Lễ hội Tán Cây Sung Túc dường như có một cái cây tương tự… chỉ là, cây thiêng ở đây trong thánh địa của Thánh Mẫu lớn hơn nhiều.


0 Bình luận