Một Ngày Của Tôi Có 48 Gi...
Tiểu ngốc chiêu - 小呆昭
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 10 : Bakumatsu Kyoto (Đặc biệt)

Chương 05 : Chọn Nhà

0 Bình luận - Độ dài: 1,907 từ - Cập nhật:

Sau sự kiện Hắc Thuyền, Mạc phủ Edo đã buộc phải ký hiệp ước Kanagawa với người Mỹ, mở cửa hai cảng Shimoda và Hakodate. Đến năm Ansei thứ năm, dưới triều Thiên hoàng Kōmei, hai bên lại ký Hiệp ước Thương mại và Hữu nghị Nhật - Mỹ ngay trên soái hạm Powhatan, mở thêm các cảng như Kanagawa, Nagasaki, Niigata, Hyogo, đồng thời cho phép người nước ngoài ở lại buôn bán tại Edo và Osaka.

Kyoto tuy không nằm trong danh sách này, nhưng chỉ cách Osaka một ngày đường, nên thực tế chịu ảnh hưởng chẳng kém. Gần mười năm đã trôi qua kể từ bản hiệp ước, sau biến cố Kimmon no Hen (Cấm Môn), phe lật đổ Mạc phủ đã bỏ dần khẩu hiệu "Tôn Hoàng, nhương di", đổi sang chủ trương chỉ "Tôn Hoàng, đảo Mạc", không còn nhắc đến chuyện trục xuất ngoại bang nữa mà trái lại còn tích cực hợp tác cùng phương Tây. Vì thế, tầm hoạt động của người Tây dương ở Nhật Bản cũng ngày càng mở rộng.

Sông Yodo mạch máu quan trọng bậc nhất vùng Kansai bắt nguồn từ hồ Biwa, nối liền bồn địa Kyoto với đồng bằng Osaka. Thời Edo, Yodogawa là tuyến vận tải chủ lực của Kyoto. Phần lớn thương nhân Tây dương tại Osaka đều men theo dòng sông này mà tiến vào cố đô Kyoto. Trương Hằng sau khi dò hỏi một vài tiểu thương ven đường, đã tìm được bến thuyền gần nhất và kịp đến nơi trước lúc mặt trời khuất núi.

Khung cảnh nơi đây náo nhiệt chẳng thua kém gì một khu chợ phố lớn. Hai bên bờ sông san sát những dãy nhà phố Machiya, biểu tượng đặc trưng của Kyoto thời Edo. Mái ngói uốn cong, phủ sắc trầm mộc mạc mang tinh thần wabi-sabi, xếp thẳng hàng như thể đã ngủ yên cùng năm tháng. Biển hiệu gỗ treo trước cửa, chữ viết bằng bút lông đen bóng, còn những tấm rèm vải noren in họa tiết gia huy thì khẽ đung đưa theo gió chiều.

Tầng một là những khung cửa gỗ hiki-do trượt ngang, phía ngoài gắn song cửa hít nổi, tạo nên nhịp điệu hoa văn vừa cứng cáp vừa tinh tế. Lên đến tầng hai, nổi bật là những khung cửa sổ mushikago-mado kiểu cửa lồng côn trùng, những song dọc mảnh ghép kín, khiến người ngoài khó nhìn vào nhưng từ bên trong lại có thể quan sát rõ phố phường.

Kiểu kiến trúc này được dựng hoàn toàn bằng gỗ, mặt tiền hẹp nhưng chiều sâu hun hút, như thể cả ngôi nhà vươn dài vào tận bóng tối phía sau. Phần giáp đường thường mở thành cửa hàng buôn bán: quán trà, tiệm rượu sake, hàng may kimono hay cửa hàng văn phòng tứ bảo. Những phòng phía sau và tầng trên dành cho sinh hoạt gia đình. Chính cách xây ấy tạo nên một thành phố mà cửa tiệm chen chúc sát nhau, không kẽ hở, khiến cả con phố trở thành một mạch sống thương mại không ngừng chảy.

Ở bến cảng, có những người lái thuyền đang bốc dỡ hàng, và những phu nhân, tiểu thư chuẩn bị đi thuyền du sông. Không xa có một ngôi đền Thần đạo, bên ngoài có nhiều tín đồ đang cầu nguyện hoặc xin bùa hộ mệnh.

Trương Hằng không mất nhiều thời gian để tìm được một thương nhân phương Tây cần người phiên dịch. Đó là một người Pháp tên Gabriel, đi cùng một thương đoàn đến Kyoto để thương thảo một lô bông sợi. Song hiển nhiên ông ta không thỏa mãn với mớ buôn vải đơn điệu, còn ẩn giấu mưu tính khác, nhưng không tiện nói cho những người trong thương đoàn biết, nên cũng không thể dùng phiên dịch chính thức.

Đang lúc lo lắng không biết tìm người biết tiếng Pháp ở đâu, Trương Hằng đã tự tìm đến. Gabriel mừng rỡ, phất tay, hứa trả ngay cho cậu một ngày một Ryō (小判, Koban), một loại tiền vàng thời Edo. Một Koban tương đương với một lượng vàng. Một lượng vàng đổi được 60 lượng bạc, hay 4 kan tiền đồng tương đương 4.000 mon. Trong khi đó, thu nhập một ngày của thợ thủ công ở Kyoto chỉ chừng 70 mon một ngày. Nói cách khác, một ngày lương của Trương Hằng gần bằng thu nhập hai tháng của một thợ thủ công.

Trương Hằng không phải không biết gì về thị trường phiên dịch. Trước khi đến, cậu đã hỏi người ở bến tàu. Hiện tại, Nhật Bản đang thiếu nhân lực phiên dịch, nhưng cũng không hiếm như trước sự kiện Hắc Thuyền. Ngay cả khi Mạc phủ thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, những phiên trấn lớn như Satsuma, Choshu vẫn ngấm ngầm buôn bán với nước ngoài.

Súng hỏa mai Nhật Bản có nguồn gốc từ phiên Satsuma. Một chiếc thuyền buôn của Bồ Đào Nha đã bị bão thổi dạt vào đảo Tanegashima phía nam thuộc phiên Satsuma, nên súng hỏa mai Nhật Bản còn được gọi là Tanegashima Teppō. Từ đó, súng hỏa mai du nhập và lan khắp Nhật Bản.

Giờ đây, việc thông thương đã hơn mười năm, không ít người Nhật còn được gửi sang Âu châu du học. Phiên dịch đã không còn đắt đỏ như trước nữa.

Thế nhưng mức giá Gabriel đưa ra vẫn cao gấp đôi giá thị trường, lại còn trong khi hai bên chỉ mới gặp mặt. Trương Hằng thậm chí yêu cầu được ứng trước một koban, vậy mà Gabriel vẫn gật đầu chẳng chút chần chừ. Từ đó, Trương Hằng hiểu rằng vị thương nhân Pháp kia ở Kyōto chắc chắn không chỉ định buôn sợi vải.

Với kỹ năng đao pháp cấp 3 và kinh nghiệm từ các phó bản trước, Trương Hằng không quá lo lắng về nguy hiểm. Huống chi lúc này trời đã sụp tối, khó mà tìm ngay được một chỗ làm thuê khác. Thế là, cuối cùng cả hai bên đều thuận thỏa.

Gabriel ứng trước cho Trương Hằng một koban, dặn sáng mai gặp tại trà ốc bên bến thuyền. Đến khi Trương Hằng rời khỏi bến, màn đêm đã hoàn toàn buông xuống.

. . .

Trương Hằng ăn thêm một bữa trước khi vào phó bản nên không đói lắm, nhưng cậu phải tìm chỗ ở ngay.

Trong thời kỳ Edo, để kiểm soát chặt chẽ các daimyō hay các lãnh chúa phong kiến khắp các phiên quốc, Mạc phủ đã đặt ra một chế độ đặc biệt gọi là Sankin-kōtai (参勤交代 – "phiên cần giao đại"). Theo đó, mỗi daimyō định kỳ phải rời lãnh địa của mình, đến Edo để thay mặt Mạc phủ, tướng quân tham dự chính sự.

Tất nhiên, đó chỉ là cái cớ bề ngoài. Mục đích thực sự là để Mạc phủ buộc các daimyō phải "chạy đi chạy lại", vừa tiêu tốn tài lực vào việc di chuyển đoàn tùy tùng đông đảo, vừa giảm bớt thời gian họ có thể ở lại cai quản lãnh địa. Nhờ vậy, daimyō khó lòng tích trữ thế lực riêng. Hơn nữa, mỗi lần trở về Edo, nếu có dấu hiệu làm càn tại lãnh địa, họ hoàn toàn có thể bị tướng quân "hỏi tội" ngay trong đợt kế tiếp.

Tuy nhiên, nhà Tokugawa cũng không phải quá cay nghiệt. Dọc đường, Mạc phủ cho xây dựng dày đặc shukuba những trạm dừng chân chính thức. Ban đầu chỉ là chỗ thay ngựa, nghỉ tạm, về sau dần dà mọc lên hatagoya (lữ quán), chuyên lo chuyện ăn ở cho khách đường xa. Một đêm ở hatagoya thường kèm theo hai bữa cơm đơn sơ: chút gạo trắng, canh miso nóng, vài lát cá khô. Phần lớn nơi đây giản dị, song cũng có quán trọ thuê hẳn người hầu để săn sóc việc vặt cho lữ khách.

Những nhà trọ sang trọng hơn thì gọi là ryokan. Khác với hatagoya bình dân, ryokan được dựng tinh tế bằng gỗ, phòng trải chiếu tatami, khách được thay yukata, tắm bồn chung, dùng bữa cầu kỳ kiểu kaiseki. Đó là chốn dành cho các võ sĩ, thương nhân giàu có, những kẻ ưa phong lưu. Dĩ nhiên, nếu khách có tiền, chủ quán cũng sẵn lòng mời đến vài geisha từ hanamachi gần đó để đàn hát, chuyện trò, rót rượu làm vui. Nhưng geisha là nghệ nhân, không phải gái bán hoa đó là giới hạn rạch ròi ai cũng hiểu.

Chỉ có điều, đến những năm cuối Mạc phủ, khi khách du lịch ngày càng đông, thị trường hỗn tạp khiến nhiều ryokan và hatagoya bắt đầu trượt dốc. Có nơi biến thành ổ bạc, có nơi lén lút chứa gái điếm trá hình dưới danh nghĩa "nữ hầu". Giữa ánh đèn dầu leo lét và tiếng xúc xắc lách cách, không ít quán trọ đã thôi là nơi nghỉ ngơi, mà trở thành chốn ăn chơi sa đọa của cả một thời kỳ đang mục ruỗng.

Sau đó, giới thương nhân Ōsaka đã đứng ra tổ chức Naniwa-kō một hiệp hội nghề nghiệp của các chủ quán trọ. Họ thống nhất quy chuẩn dịch vụ, đặt ra luật lệ và cùng nhau giữ uy tín. Thế nên, bất cứ lữ khách nào khi đi đường, chỉ cần thấy biển hiệu của hội treo trước cửa quán trọ, là có thể yên tâm dừng chân qua đêm.

Tuy vậy, đối với Trương Hằng, hatagoya hay Naniwa-kō đều chỉ là chỗ tạm bợ. Xét đến việc phó bản lần này hẳn sẽ kéo dài, cậu muốn thuê hẳn một căn nhà cho riêng mình. Thấy vẫn còn thời gian, Trương Hằng liền tìm một yashi tức môi giới nhà đất nhờ dẫn đi xem.

Yashi là một cậu bé mười bốn, mười lăm tuổi, trông rất lanh lợi. Cậu bé là người địa phương, rất thạo tin, biết rõ mọi chuyện của các gia đình. Trương Hằng trả cho cậu ta một trăm mon, và hứa sẽ trả thêm một trăm mon nữa nếu hài lòng. Cậu bé phấn chấn hẳn, không thèm ăn tối, dẫn Trương Hằng đi khắp các con phố.

Nhưng vài căn nhà cậu giới thiệu ở những vị trí đắc địa nhất đều chẳng hợp nhãn. Hai người càng lúc càng đi xa, phải thắp đèn lồng soi đường. Trương Hằng cũng đã định thôi, để ngày mai xem tiếp. Nhưng đến khi dừng chân tại một ngôi nhà cuối cùng, cảnh tượng trước mắt khiến cậu chợt sáng bừng trong lòng.

Ngay từ cổng bước vào đã là một tiểu viện. Giữa sân có một cây anh đào, hoa đã nở tàn song cành lá vẫn buông rủ lộng lẫy. Dưới gốc là một giếng nước trong vắt. Bố cục cả viện vuông vức, thanh nhã. Kéo cánh cửa shoji ra, gian zashiki (Gian phòng chính trải tatami, dùng tiếp khách, ăn uống, nghỉ ngơi) rộng rãi thoáng đãng, bên cạnh còn có một chashitsu (Phòng trà riêng biệt hoặc liền kề phòng khách) để uống trà. Đồ đạc cũng rất đầy đủ. Theo ngôn ngữ hiện đại, đây là một căn nhà có thể dọn vào ở ngay.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận