Vol 2: Con mắt của kẻ điệu vong
Màn 16: It’s a Beautiful Day - Phần 1-2
0 Bình luận - Độ dài: 5,043 từ - Cập nhật:
Nắng sớm chiếu lên mặt đường lát đá xanh ở phố Lưu Ly Xưởng.
Một chiếc xích lô đang bon bon chạy, hai bên đường là những dãy nhà cổ xây bằng gạch xanh, trước mỗi cửa tiệm đều treo bảng hiệu nền đen chữ vàng như “Bảo Thúy Đường”, “Sùng Văn Phủ”.
“Hồi triều Thanh, chỗ này là nơi các sĩ tử trọ lại để đi thi, nhiều nhất là mấy cửa hàng bán giấy mực. Lông bút của ‘Đái Nguyệt Hiên’, bút vẽ của ‘Lý Phúc Thọ’, giấy Nam của ‘Thanh Bí Các’, mực tàu của ‘Nhất Đắc Các’, toàn là thương hiệu trăm năm đấy! Mấy tiệm bán đồ cổ cũng nhiều, từng nghe đến 'Cấp Cổ Các’ chưa? Phố này toàn là bảo bối. Tôi lớn lên ở đây, hồi xưa đi dạo chơi cũng có thể lụm được đồ gốm đời Tống ngay từ mấy cái sạp bên đường…”
Bác tài đạp xích lô vừa thở phì phò vừa hăng hái kể, nước miếng văng tứ tung.
“Giờ thì chủ yếu là để dụ mấy ông Tây ngây thơ chứ gì?”
Người khách ngồi ghế sau cười nhạt, nói một câu đầy ẩn ý.
“Ái dà mẹ ơi, bác phục cậu thật! Nghe giọng là biết cậu người Hà Nam rồi!”
Bác tài vỗ đùi cái bốp.
“Có lẽ… vì giáo viên dạy tiếng Trung của tôi là người Hà Nam…”
Vị khách đáp, giọng có phần tiếc nuối.
Chiếc xích lô chạy qua cổng lớn của “Hoa Hạ Thư Họa Xã”, bảng hiệu sơn son thếp vàng khắc hoa tinh xảo, rồi dừng lại trước một ngõ nhỏ ngoằn ngoèo.
Bác tài nghiêng người bước xuống xe:
"Tới rồi. Nhưng tiệm trong mấy cái hẻm thế này thì chẳng có món nào ra hồn đâu. Với lại không quẹt thẻ được đâu nhé, Visa, MasterCard, American Express,” bác phẩy tay, “vô tác dụng hết.”
“Tiếng Anh ghê phết nhỉ, nghe giọng giống dân Texas ấy.”
Người khách bật cười.
Bác tài cũng phá lên cười, hai người đã đùa qua đùa lại suốt cả chuyến đi.
Người khách trẻ tuổi ung dung bước xuống xe.
Anh mặc một chiếc áo dài Trung Hoa màu lam, tay áo trắng cuộn lại rộng khoảng một tấc, quần dưới là kiểu quần casual hiện đại, chân đi đôi giày bông kiểu Bắc Kinh.
Mái tóc vàng óng như nắng, đôi mắt xanh biếc như mặt biển.
Anh đứng đó, giữa phố xá, trông không khác gì “con cừu non” đợi bị chém.
Lập tức, từ mấy cửa tiệm nhảy ra vài “hảo hán” tinh mắt, ai cũng muốn lôi vị khách Tây này về cửa hàng nhà mình.
Nhưng anh chẳng mảy may để ý, chỉ mở một chiếc quạt giấy trắng in dòng chữ “Không đến Vạn Lý Trường Thành chẳng phải hảo hán”, rồi thong thả đi vào con ngõ hẹp sâu hun hút, nơi ánh mặt trời cũng không len nổi vào.
Tấm bảng hiệu “Phượng Long Đường” đã cũ, treo vắt vẻo trên cửa tiệm nhỏ.
Trước cửa là một tấm rèm vải bông màu xanh đậm.
Đây là gần cuối hẻm rồi, dân chơi đồ cổ thường sẽ không mở tiệm ở nơi vắng vẻ thế này.
Anh vén rèm bước vào.
Chuông đồng trên cửa khẽ vang lên, nhưng bên trong không có ai ra tiếp.
Quầy hàng trống trơn.
Cửa tiệm vẫn giữ kiểu cửa sổ dán giấy cũ kỹ.
Ánh sáng lọt qua mờ ảo, trong không khí lơ lửng những hạt bụi lấp lánh.
Căn phòng bày la liệt bàn gỗ dài ngắn, thùng gỗ to nhỏ, có vẻ đều là đồ cũ.
Trên kệ có sách đóng chỉ, tam thái sứ đời Đường, nghiên mực, bát rửa bút… đủ loại, nhìn chẳng ra là bán thứ gì cụ thể.
Trên tường còn treo cả một bộ áo cưới màu đỏ chói.
Căn phòng này thoạt nhìn như đã bị thời gian phong ấn, mấy chục năm chưa có ai đặt chân vào.
Chỉ còn những “tinh linh bụi bặm” là đang nhảy múa trong không khí như thể chúng là chủ nhân thực sự của nơi này.
Người khách chậm rãi đi một vòng, hít một hơi mùi trầm hương nồng nàn trong không khí, cuối cùng dừng lại trước bộ áo cưới đỏ.
Bộ áo làm từ lụa hồ thượng hạng, viền tơ dệt tỉ mỉ, đính hoa văn phượng hoàng bằng giấy vàng, cúc ngọc trai xen lẫn miếng thủy tinh màu.
Nó được treo căng trên tường, còn có người đã vẽ một khuôn mặt cô dâu nhìn nghiêng bằng bút mực ngay cạnh, nét vẽ phóng khoáng, nhưng lại toát lên nét yêu kiều.
Như thể một cô gái có ánh mắt mê hoặc vừa khẽ quay đầu cười với bạn.
“Đây là lễ phục cưới của quý tộc Mãn Thanh, dáng áo chuẩn là kiểu sườn xám truyền thống, vạt áo rộng, váy dài quét đất, bên trong mặc quần. Chứ không phải kiểu sườn xám hở tay hở chân như bây giờ đâu.”
Một giọng trầm ấm vang lên từ phía sau.
“Ông là Lâm Phượng Long?”
Người khách không quay đầu lại.
“Còn cậu là Caesar Gattuso? Trẻ thật đấy.”
Người đàn ông đáp.
Caesar quay người lại.
Dù đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng khi thấy người đàn ông kia, anh vẫn không khỏi sững sờ.
Chủ tiệm nói tiếng Bắc Kinh rặt, nhưng lại là một người châu Âu chính hiệu:
Tóc hoa râm, mắt xám sắt, khuôn mặt gầy nhưng vẫn thấy được nét phong lưu thời trẻ.
Ông mặc một chiếc sơ mi vải tre, tay đang xoay hai quả cầu sắt, tay còn lại xách túi ni-lông đựng… một phần bánh kẹp trứng nóng hổi.
“Giới thợ săn các ông đúng là đủ thể loại quái nhân.”
Caesar liếc nhìn ông từ đầu đến chân, ánh mắt tò mò lẫn chút nghi ngờ.
“Ngành này nước sâu lắm, tôi còn thuộc dạng bình thường đấy.”
Ông chủ nhếch môi cười nhạt.
“Vừa đi mua bữa sáng về, ăn cùng chứ?”
“Thôi khỏi, sáng nay thử uống món 'nước đậu’ gì đó, suýt nữa ói luôn.”
Caesar nhăn mặt, như thể mùi vị chua ngắt của món ấy vẫn còn đọng lại đâu đó trong ký ức.
“Nôn rồi thì uống chút trà đi. Ở đây tôi có trà Thu Thiết Quan Âm hái từ cây cổ thụ, vị sâu lắm.”
Ông chủ dẫn Caesar đến một góc cửa tiệm, nơi có chiếc bàn trà làm từ gốc cây nguyên khối, trên bàn bày đủ bộ ấm chén bằng sứ xanh ngọc.
Cả hai ngồi đối diện.
Ông chủ tay thoăn thoắt nhóm bếp, nấu nước, tráng chén, pha trà.
Bộ trà cụ trong tay ông cứ như đang nhảy múa, động tác lưu loát đến mức khiến người ta không rời mắt nổi.
Mùi trà nhàn nhạt thoảng trong không khí.
Cuối cùng, một chén trà nhỏ, nước bốc khói nghi ngút, được đặt trước mặt Caesar.
Caesar nhấp nhẹ hương trà, khẽ gật đầu:
“Ông sống ở Trung Quốc nhiều năm rồi à?”
“Tôi là người Hà Nam mà.”
Ông chủ đáp tỉnh bơ, chẳng chút do dự.
Caesar cau mày:
“Ông có thể soi gương nhìn cái mặt trắng bóc ghi rõ hai chữ ‘người Aryan’ rồi hãy nói mấy câu kiểu này được không?”
“Cha mẹ tôi là người Đức, bị kẹt lại Trung Quốc từ thời Thế chiến thứ hai. Không may cả hai đều qua đời sớm, tôi được một cặp vợ chồng người Hà Nam nuôi lớn.”
Ông chủ chậm rãi kể rồi bất ngờ đập đùi một cái:
"Tôi cũng không đến mức bài xích nguồn gốc Đức của mình đâu… chỉ là tiếng Đức đúng là cái thứ khốn khiếp, học mãi méo nổi một câu!”
Caesar bật cười, gật gù:
"Một người Ý và một người Đức ngồi đây tán chuyện bằng giọng Hà Nam… thú vị thật đấy. Nhưng tôi tới đây không phải để uống trà.”
Anh đặt tách xuống, rồi lấy từ túi áo một phong bì dày cộp, đặt ngay ngắn trước mặt ông chủ.
"200.000 đô. Đổi lấy thông tin mà ông nói.”
“Giới thợ săn đúng là không thiếu mấy tay hào phóng như cậu.”
Ông chủ nheo mắt cười.
“Tiêu tiền mua vui thôi. Phong thái con cháu Bát Kỳ đấy, mấy hôm nay tôi luyện được nhờ xem mấy bộ phim cung đình.”
Caesar cười cợt.
Ông chủ chậm rãi nhấp trà, nói như đang kể một chuyện không liên quan:
"Ngay gần đây thôi, bên khu Dân Tộc Cung, có một ngõ nhỏ gọi là Hẻm Quang Thải. Thời nhà Minh, nơi ấy là xưởng chế tạo thuốc nổ và vũ khí, khi ấy nó có một cái tên khác…”
Ông đột ngột dừng lại, ngẩng lên nhìn Caesar, trong mắt loé lên một tia kỳ dị, “Vương Cung Xưởng.”
Caesar lập tức hít sâu một hơi.
Những hạt bụi lơ lửng trong cột sáng từ cửa sổ bỗng như rung lên, như thể cái tên cổ xưa ấy đã đánh thức một điều gì đó đang ngủ yên nơi đây.
“Cậu nghe qua rồi chứ?”
Ông chủ mỉm cười.
“Vụ nổ Vương Cung Xưởng, xảy ra ngày 30 tháng 5 năm 1626, lúc chín giờ sáng. Khu vực bị tàn phá hơn 2km², 20.000 người chết. Sự kiện ấy khiến Hoàng đế Chu Do Giáo phải ban Tội kỷ chiếu, tự nhận tội với Trời. Đó là một tai họa không thể lý giải bằng logic thông thường, một trong ba vụ nổ bí ẩn nhất lịch sử nhân loại. Hai vụ còn lại là thảm kịch ở Mohenjo-daro bên Ấn Độ và vụ nổ Tunguska ở Nga.”
Caesar nói rành rọt.
Ông chủ gật gù:
"Năm 1908, trong rừng nguyên sinh Tunguska, một vụ nổ kinh hoàng diễn ra. Cả khu rừng đổ rạp, ánh sáng từ vụ nổ có thể nhìn thấy tận bên bờ sông Rhine. Thứ ánh sáng chói lòa như mặt trời mọc sớm. Cho tới nay, thứ duy nhất con người có thể dùng để tái tạo hiệu ứng đó là vũ khí hạt nhân. Nhưng năm 1908, ‘cha đẻ bom nguyên tử’ Oppenheimer mới bốn tuổi, còn tè dầm, còn phải chờ thêm 37 năm nữa mới có quả bom đầu tiên. Thế mà vụ nổ lại xảy ra…"
Ông liếc Caesar một cái:
“Dù chưa từng gặp nhau, tôi nghĩ với người của Long Tộc, chẳng cần giấu diếm gì đâu. Vụ Tunguska là do một loại ngôn linh gây ra là Rhine, số hiệu 113, nằm trong danh sách ngôn linh cực kỳ nguy hiểm.”
“Thế thì vụ Vương Cung Xưởng năm 1626 cũng không thể do người Trung Quốc gây ra bằng bom hạt nhân. Nghĩa là, nó cũng do một ngôn linh hủy diệt nào đó tạo thành.”
Caesar thì thầm.
“Đúng vậy. Vũ khí hạt nhân của loài người cần đến vật liệu phóng xạ, cần những thiết bị tinh vi, đắt đỏ đến mức cả một quốc gia mới dựng nổi. Như thiết bị phân tách uranium mà Mỹ chế tạo ở Oak Ridge từng cần hàng tấn bạc nguyên chất chỉ để làm dây dẫn. Mỗi bước đều dựa vào nền công nghiệp hiện đại khổng lồ, công nghệ bị các siêu cường kiểm soát chặt chẽ."
Ông dừng một nhịp, rồi nói tiếp:
"Nhưng với loài Rồng cổ đại, chúng không cần bất cứ thiết bị nào. Chỉ bằng ý chí, bằng ngôn linh, chúng có thể tạo ra nhiệt độ và sóng xung kích tương đương một vụ nổ hạt nhân. Đó là đỉnh cao kỹ thuật của Long Tộc, một lĩnh vực hoàn toàn khác với nhân loại. Giống như số thực với số ảo, hình học Euclid với hình học phi Euclid khác nhau từ căn bản."
“Trường ca Mahabharata của Ấn Độ từng miêu tả sự hủy diệt của Mohenjo-daro, một thành phố huy hoàng bị xóa sổ bởi một vụ nổ khủng khiếp. Trong thơ có ghi: ‘Trên không trung vang lên tiếng sấm dữ dội, rồi một tia chớp lóe lên. Từ phía Nam, một cột lửa phóng thẳng lên trời, ánh sáng chói chang như mặt trời chẻ đôi bầu trời… Nhà cửa, đường phố, vạn vật đều bị ngọn lửa trời thiêu rụi… Đó chỉ là một viên đạn nhỏ, nhưng chứa đựng sức mạnh cả vũ trụ. Một làn khói đỏ rực và lửa sáng như ngàn mặt trời bốc lên, rực rỡ đến chói mắt… Nhiệt độ khủng khiếp khiến muôn loài chết cháy, sông suối sôi sục, cá tôm chết sạch… Người chết cháy đen như khúc củi khô, tóc và móng tay rụng sạch, chim bay giữa trời cũng chết thiêu, lương thực thì bị nhiễm độc…’”
“Nghe chẳng khác gì một vụ nổ hạt nhân.”
Caesar trầm ngâm nói.
“Nhưng bản trường ca đó lại được viết từ thế kỷ thứ tư trước Công nguyên.”
Ông chủ hơi nhướn mày.
"Thế nên ta có lý do để tin rằng ba thảm họa ấy đều liên quan đến việc Long Vương tỉnh giấc. Năm 1626, cũng có một Long Vương thức tỉnh ngay tại thành phố này, có thể đó chính là người mà cậu đang tìm kiếm.”
Caesar im lặng một lúc rồi lên tiếng:
“Nếu Vương Cung Xưởng là nơi chế tạo và trữ thuốc súng, vậy thì chẳng phải hoàn toàn có khả năng đó là một vụ nổ thuốc súng hay sao? Tôi từng đọc qua vài tài liệu về lịch sử vũ khí, triều Minh là thời kỳ mà Trung Quốc sở hữu nhiều hỏa khí nhất. Toyotomi Hideyoshi đã học cách dùng súng từ Oda Nobunaga. Quân đội của ông ta khi đó, trung bình 10 người thì có một người mang súng, ông ta tin rằng với lực lượng ấy, mình có thể xưng bá thiên hạ, nên đã quyết định mượn cớ tiến đánh Triều Tiên để thách thức Đại Minh. Nhưng khi đến bán đảo Triều Tiên, ông ta mới nhận ra rằng đội quân mà Minh triều cử sang là quân Thần Cơ Doanh lại là một đội quân được trang bị súng đầy đủ, mỗi người đều có một khẩu. Mà đã là doanh trại Thần Cơ, thì dĩ nhiên phải trữ rất nhiều thuốc súng.”
“Đúng thế. Người Trung Quốc là bậc thầy trong việc chế tạo thuốc súng đen. Nhưng vụ nổ ở Vương Cung Xưởng lại tương đương hàng vạn tấn thuốc nổ TNT. Mà thuốc súng đen chỉ mạnh bằng một phần nhỏ của TNT. Nghĩa là, phải cần đến cả trăm nghìn tấn thuốc súng đen thì mới gây ra vụ nổ với quy mô như thế.”
Ông chủ nghiêng người, giọng nửa cười nửa nghiêm túc:
“Cậu tưởng tượng thử xem, mỗi binh lính Thần Cơ Doanh phải vác theo một tấn thuốc súng, họ là lính chiến hay là ‘bom di động’? Khả thi không?”
“Cũng có người cố lý giải bằng các hiện tượng tự nhiên,” Caesar gật đầu, “như động đất, vòi rồng lửa, hay thậm chí là hiện tượng ion hóa trong khí quyển.”
---
“Không có bất cứ lời giải thích nào đủ sức lý giải mọi hiện tượng dị thường trong vụ nổ đó.”
Ông chủ đặt tách trà xuống bàn, chậm rãi nói, “Sóng xung kích mạnh đến mức ném văng một con sư tử đá nặng hơn 2,5 tấn ra ngoài cổng Tuyên Vũ. Quần áo của nhiều người bị xé toạc, trơ trọi không một mảnh che thân. Từ mây đen rơi xuống những mảnh vụn kim loại nhỏ cỡ hạt gạo, chẳng khác gì một cơn mưa sắt. Cây cổ thụ bị cuồng phong nhổ bật và ném xa tận vùng Mật Vân. Đó là một vùng 'lãnh địa’ khổng lồ chưa từng có, rộng đến 2km², mọi thứ bên trong đều bị hủy diệt hoàn toàn.”
“Những ngôn linh càng nguy hiểm thì 'lãnh địa’ càng nhỏ,” Caesar nói khẽ, “một vùng lãnh địa phá hủy diện rộng tới mức ấy… nghe chẳng khác gì truyện thần thoại.”
“Chính vì vậy mà chỉ có một số ít cá thể Long tộc mới có thể làm được. Ví dụ như…”
Ông chủ quay người lại, tay thò vào kẽ gạch xanh, dùng sức kéo ra một viên gạch, rồi luồn tay vào khoảng trống phía sau. Từ đó ông rút ra một bọc vải chàm nhuộm sáp ong, lặng lẽ liếc Caesar một cái, rồi từ từ mở ra.
Bên trong là một cuốn sổ đóng bằng giấy thô, chữ viết tay, có vẻ đã rất cũ, giấy ố vàng giòn như sắp vụn, bìa sách có bốn chữ mực đen:
“Thiên Biến Để Sao”.
Caesar cẩn trọng đón lấy, lật từng trang xem xét.
“Đồ tôi sưu tầm được từ trước, sách cổ thời Minh. Loại giấy này làm từ vỏ dâu tằm và cỏ long tu, đời sau không làm nhái được. Tác giả vô danh, nhưng ghi chép rất chi tiết về vụ nổ Vương Cung Xưởng, được xem là một trong những tài liệu dân gian đầy đủ nhất còn lại. Tuy nội dung có phần thần bí, ví như dị tượng bắt đầu xuất hiện từ một tháng trước vụ nổ. Đài quan tượng ghi nhận từng bầy ‘quỷ xa điểu’ tụ tập, âm thanh chúng phát ra thảm thiết như tiếng than khóc. ‘Quỷ xa điểu’ không phải loài chim có thật, còn được gọi là ‘thương uyên’ hay ‘cửu đầu điểu’. Truyền thuyết kể rằng nó vốn có mười đầu, nhưng bị Chu Công bắn rụng mất một, từ đó cổ luôn rỉ máu. Những con to có sải cánh đến cả trượng, một loài yêu điểu thật sự. Nếu chúng từng tồn tại, hẳn giới sinh học phải viết lại từ đầu.”
“Đây là bản duy nhất?”
Caesar giơ quyển sách lên.
“Chép tay thời Minh mà ông hét giá 200.000 đô?”
“Không, bản này thì đầy.”
Ông chủ nhếch môi.
"Nhưng…”
Ông ngừng lại, rồi chậm rãi nói tiếp, “Nội dung bản này khác với những bản lưu truyền rộng rãi. Nó có thêm một đoạn rất dài về… phong thủy.”
“‘Phong thủy’?”
Caesar nhíu mày.
“Phải. Người Trung Quốc gọi nó là một ngành học để tìm long mạch. Tác giả quyển sách này vốn là một thầy phong thủy, chuyên đi khắp kinh thành Bắc Kinh tìm long mạch, chọn huyệt cát cho người chết. Ông ta ghi lại nguyên nhân thiên biến là do vụ nổ đã chặt đứt long mạch nơi đây.”
“Nghe có vẻ giống mấy ông lang băm mê tín.”
Caesar cười khẩy.
"Nhưng cũng không loại trừ biết đâu giữa đống manh mối nhảm nhí ấy lại giấu một con rồng thật.”
“Cuốn này còn mô tả chi tiết hành trình ông ta lần theo long mạch khắp thành Bắc Kinh. Thành Bắc Kinh thời Minh và hiện tại không khác nhau mấy, chỉ là một số địa danh đã đổi.”
Nói rồi, ông chủ đưa cho Caesar một tấm bản đồ cũ gập tư bằng da bò.
“200.000 đô, cậu sẽ nhận được quyển sách và tặng kèm tấm bản đồ cổ khổ lớn thời Minh. Thấy thế nào? Món hời chứ?”
Caesar nhận lấy tấm da:
"Cũng là đồ cổ ông sưu tầm được?”
“Không. Nhà xuất bản Bản đồ Trung Quốc, bản in lần đầu năm 2001, tái bản năm 2003. Tôi mang nó đi dạo quanh Nhị Hoàn tám năm trời rồi. Nếu không phải cậu là khách lớn, tôi cũng chẳng nỡ đem tặng.”
Caesar nhún vai, cười:
"Thêm quà tặng nữa đi,” anh chỉ lên bộ xiêm y treo trên tường, “bộ áo cưới kia.”
Ông chủ xụ mặt:
"Tôi đâu có hét giá cắt cổ, cậu cũng đừng mặc cả tới mức ngồi đất đòi hàng. Bộ đó riêng tiền vải đã hết 4.000 tệ rồi, niêm yết 28.000 là còn rẻ đấy.”
“Tiếc là tôi không mang nhiều tiền mặt,” Caesar rút từ ngực áo ra một chiếc thẻ kim loại sáng bóng, đặt lên túi tiền, “thẻ platinum, hàng lưu niệm mà Citibank tặng riêng cho khách hàng hạng Black. Đổi lấy bộ váy cưới đó.”
Ông chủ chộp lấy cả thẻ lẫn túi giấy, mừng rỡ như vớ được vàng:
“Giao dịch thành công! Mắt nhìn hàng chuẩn đấy! Bây giờ muốn tìm thợ cắt may đúng kiểu kỳ phái ấy khó lắm rồi!”
Caesar đứng dậy, ngước nhìn bộ hỷ phục treo trên tường:
“Gương mặt vẽ trên đó là do ông vẽ à?”
“Tiện tay phác thôi. Hồi xưa tôi cũng học qua chút vẽ hoa điểu, viết thư pháp cũng được lắm. Dán khẩu hiệu biểu ngữ hồi đó toàn tôi viết.”
Ông chủ hớn hở khoe.
“Có nét giống cô ấy…”
Caesar khẽ gật đầu hài lòng.
"Rất hợp với cô ấy.”
Anh xách bộ hỷ phục được bọc cẩn thận, bước tới cửa tiệm Phượng Long Đường.
Đột nhiên anh quay đầu lại, nhìn ông chủ đang ngồi đếm tiền sau quầy.
“Ông Lâm Phượng Long, ông bảo ông không biết tiếng Đức, lớn lên ở Trung Quốc. Nhưng ông có nền tảng khoa học rất vững, ông hiểu rõ kỹ thuật tách chiết nguyên liệu hạt nhân, thậm chí còn biết đến bảng danh mục ngôn linh. Mà bảng đó đến năm 1972 mới được hoàn thiện, ‘Rhine' cũng là cái tên được đặt vào năm đó.”
Ánh mắt Caesar chợt trở nên sâu thẳm.
“Ai đã dạy ông những thứ này?”
Ông chủ khựng lại một chút, cười xòa rồi xoa tay:
“Lên mạng chứ đâu, tôi tự học trên mạng ấy mà.”
“Lời nói dối vụng về.”
Caesar lạnh nhạt, “Tôi không thích giao dịch với người dối trá. Nhưng cuốn sách kia là thật, nên tôi vẫn sẽ trả tiền. Chỉ cần ông không có ý đồ gì khác. Nếu có… tôi đảm bảo ông sẽ phải hối hận.”
Anh bước ra khỏi Phượng Long Đường, nhẹ nhàng thả tấm rèm bông xuống sau lưng.
Phía sau tấm bình phong bằng gỗ đỏ, một người trẻ tuổi trong bộ vest đen bước ra.
Trong suốt cuộc trò chuyện giữa Caesar và ông chủ, anh ta vẫn đứng yên lặng trong bóng tối, như hòa vào không khí.
“Giờ thì yên tâm rồi chứ? Tôi nói đúng y như mấy người dặn, không hề lỡ lời nửa câu.”
Ông chủ chẳng buồn liếc nhìn người kia, tiếp tục đếm tiền, “Cái góc tường đó âm thanh dễ vọng lại, mà ngôn linh của cậu ta là ‘Liêm Dứu’, trong lãnh địa của cậu ta, không một âm thanh nào thoát nổi.”
“Nhưng ông lại có thể trung hòa lãnh địa đó.” Người trẻ tuổi đáp.
"Cuốn sách ấy… thật sự có manh mối về Long Vương?”
“Có khả năng, nhưng tôi tìm mấy chục năm vẫn chưa thấy.”
Ông chủ nhún vai, “Nhưng nếu cậu ta là người được nhà Gattuso chọn làm người kế vị, cậu ta có bản lĩnh không tồi. Huống chi… tìm một Long Vương đang ngủ khác hoàn toàn so với kẻ đã thức tỉnh. Dạo này mấy cơn địa chấn nhỏ càng lúc càng nhiều, như các cậu đoán, cậu ta sắp không kìm được nữa rồi.”
Ông cất tiền vào túi giấy, rồi nhét vào hộp sắt dưới quầy.
“Còn thiếu tôi 2.500.000 đô nữa.”
“Khi Caesar cầm được cuốn sách, khoản còn lại đã được chuyển vào tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ của ông rồi.”
Người trẻ tuổi cau mày, “Tôi tưởng ông không phải loại người quá coi trọng tiền.”
“Già rồi, tôi đâu còn mưu cầu gì khác.”
Ông chủ cười, nét mặt nhăn nheo nở rộ như một đóa cúc vàng.
“Các cậu chi 5.000.000 đô để lấy cuốn sách từ tôi, rồi còn bày đặt nhờ tôi bán lại cho cậu ta, vòng vo vậy làm gì? Không thể giao thẳng sao?”
"Anh ấy luôn có ác cảm với sắp đặt của gia tộc.”
Người trẻ tuổi nói, “Có lẽ vẫn đang trong giai đoạn nổi loạn.”
“Vậy là để cậu ta tưởng mình dựa vào sức riêng mà giết được Long Vương? Ha… chỉ càng làm cậu ta thêm ngạo mạn thôi.”
Ông chủ lắc đầu cười.
“Không sao đâu. Những con chim tự cao, sớm muộn cũng quay về tổ.”
Người trẻ tuổi ngẩng đầu, nhìn lên bức tường trắng, bên dưới bộ hỷ phục vừa bị gỡ xuống là một bức vẽ phác họa, chỉ vài nét đơn sơ mà đầy thần thái, khắc họa dáng đứng thẳng tắp của một cô gái.
“Ông phác theo Trần Mặc Đồng à?”
Người trẻ nhíu mày, “Liều lĩnh quá đấy. Nếu Caesar nhận ra, mọi công sức sẽ đổ sông đổ biển.”
“Tôi tin vào tay vẽ của mình.”
Ông chủ cười, “Mà con bé đó cũng đẹp thật, rất đáng để vào tranh. Khi làm mẫu khỏa thân chắc chắn sẽ kinh diễm lắm.”
“Đừng có mà nghĩ bậy. Nếu Caesar nghe thấy… anh ấy sẽ giết ông. Và anh ấy có khả năng làm thật đấy.”
Người trẻ nói lạnh tanh.
“Chỉ nói chơi thôi. Với lại… tôi là một người đã chết rồi.”
“Dẹp cái tiệm đồ cổ này đi. Rời khỏi đây.”
Người trẻ trầm giọng, “Ông đúng là đã bị xóa tên trên hồ sơ. Nhưng bạn cũ của ông là Anjou vẫn luôn tìm kiếm ông.”
Ông chủ trầm mặt, chậm rãi ngẩng lên:
“Frost nhiều chuyện quá rồi. Hắn không nên nói tên tôi cho cậu. Và tôi cũng mong… cậu là người cuối cùng biết cái tên đó, Friedrich von Long.”
“Ông không cần phải giấu với tôi.”
Parsi nói khẽ, “Dù sao… tôi cũng chẳng còn sống được bao lâu.”
Anh chỉ vào bóng người trên tường:
“Bức tranh đó… ông có thể in cho tôi một bản không? Tôi muốn mua.”
---
"Đi dạo không? Anh mua quà cho em rồi."
Caesar vừa lái xe vừa nhắn tin.
Mùa thu là mùa đẹp nhất ở Bắc Kinh.
Trời cao trong xanh, lá vàng bay bay bên hai hàng cây ven đường.
Trông anh hệt như một công tử Bát Kỳ rảnh rỗi đi dạo phố ngồi trong chiếc mui trần nhỏ, chạy chầm chậm qua khu phố cổ.
Trên ghế sau là chiếc lồng chim gỗ lim mới mua, bên trong là một con chim khách biết nói tiếng người.
Ghế phụ đặt một bộ hỷ phục đỏ rực được trải rộng.
Anh đeo kính râm tròn kiểu cổ, một tay cầm vô lăng, tay kia phe phẩy cây quạt.
Cả người ăn mặc đúng kiểu dân chơi xưa, kết hợp với mái tóc vàng rực nổi bật khiến không ít cô gái đi đường ngoái nhìn, cười vẫy tay chào.
Caesar thì chỉ mỉm cười đáp lễ.
Vài phút sau, tin nhắn từ NoNo gửi tới:
“Em đã ra ngoài đi dạo rồi, không đến tìm anh nữa đâu. Anh đến tìm em đi.”
Caesar sững lại.
Dĩ nhiên là anh không ngại đi tìm NoNo.
Nhưng vấn đề là… anh không biết cô đang ở đâu.
Anh thử gọi điện, nhưng máy đã tắt.
“Đúng là kiểu con gái chẳng giống ai…”
Caesar bất đắc dĩ lắc đầu.
Anh cũng không nói rõ được bản thân rốt cuộc thích NoNo ở điểm nào.
Nhưng có một điều chắc chắn:
Chính vì không thể đoán được trong lòng cô đang nghĩ gì, nên anh lại càng say mê cô hơn.
Sức hút ấy giống như lăng mộ Tần Thủy Hoàng, chẳng ai biết bên trong có gì, nhưng các nhà khảo cổ trên khắp thế giới đều muốn khai quật để nhìn tận mắt.
Thỉnh thoảng, Caesar có cảm giác NoNo ở rất gần đến mức anh có thể cảm nhận được hơi thở của cô.
Nhưng đôi lúc, cô lại như ở tận chân trời.
Người đầu tiên gọi NoNo là “tiểu vu nữ” chính là Caesar.
Bởi vì với một vu nữ, anh vĩnh viễn không thể hiểu được hành động của cô bởi cô sống trong một thế giới quan hoàn toàn khác với anh.
Có khi cô ngồi cả buổi chiều, chăm chú nắn nặn đất sét mềm không rời.
Có khi lại ngồi trên bậu cửa sổ, uống cạn nửa chai whisky cùng Tô Thiến, rồi hát vang như một kẻ ngông cuồng.
Cũng có những đêm cô một mình đến bar, nhảy xuyên suốt đến sáng, mái tóc đỏ rực xoay vòng theo nhịp điệu, khiến cả tá chàng trai vây quanh không rời mắt.
Nhưng cũng có khi, cô ngồi im lìm cả ngày trong thư viện, cắm cúi đọc sách với cặp kính gọng đen trên mũi, trông chẳng khác gì một cô nàng mọt sách chẳng biết gì về thế giới ngoài kia.
Mùa hè ấy, Caesar cùng cô du lịch đến Stockholm.
NoNo nhẹ nhàng đặt tay lên bức tường đá trong một con hẻm nhỏ, nhắm mắt lại, chậm rãi bước đi.
Cô bất chợt chỉ vào một khoảng mặt đất đã bị mài nhẵn, rồi kể cho anh nghe một câu chuyện.
Rằng vào thế kỷ 18, từng có một ông lão bán hàng rong ngồi ở chỗ ấy.
Ông cụ bị cụt chân, phải ngồi dưới đất, dùng hai cục sắt để chống mà đi.
Những vết lõm sâu trên nền đá là dấu tích ông để lại, còn những vạch nhỏ trên tường là chỗ ông ghi lại sổ sách thu chi mỗi ngày.
Mỗi khi NoNo toàn tâm toàn ý làm điều gì đó, cô đều đắm chìm hoàn toàn vào việc ấy.
Caesar muốn ở cạnh cô thì cô chẳng bao giờ từ chối, mà nếu anh không đi cùng, cô cũng chẳng giận dỗi.
Cô là kiểu người như thế, tự do, kiêu hãnh, đầy bí ẩn và chính vì vậy, anh càng không thể ngừng yêu cô.


0 Bình luận