• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 07: Tiến về vùng đất phía nam

Phụ lục 6: Giới thiệu các chủng tộc Arachne, Empusa và Majin + Extra

1 Bình luận - Độ dài: 6,060 từ - Cập nhật:

Về sức mạnh của các chủng tộc thuộc về Vida

(Trích từ bản thảo lưu trữ tại chi nhánh Hội Pháp sư thành phố Niarki, Công quốc Hartner)

Bên cạnh hệ thống chức nghiệp, những chủng tộc của Vida có nguồn gốc từ quái vật còn có thêm hệ thống Rank được hiển thị trong bảng trạng thái, giống như quái vật thông thường.

Tùy theo Rank mà chỉ số thuộc tính của họ có thể vượt trội hơn so với các chủng tộc như loài người. Họ sở hữu đồng thời cả hiệu ứng cộng thêm từ chức nghiệp lẫn thể chất mạnh mẽ vốn có của quái vật, và còn có thể trang bị vũ khí như người thường.

Vì vậy, họ có thể liên tục thay đổi chức nghiệp, và trong môi trường cho phép họ trang bị đầy đủ, không khó để thấy các chủng như Arachne, Scylla hay Lamia mạnh hơn hẳn những mạo hiểm giả loài người bình thường. Đây cũng chính là lý do vì sao những chủng tộc như Vampire hay Majin bị coi là mối đe dọa.

Trong khi phần lớn quái vật không tăng Rank dù chỉ một lần trong suốt đời, các chủng tộc của Vida – nếu sống trong môi trường thuận lợi để phát triển sức mạnh – trung bình sẽ thăng Rank ít nhất hai lần. (Thời gian để đạt được điều này phụ thuộc vào cá nhân và chủng tộc cụ thể.)

Tuy nhiên, không nên đánh giá sức mạnh của họ chỉ dựa vào Rank. Khi có thêm các hiệu ứng tăng chỉ số và kỹ năng từ chức nghiệp, lại được trang bị đầy đủ, sức mạnh chiến đấu thực tế của họ có thể vượt xa so với Rank biểu hiện.

Dẫu sao thì, dù là tốt hay xấu, các chủng tộc có nguồn gốc từ quái vật của Vida thường bị hạn chế không được trở thành mạo hiểm giả, binh lính hay hiệp sĩ trong quân đội quốc gia.

Nhưng cũng cần đề cao cảnh giác, vì vẫn có những Vampire đã thâm nhập sâu vào xã hội loài người.

--------------------------------------

Giới thiệu về các chủng tộc – do Luciliano ghi chép

Những mô tả sau đây có thể khác đôi chút với tư liệu của Hội Mạo hiểm giả hoặc Hội Pháp sư, nhưng tôi đã ghi lại sau khi trực tiếp quan sát, trò chuyện với các cá thể của từng chủng tộc bên trong Rặng núi Biên giới, kết hợp với điều tra cá nhân.

--------------------------------------

Arachne

Một trong hai chủng tộc được sinh ra từ Vida, nữ thần của sự sống và tình yêu, và Zanalpadna, tà thần của lớp vỏ cứng và mắt kép.

Phần thân trên là phụ nữ xinh đẹp, phần thân dưới là nhện. Hiện tại, Arachne được chia làm ba loại: cỡ lớn, cỡ vừa và cỡ nhỏ – mỗi loại đều có đặc điểm riêng biệt.

Người ta cho rằng khi chủng tộc này mới ra đời, chỉ tồn tại một loại duy nhất – rất có thể là loại cỡ vừa – và sau đại chiến giữa Vida và Alda cách đây cả trăm nghìn năm, chúng mới phân hóa thành ba dạng như hiện nay.

Nhân tiện, theo tài liệu tôi mượn được từ pháp sư trưởng Bakota-shi của Zanalpadna, dường như không tồn tại Arachne sống dưới nước. Có vẻ như những “Arachne thủy sinh” được ghi lại trong tài liệu của Hội Mạo hiểm giả thực chất chỉ là Arachne có tập quán sống đặc biệt, như dùng tơ tạo ra túi khí để sinh hoạt dưới nước. Về sinh học, họ không khác gì Arachne thường.

Vì là một chủng tộc toàn nữ, phần thân trên của họ mang vẻ đẹp tiêu chuẩn theo quan điểm của các chủng humanoid, nhiều người còn rất giống con người. Dù có mắt kép ở trán và sau lưng, nhưng nếu che kỹ thì chỉ nhìn phần thân trên cũng khó mà nhận ra họ là Arachne.

Khác với Scylla, diện mạo phần thân trên của Arachne rất đa dạng: màu tóc, màu mắt, thậm chí cả màu của mắt kép đều có thể thay đổi. Ngoài ra, nếu họ sinh con với đàn ông thuộc một chủng tộc nào đó qua nhiều thế hệ, đặc điểm của những người đàn ông ấy sẽ dần xuất hiện trên phần thân trên của Arachne.

Phần thân dưới giống nhện, có lớp vỏ cứng như áo giáp và tám chân với móng vuốt hình thù kỳ dị. Arachne cỡ nhỏ thường có màu sắc rực rỡ như cá vùng nhiệt đới, Arachne cỡ vừa thì chia đều giữa tông màu nhạt và màu sắc có vẻ độc, còn Arachne cỡ lớn thường mang màu sắc đơn giản, nhưng có thêm lớp lông dày ở thân dưới.

Arachne cỡ vừa vẫn giữ được đặc điểm của tổ tiên chủng tộc, là loại phổ biến nhất. Rank cơ bản của họ là 3. Phần thân trên trông như phụ nữ tuổi đôi mươi, tuổi thọ khoảng ba trăm năm. Họ có năng lực cân bằng giữa chiến đấu và ma thuật, phù hợp để trở thành mạo hiểm giả đa năng.

Ngoài ra, họ cũng là loại Arachne có thể sản xuất lượng tơ nhiều nhất mỗi ngày, chất lượng lại ổn định nhất.

Arachne cỡ nhỏ thiên về tốc độ và sự khéo léo khi sử dụng tơ, nhiều người có khuynh hướng thuộc tính phong. Rank cơ bản là 2. Kích thước nhỏ hơn cả đàn ông trưởng thành loài người, phần thân trên trông như thiếu nữ tuổi mười ba đến mười lăm, tuổi thọ khoảng hai trăm năm. Họ rất phù hợp với vai trò do thám.

Tính cách thường hồn nhiên nghịch ngợm đúng như vẻ ngoài, hay bày trò đùa bằng tơ. Chỉ trong thời gian ngắn tôi ở lại đất nước đó, Sư phụ đã vài lần bị họ chơi khăm.

Họ sản xuất loại tơ có chất lượng cao nhất trong số Arachne, giỏi tạo ra những cấu trúc tinh xảo, nhưng lượng tơ lại ít hơn loại cỡ vừa.

Arachne cỡ lớn là loại hiếm gặp nhất, chuyên về sức mạnh chiến đấu. Dù không giỏi ma thuật, nhưng họ có sức mạnh thể chất vượt trội. Cơ thể lớn ngang một cỗ xe ngựa, lực kéo cực kỳ mạnh. Thân trên trông tương đương Arachne cỡ vừa về độ tuổi, nhưng vóc dáng tỷ lệ với thân dưới – kích cỡ không khác gì phụ nữ tộc Titan. Tuổi thọ khoảng bốn trăm năm. Với vũ khí nặng trong tay, họ có thể dễ dàng quét sạch cả nhóm mạo hiểm giả tầm trung.

Tuy nhiên, do khả năng quay đầu hẹp nên dù có trở thành mạo hiểm giả, họ cũng không thể hoạt động ở nhiều nơi – hoặc đúng hơn là trong môi trường loài người. Còn ở Talosheim hay trong khu vực Rặng núi Biên giới thì chuyện đó không thành vấn đề.

Có lẽ vì khả năng tạo tơ thoái hóa, nên tơ họ tạo ra vừa ít lại kém chất lượng hơn hẳn so với loại cỡ nhỏ.

Cả ba loại đều được xếp chung là Arachne. Từ bất kỳ cặp cha mẹ nào cũng có thể sinh ra con thuộc loại khác. Ví dụ, một Arachne cỡ nhỏ hoàn toàn có thể sinh con cỡ lớn.

Một điểm chung nữa là khả năng di chuyển rất nhanh trên địa hình bằng phẳng.

Tại Zanalpadna và vùng Rặng núi Biên giới, hiếm có Arachne sống như dân thường, nhưng phần lớn đều trở thành thợ thủ công, dùng tơ mình tạo ra để làm vải, quần áo hay vũ khí. Arachne sống bên ngoài vùng này cũng có xu hướng tương tự.

Điểm khác biệt là họ có thể sở hữu những Chức nghiệp riêng như Spider Tamer, Samurai hay Kunoichi – những Chức nghiệp không hề xuất hiện trong tài liệu của Đế quốc Amid, Khiên quốc Mirg hay Vương quốc Orbaume.

Có khả năng Arachne bên ngoài Rặng núi Biên giới đang sống ẩn dật, nhưng cũng không loại trừ nguyên nhân là do ảnh hưởng từ tín ngưỡng Zanalpadna, hoặc tri thức từ thế giới khác mà dũng giả Hillwillow từng truyền lại.

Dân Zanalpadna chủ yếu sống bằng cách săn bắt và thu hoạch từ các Tổ quỷ và Dungeon lân cận, cùng với ngũ cốc như lúa mì trồng tại các Dungeon có độ khó thấp như Cánh đồng Không Vỏ.

Tuy nhiên, họ có vẻ đặc biệt yêu thích thịt và cá – thịt voi ma mút được xem là món ăn tinh thần của họ.

Về hôn nhân, họ có phong tục kết hôn tập thể: nhiều nam và nữ sống chung trong một tòa tháp, và miễn là yêu ai đó trong nhóm thì không bị coi là ngoại tình.

Ngoài ra, chuyện một cá nhân rời nhóm này để gia nhập nhóm khác cũng hoàn toàn bình thường.

Từ xa xưa, đã có nhiều trường hợp Arachne rời Zanalpadna, kết hôn với tộc khác – chẳng hạn như Noble Orc hay các chủng tộc chính khác. Với họ, đó là cơ hội quý để tìm được bạn đời mạnh hơn bản thân – tức là người họ có thể dựa vào.

Ngoài Rặng núi Biên giới, Arachne thường sống thành cụm giống Scylla, cùng với nam nhân các chủng tộc khác.

Mỗi lần sinh, họ đẻ ra nhiều trứng, cách khoảng mười năm một lần và lặp lại vài lần trong đời. Dù thuộc loại nào, Arachne sơ sinh trông khá giống nhau. Nhưng theo thời gian, chúng thay vỏ mỗi năm, từ đó hình dáng, kích thước, màu vỏ và lông cũng thay đổi, giúp phân biệt được chủng loại.

Việc lột xác cũng giúp chữa lành thương tích ở chân, lớp vỏ và cả mắt kép ở thân trên. Tuy nhiên, nếu mất chân hoàn toàn thì cần nhiều lần lột xác mới mọc lại được.

Tại Zanalpadna, vỏ cũ sau khi lột được dùng làm “vòng cổ tình sâu nghĩa nặng” – món quà tượng trưng cho tình bạn và tình yêu. Nếu một nam nhân nhận lấy chiếc vòng này thì cũng giống như chấp nhận lời cầu hôn, nên cần cẩn thận.

Có một nghi lễ giúp biến người thuộc chủng tộc không phải do Vida tạo ra trở thành Arachne. Một con nhện đặc biệt (cần vài năm để nuôi lớn) được ban phước bởi tư tế của Zanalpadna, sau đó con nhện và người được chọn (chỉ giới hạn là nữ) sẽ bị bao phủ bởi tơ. Sau mười năm, người ấy sẽ tái sinh thành Arachne.

Thông thường sẽ trở thành Arachne cỡ vừa, nhưng nếu dùng nhện cỡ nhỏ hoặc lớn, đôi khi sẽ xuất hiện Arachne tương ứng.

Nhân tiện, có một chủng tộc tên là Andro Scorpion sống ở sa mạc. Không rõ họ có liên quan gì đến Arachne hay không. Tôi rất hứng thú với chủ đề này, nhưng ít nhất có thể khẳng định họ không tồn tại trong vùng Rặng núi Biên giới.

Khi nào Sư phụ quay lại thế giới loài người, tôi sẽ nhờ người giúp đỡ để điều tra sâu hơn về điều này.

---------------------------------------

Empusa

Một trong hai chủng tộc được sinh ra từ Vida – Nữ thần của sự sống và tình yêu – và Zanalpadna – Ác thần của vỏ cứng và đôi mắt kép.

Họ mang dáng vẻ như thể sự kết hợp giữa bọ ngựa và phụ nữ, với hai cánh tay liềm sắc nhọn bên cạnh hai cánh tay mang hình dạng người. Tuy có cánh giống như bọ ngựa, khả năng bay của họ lại rất hạn chế – chủ yếu chỉ để lượn chứ không thể bay xa hay tự do.

So với phụ nữ loài người, hầu hết Empusa đều cao lớn hơn, thậm chí có những cá thể vượt quá hai mét.

Suốt một thời gian dài, thế giới bên ngoài dãy núi Biên Giới đã quên mất sự tồn tại của họ. Thế nhưng không thể phủ nhận rằng họ là một chủng tộc chính thống được Vida tạo ra.

Giáp ngoài của họ cứng cáp ngang ngửa với những Arachne thân hình nhỏ nhắn, tương đương với áo giáp da. Tuy nhiên, ngay cả liềm của những đứa trẻ Empusa cũng sắc bén và mạnh mẽ hơn hẳn các vũ khí rẻ tiền.

Với những cá thể đã tăng Rank nhiều lần, liềm của họ còn không thua kém gì những thanh ma kiếm được rèn từ Mythril hay Adamantite.

Empusa có Rank cơ bản là 4. Thế nhưng họ lại có rất ít năng khiếu về ma thuật, nên chỉ hiếm hoi mới có cá thể sử dụng được nguyên tố phép thuật.

Tuổi thọ trung bình của họ lên tới bốn trăm năm. Tại vùng đất Zanalpadna, họ sống cùng với Arachne theo mô hình hôn nhân cộng đồng. Khi kết hôn với người từ các quốc gia khác, họ sẽ học theo phong tục hôn nhân của nơi đó.

Số lượng Empusa sống đời dân thường còn hiếm hoi hơn cả Arachne – gần như có thể nói là không có. Tuy nhiên, nhờ hình thể gần giống con người, họ có thể làm mạo hiểm giả trong nhiều môi trường đa dạng hơn.

Khoảng một nửa Empusa lựa chọn trở thành trinh sát, nửa còn lại là chiến binh tiền tuyến. Trong đó, không ít người đóng vai trò “lá chắn tấn công”, dùng liềm tấn công và hai tay còn lại cầm khiên.

Cũng giống như Arachne, nhiều Empusa mang khát vọng trở thành Ninja hoặc Bushi. Họ có thể học được các chức nghiệp như Samurai và Kunoichi, nhưng nếu có được sự ban phước của Zanalpadna, họ còn có thể nhận được chức nghiệp đặc biệt là Mantis Tamer – một chức nghiệp hệ Thuần hóa cho phép điều khiển bọ ngựa thay vì nhện.

Cách nhìn nhận về tình yêu của Empusa thì... kỳ lạ đến mức khiến người ta phải tự hỏi liệu họ có thực sự là phụ nữ hay không.

Khi thể hiện tình cảm với người khác giới, họ rất chú trọng việc thể hiện bản thân mạnh mẽ, quyến rũ và giàu có đến mức nào.

Đó chính là lý do vì sao nữ chiến binh Empusa tên Gaol lại rủ rê Zeno đi chinh phục Dungeon và săn quái.

Thoạt nhìn thì như thể vai trò giới bị đảo ngược, nhưng nếu suy nghĩ một cách lý trí, Empusa là một chủng tộc chuyên về săn bắt và chiến đấu – đúng như vũ khí trời phú của họ. Sống tại vùng núi Biên Giới bao quanh bởi Tổ quỷ, cách sống ấy âu cũng là điều hợp lý.

Thành thật mà nói, tôi chỉ mong Gaol và Zeno có thể vượt qua khác biệt văn hóa này mà thôi.

Empusa cũng chia sẻ văn hóa tặng vòng cổ biểu tượng của tình cảm sâu sắc giống như Arachne. Nếu tặng cho người cùng giới, đó là biểu tượng của tình bạn, còn nếu là người khác giới thì mang ý nghĩa tình yêu. Họ dùng lớp vỏ cũ sau khi lột xác để tạo ra vòng cổ, và vì bản thân không thể tạo tơ như Arachne, nên thường nhờ những cá thể Arachne thân thiết giúp cung cấp tơ để hoàn thiện món quà.

Đối với Arachne được nhờ vả, hành động này cũng mang cùng ý nghĩa như được tặng vòng cổ tình cảm.

Empusa sinh sản khoảng một lần mỗi mười năm, cũng như Arachne, và trong suốt cuộc đời có thể đẻ từ hai đến ba ổ trứng.

Nghi lễ biến một người thuộc chủng tộc không do Vida tạo ra thành Empusa cũng giống như nghi lễ Arachne, chỉ khác là dùng bọ ngựa thay vì nhện, và bao bọc bằng chất nhầy tạo bọt thay vì tơ nhện.

------------------------------------------

Majin

Trong xã hội loài người – không chỉ tín đồ của Alda mà cả người theo Vida – chủng tộc Majin bị coi là giống loài được sinh ra giữa Vida và một con quái vật mạnh mẽ. Họ bị cho là tà ác và tàn nhẫn không gì sánh được, bị xem như hiện thân của cái ác, kẻ đắm chìm trong mọi loại truỵ lạc. Hội Mạo Hiểm thường lập tức ra yêu cầu tiêu diệt họ ngay khi phát hiện.

Tuy nhiên, sự thật là Majin được sinh ra từ Vida và Zantark – Thần chiến tranh của lửa và hủy diệt – người đã dung hợp với hai ác thần khác.

Majin không cùng chủng với Kijin, mặc dù xã hội loài người thường nhầm tưởng hai tộc này là một. Sự nhầm lẫn này có thể bắt nguồn từ việc tổ tiên của Majin và tổ tiên của Kijin vốn là một cặp song sinh – giống như trường hợp của Arachne và Empusa.

Tính cách của họ không phải mẫu mực gì cho cam, nhưng cũng không đến mức tà ác hay cực đoan. Đúng là họ có xu hướng sống buông thả và hưởng lạc, nhưng so với Sư phụ hay tôi thì... vẫn còn trong phạm vi “bình thường”.

Tại vùng núi Biên Giới, người ta cho rằng con của Zantark – người mang dòng máu ác thần đậm hơn – đã sáng lập tộc Majin, còn đứa con mang nhiều máu Zantark hơn thì sáng lập tộc Kijin.

Hiện tại, chủng Majin được chia thành ba loại chính. Tuy nhiên, cũng như Arachne, thời xa xưa – trước cuộc đại chiến trăm nghìn năm trước – chỉ tồn tại một loại Majin duy nhất. Những chủng loại khác xuất hiện sau cuộc chiến đó. Trong quốc gia của Majin vẫn còn lưu giữ ghi chép về Thuần huyết Majin, nên tôi sẽ trình bày cả bốn loại dưới đây.

Đầu tiên là Thuần huyết Majin, trước kia được gọi đơn giản là “Majin” – tổ tiên của toàn bộ chủng tộc hiện nay. Theo truyền thuyết còn sót lại, họ có Rank cơ bản là 5. Ngoại hình tương đối đơn giản: da xanh, có hai sừng trên đầu, và hình thể giống người.

Vì không có cánh nên họ không thể bay, nhưng giống như Majin hiện tại, họ sở hữu thể chất vượt trội cùng thiên phú về ma thuật – đủ để được xem là một chủng tộc mạnh mẽ.

Tiếp theo là Chiến-Majin Diablos. Godwin – vị vua đương nhiệm của Majin – thuộc loại này.

Họ có hai sừng, cánh da, đuôi chóp tam giác và làn da màu xanh. Thân hình cơ bắp to lớn như Titan, là một tộc chuyên về chiến đấu, giỏi cả đấu kỹ lẫn phép thuật, với Rank cơ bản là 7.

Hội Mạo Hiểm gọi họ bằng cái tên đầy dè chừng: Majin lửa, bởi phần lớn là bậc thầy về Hỏa Thuật và có sức đề kháng mạnh với lửa. Có lời đồn rằng họ có thể bơi giữa hồ dung nham.

Tiếp theo là Dâm-Majin Succubi. Nam giới gọi là Incubi. Iris Bearheart đã trở thành một Succubus thuộc loại này, còn Gerazorg – kẻ cầm đầu cuộc đảo chính thất bại – cũng thuộc chủng này.

Ngoại hình của họ – với sừng, cánh da và màu da – tương tự Diablos, nhưng thân hình lại gần giống người thường hơn, nhiều cá thể có vóc dáng cân đối… Ngoài ra, có tin đồn rằng đuôi của họ có chóp hình trái tim thay vì tam giác.

Rank cơ bản của họ là 6. Tuy không yếu về thể chất, nhưng sức mạnh thực sự nằm ở khả năng ma thuật. Điều đặc biệt nhất của loại Majin này là: tất cả đều sở hữu ba kỹ năng: 【 Quyến rũ 】, 【 Tước linh 】 và 【 Biến đổi ảo giác 】.

Người ta nói rằng Succubi dùng những kỹ năng đó để mê hoặc đàn ông, còn Incubi thì quyến rũ phụ nữ – rồi hút lấy “tinh thần” của đối phương.

Tuy nhiên, kỹ năng 【 Biến đổi ảo giác 】 không hiệu quả với người cùng giới, vì thế mà trong xã hội loài người, người ta đồn rằng những cặp vợ chồng bất hòa, ngủ riêng phòng là đối tượng yêu thích của bọn Succubi dâm đãng...

Khi tôi nói điều đó với mấy Obscene-Succubi (Succubus dâm dục), họ bảo rằng sẽ hợp lý hơn nếu nhắm vào những người độc thân sống một mình. Nghe cũng có lý thật.

Ngoài ra, có vẻ họ chẳng thấy vấn đề gì nếu phải sống mà không dùng đến 【 Tước linh 】. Với Obscene-Majin (Majin dâm dục), “linh hồn” con người chỉ như món xa xỉ phẩm kiểu rượu ngon mà thôi.

Beast-Majin – chủng tộc Vandal. Ngoài việc có hai chiếc sừng và làn da xanh, họ gần như chẳng giống gì hai loại Majin còn lại. Cái tên giống với Sư phụ chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.

Thân thể họ có đặc điểm dã thú... hay đúng hơn là một số bộ phận mang hình dáng thú vật. Có hai người thuộc tộc Vandal mà ngoại hình hoàn toàn khác nhau, trông như hai chủng tộc riêng biệt.

Những kẻ chỉ có lông, vảy hay mai bao phủ hơn nửa cơ thể, hoặc có tai, đuôi, răng nanh và móng vuốt như thú thì được xem là kiểu “bình thường”. Có người phần thân trên là sói hay hổ, kẻ thì nửa thân dưới là loài mãnh thú bốn chân hoặc rắn khổng lồ.

Rank cơ bản của Beast-Majin là 6, thể lực vượt trội hơn khả năng dùng ma thuật. Nhiều người trong số họ cũng sở hữu tính cách hoang dã như thú.

Một điểm chung của toàn bộ Majin là… họ không có tuổi thọ. Nếu không gặp tai nạn, bệnh tật hay tử trận, họ có thể sống mãi không chết. Có lẽ vì điều đó mà giống loài này rất đoàn kết.

Họ đặc biệt coi trọng những người có quan hệ với mình, nên các nhóm Majin thường có mối ràng buộc rất mạnh. Tuy nhiên, việc đó không chỉ giới hạn trong nội tộc, nên cũng khó nói là họ bài ngoại.

Còn Gerazorg – kẻ đã phản bội quốc gia Majin – người ta cho rằng hắn có sự gắn bó sâu sắc với Bugitas và thuộc hạ của y hơn là với Godwin cùng các Majin khác.

Thông thường trong tộc Majin không có “thường dân”. Họ tin rằng việc rèn luyện kỹ năng và chiến đấu là điều chính đáng, nên tất cả đều có chức nghiệp  liên quan đến chiến đấu. Tuy nhiên, bởi vì sống mãi không chết, nhiều người trong số họ chọn theo đuổi sở thích để giết thời gian, và kết quả là trình độ đạt đến tầm thợ thủ công bậc thầy.

Về việc họ có thích hợp làm mạo hiểm giả không thì… khỏi cần nói cũng biết.

Đã xác nhận có một số Chức nghiệp độc quyền mà chỉ Majin mới có thể tiếp cận. Nổi bật nhất trong số đó là Demon Tamer (Kẻ điều khiển Quỷ). Quỷ – có vẻ là thực thể kết tinh từ Ma lực nhiễm ô của một hoặc cả hai ác thần đã hợp thể với Zantark – và vì Chức nghiệp này giúp Majin có thể điều khiển lũ Quỷ, cộng thêm ngoại hình tương tự, nên dễ hiểu khi nhiều người nhầm rằng Majin là một “giống loài cao cấp” của Quỷ.

Với tư cách một người từng sống trong xã hội loài người, tôi có thể nói rằng nhầm lẫn ấy cũng dễ hiểu. Arch-Demon và Greater Demon có ngoại hình giống Diablos, còn Lesser Demon – với đầu dê – thì mang nhiều nét tương đồng với Vandal. Thậm chí còn có những Quỷ giống hệt Succubus, dù hiếm.

Ngoài Demon Tamer còn có nhiều Chức nghiệp độc quyền khác như Beast-Majin Warrior, Majin Swordsman, và Battle-Majin General.

Quan điểm về tình yêu và hôn nhân của Majin thì… tùy người. Có kẻ sống kiểu hôn nhân truyền thống – một vợ một chồng. Có người thì cùng nhau nuôi con rồi chia tay khi con lớn. Cũng có người ngay từ đầu đã không sống cùng nhau, để người mẹ nuôi con với cha mẹ ruột hoặc anh chị em mình.

Ở quốc gia Majin không có chế độ hôn nhân. Đơn giản là “muốn yêu ai thì yêu”, quan điểm chính thức của quốc gia là “muốn làm gì thì làm”. Nhưng nếu quá vô trách nhiệm thì sẽ có kết cục như Gerazorg đấy.

Có lẽ vì sống lâu, nên giống loài này khó sinh con, và nhiều người cũng không có nhu cầu sinh con. Tuy nhiên, một khi đã quyết định sinh, họ thường có từ hai đứa trở lên, chỉ là phải mất rất nhiều năm mới được.

Dĩ nhiên, cũng có những trường hợp đặc biệt. Ví dụ như có một Incubus từng có hơn chục đứa con – nghĩa là vẫn tồn tại sự khác biệt lớn giữa từng cá thể.

Tốc độ phát triển của trẻ Majin cũng vậy. Có đứa lớn nhanh như loài người, mười lăm tuổi là trưởng thành. Có đứa thì giống Elf hay bán Elf – bước vào tuổi dậy thì rồi chững lại, mất hai ba chục năm mới trưởng thành. Lại có cả những đứa mãi giữ ngoại hình trẻ con.

Vì vậy, quốc gia Majin có quy định: một cá nhân chỉ được công nhận là người trưởng thành sau khi chính bản thân và cha mẹ họ thừa nhận điều đó, đồng thời phải vượt qua một bài kiểm tra tại cơ quan chính phủ.

Và bởi “trưởng thành” là một chứng nhận, nên nếu làm điều quá ngu ngốc, chứng nhận ấy có thể bị hủy bỏ bất cứ lúc nào.

Nhân tiện, Gerazorg là điển hình – hắn bị tước quyền trưởng thành nhiều lần, cuối cùng mới nảy ra ý định đảo chính… mà chẳng ai thèm ủng hộ.

Về nghi lễ biến chủng khác tộc thành Majin. Majin có thể biến không chỉ người, Elf hay Dwarf, mà cả những chủng tộc của Vida không xuất thân từ quái vật (những kẻ không có Rank trong bảng Status) thành Majin.

Nghi lễ nổi tiếng nhất – tuy gọi là nghi lễ cũng hơi kỳ – chính là giao phối lặp đi lặp lại với Obscene-Majin. Chỉ cần liên tục giao phối trong thời gian dài, đối phương sẽ bị biến đổi thành Majin. Nếu không xét đến thời gian hay quá trình, thì đây chính là cách đơn giản nhất.

Có vẻ Mana trong cơ thể Obscene-Majin được truyền qua đối phương trong lúc giao hợp, và khi vượt quá một ngưỡng nhất định, người ấy sẽ biến đổi.

Về thời gian cần thiết… không có ghi chép chi tiết, nhưng tối đa là một năm. Còn về tần suất… tôi xin phép không ghi lại ở đây. Nhưng càng là Succubus cấp cao thì thời gian càng ngắn, tần suất cũng giảm theo.

Nghe thì có vẻ “dễ”, nhưng kỳ thực số lượng Obscene-Majin chịu quan hệ như vậy với ai đó phải là người đặc biệt với họ. Vậy nên không lo dân số Majin sẽ bùng nổ.

Nghi lễ nổi tiếng tiếp theo là “Kén Máu” mà Godwin đã dùng với Iris Bearheart – một nghi lễ của Battle-Majin. Thời gian chỉ cần bảy ngày bảy đêm, nhưng phải có pháp trận đặc biệt, một chén thánh, và một lượng lớn sinh tế sống. Nghi lễ này vô cùng khó thực hiện.

Do đó, nó gần như không được dùng trong quốc gia Majin. Còn trong xã hội loài người thì nghi lễ này còn chưa từng được biết đến.

Cuối cùng là “Hang Quái Thú Majin” – nghi lễ của Beast-Majin Vandal. Ứng cử viên sẽ bị nhốt trong một cái hố nhỏ đã được hiến tế, rồi chỉ được nuôi bằng thịt và máu của Vandal, đến khi lột xác thành Majin.

Có lẽ, tương tự như với Obscene-Majin, việc hấp thụ Mana qua thức ăn cũng mang lại hiệu quả tương đương. Số lượng ghi chép về nghi lễ này còn ít hơn cả “Kén Máu”, nên chi tiết vẫn chưa rõ.

Kiểu Majin mà người được chọn sẽ biến thành không phụ thuộc vào Majin thực hiện nghi lễ, mà là… vào chính bản thân người ấy.

Những chủng tộc cao dưới hai mét – như người, Elf, Dwarf, Dark Elf – gần như luôn trở thành Obscene-Majin.

Những ai cao hơn một chút – ví dụ như Titan – thì sẽ trở thành Battle-Majin.

Còn Thú nhân hay những ai mang đặc điểm thú rõ rệt sẽ thường trở thành Beast-Majin.

Tuy vậy, vẫn có những trường hợp ngoại lệ được ghi lại trong sử sách: Incubus thân hình lực lưỡng cao ba mét, Battle-Majin chỉ cao tới ngực người trưởng thành, hay Succubus có tai thú đều từng xuất hiện.

---------------------------------------

Half-Noble Orc

Là chủng tộc được sinh ra khi Sư phụ thực hiện một lần “tái sinh giả” đầu tiên… Nói đúng hơn thì đây là một chủng tộc người mới, chứ không phải quái vật. Cô bé có thể nhận Chức nghiệp, nên không còn nghi ngờ gì về điều đó.

Cô là một bé gái có đặc điểm rất riêng – tai và đuôi giống lợn, và một thân hình khổng lồ… hiện tại cao tới ba mét. Nếu giữ nguyên tốc độ phát triển này, dự đoán đến năm mười tuổi cô bé sẽ có ngoại hình tương đương thiếu nữ mười lăm – nghĩa là đến tuổi trưởng thành.

Ai không biết hẳn sẽ tưởng cô là con lai giữa Titan và Thú nhân. Nhưng vì không tồn tại Thú nhân dạng lợn rừng, người ta rồi cũng sẽ nhận ra có gì đó không đúng.

Từ khi mới sinh, cô bé đã rất mạnh, sức chịu đựng cũng phi thường. Dù chỉ mới sáu tuổi – tính theo tuổi người thì khoảng chín – cô đã đủ sức nghiền nát quái vật Rank 3 bằng tay không.

Tuy nhiên, có vẻ cô không hợp với ma thuật. Vẫn chưa rõ là do đặc điểm chủng tộc, hay chỉ đơn giản là còn quá nhỏ để học được.

… So sánh cô với Sư phụ cùng độ tuổi thì thật vô nghĩa, nên tôi sẽ không làm vậy.

Hiện tại chỉ có duy nhất một cá thể Half-Noble Orc, nên không thể điều tra kỹ về chủng tộc này. Chưa rõ liệu có giống đực tồn tại hay không. Tôi từng nghĩ rằng nếu Sư phụ tiến vào đế quốc Noble Orc, thì sẽ có cơ hội tạo ra nhiều Half-Noble Orc mới, nhưng…

Một khi Sư phụ bắt đầu hành nghề mạo hiểm giả trong xã hội loài người, tôi rất mong ngài ấy sẽ nhận thật nhiều yêu cầu tiêu diệt lũ Orc và Minotaur.

Nếu vậy, có thể chúng ta sẽ biết liệu Orc có thể trở thành Half-Orc, hay Minotaur có thể trở thành Half-Minotaur hay không.

-------------------------------------

Legion

Họ là con người. Có lẽ sẽ có kẻ phản bác, nhưng… họ hoàn toàn là một con người đúng nghĩa, có thể nhận được chức nghiệp như bao người khác.

Hình dạng ban đầu của họ là một khối cầu hợp thành từ hàng chục hình nhân bằng thịt—khác với kiểu “lộ cơ bắp” như bị lột da—quấn quýt vào nhau. Trên bề mặt khối cầu ấy mọc ra vô số phần cơ thể người: tay, chân, đầu... y hệt như thật.

Tất nhiên, đó chỉ là hình dáng nguyên thủy. Nhờ kỹ năng 【 Biến đổi kích thước 】 và 【 Biến đổi hình thể 】, họ có thể tự do thay đổi kích thước và hình dạng cơ thể theo ý muốn.

Cơ thể của họ không có da, tóc, xương, nội tạng, tim… thậm chí cả não cũng không. Chỉ là một khối thịt sống thuần túy.

Có thể ví họ như một Slime làm từ thịt, dù thật ra ví vậy cũng chưa chính xác. Vì Slime còn có lõi ở trung tâm, còn Legion thì hoàn toàn không có điểm yếu như thế. Nói cách khác, trên người họ chẳng có bộ phận nào có thể gọi là “tử huyệt”. Thêm vào đó, họ còn sở hữu lượng sinh lực khủng khiếp và khả năng tái sinh phi thường.

Trước đây họ từng yếu với nhiệt và sét, nhưng giờ đã kháng được nhờ có kỹ năng tương ứng. Có thể nói, điểm yếu đó giờ đã không còn tồn tại.

Và điều khiến tôi khó tin nhất chính là—Legion không phải do Danna-sama tạo ra.

Ngài chỉ tạo nên “hình thái cơ bản của sự sống” và “hình thái cơ bản của linh hồn” làm nền móng. Những người thật sự tạo ra Legion là ba vị thần: Ricklent—thần của thời gian và ma thuật, Zuruwarn—thần của không gian và sáng tạo, đồng thời cũng là thần ngoại giới Origin.

Nếu nói thế… chẳng phải họ đã vượt qua cả Vida-sama sao? Dẫu vậy, tôi sẽ cố ý không ghi lại họ vượt qua ở phương diện nào.

Về tính cách—hay nói đúng hơn là tâm trí—của họ thì… cực kỳ khó nắm bắt. Họ chia sẻ ký ức và cảm giác, nên có lẽ hơi giống với các bản phân thân mà Danna-sama hay tạo bằng 【 Xuất hồn 】, nhưng mỗi người trong số họ lại có cá tính riêng biệt.

Có vẻ Pluto là người thường đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, nhưng điều đó không có nghĩa cô ấy là trung tâm của cả tập thể. Ngay cả khi Pluto tách biệt bản thân ra bằng kỹ năng 【 Điều khiển từ xa 】, phần còn lại của Legion vẫn hoạt động bình thường như không.

Theo lời của Enma, một trong các cá thể thuộc Legion: “Một người là tất cả, và tất cả là một người.”

Và vì họ là một chủng tộc, nên lý thuyết là có thể sinh sản… nhưng chuyện đó cũng là điều bí ẩn.

Có thể giả định rằng họ sinh sản theo kiểu phân bào như Slime… Dẫu vậy, cũng có một giả thuyết cho rằng Slime thật ra không phân bào mà đẻ trứng. Trứng có màu giống hệt cơ thể sẽ phát triển bên trong, rồi nở ra ngay khi được sinh, trông chẳng khác gì phân đôi cả.

Legion thì… không biết họ sẽ theo cách nào, nhưng tôi thật sự rất muốn biết.

-------------------------------------------

Luciliano đặt bút xuống, thở dài một hơi thật sâu.

“Tuổi thọ của ta e là không đủ để tìm ra câu trả lời… Hay là ta nên trở thành Vampire luôn nhỉ? Mà nếu thành Incubus thì không tưởng tượng nổi dung mạo ta sẽ ra sao nữa… Nhưng chọn ai làm ‘phụ huynh’ đây? Thôi thì trước mắt cứ nhờ Danna-sama dùng 【 Trẻ hóa 】kéo dài tuổi thọ vậy.”

Nói đoạn, Luciliano gấp tờ ghi chép về Half-Noble Orc và Legion sang một bên, rồi lấy ra tờ giấy trắng mới.

“Giờ phải tranh thủ ghi lại hết thông tin về các chủng tộc do Vida-sama tạo ra đang sinh sống trong dãy núi Biên Giới trước khi quá muộn. Một khi Danna-sama ra tay thay đổi lối sống và văn hóa của họ, lúc đó muốn tìm hiểu nguyên trạng cũng chẳng dễ gì.”

Lẽ ra Luciliano là chuyên gia về Undead, nhưng giờ lại ghi chép cứ như một nhà tự nhiên học chính hiệu.

Bản thân anh cũng thấy thắc mắc về chuyện đó… nhưng lại không cho là điều tồi tệ gì.

Bình luận (1)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

1 Bình luận

Sao zuruwarn lại đồng thời là thần origin kìa?
Xem thêm