Căn nhà gỗ nhỏ mang trên mình dấu tích của trận càn quét vừa qua, một bên mái đã lõm hẳn xuống, nơi mà thân cây thông gãy đổ vẫn còn đó. May mắn thay, những bức tường vẫn kiên cường đứng vững. Trèo lên phần mái còn lành, tôi cẩn thận gỡ xuống những cành cây vụn, còn em phía bên dưới, quét đi những mảnh vỡ còn tàn.
Khói lửa chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm của nó vẫn bám víu lấy mảnh đất này, như lớp bụi thời gian chẳng chịu buông. Những hạt sương đêm vương trên kẽ lá, lạnh lẽo thấm vào đôi bàn tay chai sạn. Và rồi cuộc sống vẫn tiếp tục, dù cho những khó khăn còn chồng chất.
Đôi quang gánh, nặng trĩu những nhánh thuốc thơm nồng, theo nhịp chân chầm chậm rời khỏi con dốc quen thuộc dẫn vào phiên chợ sớm. Mùi đất ẩm hòa quyện cùng hương thảo mộc dịu, một mùi hương thân thuộc đã theo tôi suốt những tháng năm nhọc nhằn này. Tìm tới một góc nhỏ quen thuộc dưới gốc cổ thụ, cẩn thận trải tấm bạt cũ, tôi bày biện lên đó những bó thuốc như thường lệ. Khách mua mỗi người một vẻ, người già tìm mua vài nắm lá vối cho giấc ngủ sâu, người trẻ hỏi mua vài chút hương nhu gội đầu cho tấm tóc thêm mượt mà. Cẩn thận cân đo rồi gói ghém, những đồ xu lẻ kiếm được cứ thế đầy dần trong chiếc túi vải sờn.
Đằng xa, tiếng chuông học viện chợt vang lên rộn rã, ánh mắt tôi vô thức dõi theo những bóng áo tinh khôi, những chiếc cặp đủ màu tung tăng trên con đường đất đỏ. Một thoáng bùi ngùi len lỏi trong tim. Tôi biết, con đường ấy không dành cho mình, rằng những con chữ vuông vắn, những trang sách thơm tho ấy sẽ mãi là một niềm mơ ước xa vời.
Dẫu vậy, khao khát tri thức trong lòng chưa bao giờ lụi tắt. Mỗi khi có chút thảnh thơi, thư viện cũ cuối làng lại trở thành chốn thân quen. Nơi ấy, một tòa nhà tồi tàn với những trang sách sờn cũ, thiếu thốn đủ bề, lại là cả một vũ trụ bao la đối với tâm hồn tôi. Trong không gian tĩnh lặng của thư viện, giữa mùi giấy mục và bụi thời gian, nơi những đau thương của chiến tranh và gánh nặng của nghèo đói dường như tan biến, tôi say sưa nghiền ngẫm những cuốn sách về thảo dược, tỉ mỉ ghi chép từng công dụng, từng phương pháp bào chế. Đôi lúc, may mắn chợt mỉm cười, tôi lại tìm thấy những trang sử ký cổ kính, hé lộ những câu chuyện huyền bí về các pháp sư quyền năng cùng những huyền thoại bí ẩn về truyền thuyết của 'Đôi Mắt Thất Lạc'.
Vào thuở sơ khai, khi trời và đất hình thành, những con rồng uy nghi ngự trị, được biết đến là những sinh vật tàn bạo. Những sinh vật khổng lồ với đôi cánh sải rộng che lấp bầu trời đêm cùng đôi mắt lửa thiêu, khiến biển cả sục sôi, đốt cháy rừng rậm, gieo rắc nỗi kinh hoàng tới mọi nơi. Bóng tối của sự tàn phá bao trùm nhân gian kéo dài tới vô tận.
Con rồng khởi nguyên, vĩ đại hơn tất thảy, khoác trên mình lớp vảy đỏ thẫm tựa huyết dụi, đôi mắt rực sáng ánh hoàng kim sánh tựa nhật nguyệt, hơi thở nồng đủ sức hóa lỏng cả những lớp đá kiên cường nhất. Thanh danh ngài vang vọng khắp cõi, không sinh linh nào mảy may vọng động. Ngài, đã từng là một vị vua đáng kính như vậy.
Một ngày nọ, từ phương xa xuất hiện một con sói trắng, bộ lông tuyết tinh khôi nổi bật giữa chốn hoang vu. Đôi mắt xanh thẳm như mặt biển bao la, ánh lên sự thuần khiết lạ kỳ. Một xúc cảm dịu dàng, chưa từng biết đến, bất ngờ bừng lên trong trái tim vốn chai sạn khi ánh mắt ngài chạm vào vẻ đẹp ngây thơ của sinh vật bé nhỏ ấy.
Câu chuyện tình, đẹp như giấc mơ xưa, một khúc ca dịu êm vang lên giữa hai thế giới xa lạ.
Nhưng định mệnh nghiệt ngã thay, tình yêu nào đâu ở lại mãi. Một đêm đông giá rét đã cuốn trôi câu chuyện của họ vào vực thẳm bi kịch. Tiếng thét vang vọng của con rồng xé nát bầu trời đêm, một âm thanh đau đớn đầy tuyệt vọng, đôi mắt ngài bị khoét sâu, trong bóng tối vĩnh cửu bao trùm. Và con sói, chợt biến mất, như giọt nước hòa tan vào biển cả, không để lại một gợn sóng.
Con rồng vĩ đại, giờ đây mù lòa và đau khổ. Ngài điên cuồng, loạng choạng bò khỏi hang, thân hình khổng lồ vặn vẹo trong cơn thịnh nộ mù quáng. Lạc lối trong sự mất mát, ngài thiêu rụi tất cả mọi thứ xung quanh. Biển lửa cuồng nộ nuốt chửng một nửa khu rừng phía Nam, giờ vẫn còn là tàn tích cho đến tận ngày nay. Bởi nỗi đau bị phản bội, trái tim ngài tan nát, không ngừng gầm thét trong tuyệt vọng, nước mắt tuôn rơi cho đến hơi thở cuối cùng. Máu đỏ và lửa cháy hòa quyện làm một, tạo thành một dòng sông đỏ vẫn còn chảy mãi, in hằn nỗi đau của khu rừng.
Truyền thuyết ra đi để lại một lời nguyền giáng xuống các thế hệ rồng sau này. Nguyền rủa rằng họ sẽ không bao giờ cảm nhận được hơi ấm trong trái tim mình, mãi mãi phải chịu đựng một cơn đau buốt lạnh trong ngàn năm.
Tương truyền, nhân gian nợ nàng một ân huệ. Nhờ ơn con sói, sự tàn phá của loài rồng dần lắng xuống theo dòng chảy vô tận của thời gian. Ánh dương một lần nữa chan hòa khắp thế giới, tìm thấy niềm an ủi trong sự bình yên.
Cũng bởi lẽ ấy, Sói và Rồng đã luôn là kẻ thù của nhau, loài Rồng căm ghét chúng tôi. Họ tin rằng đâu đó trên mảnh đất lạnh giá này, đôi mắt vàng kim bị đánh cắp vẫn còn ẩn mình, chờ ngày được tìm thấy.
Rồng, sinh vật của ngọn lửa vĩnh hằng, đối lập hoàn toàn với sói, biểu tượng của băng giá vĩnh cửu.
Những pháp sư thường được tôn kính là những người xuất chúng có khả năng sử dụng ma pháp. Có nhiều dạng ma pháp khác nhau giả như tấn công, phòng thủ, chữa lành và cả cấm ma pháp. Đa số còn lại chỉ có khả năng chuyển hóa thành hình dạng động vật của riêng mình. Hiện tại họ là tuyến phòng thủ vững chắc nhất để chống lại mối đe dọa từ loài rồng, tấm khiên vững chãi cuối cùng của đế quốc. Nhưng theo thời gian, các pháp sư như đang dần biến mất.
Tôi tiếp tục lạc mình trong những câu chuyện của xa xưa, mãi cho tới khi mặt trời nép mình phía đằng sau dãy núi. Hoàng hôn phủ lên ngôi làng một màu dịu nhẹ, khi những ngọn đèn nhỏ thắp sáng dọc đường đi. Hôm nay, tôi đã dùng những đồng tiền ít ỏi kiếm được để mua một ổ bánh mì, một chút xa xỉ so với những củ khoai tây nhạt nhẽo thường ngày.
Ban tối là buổi khi ngôi làng chìm vào yên ắng nhiều hơn. Tuy những ánh đèn dọc đường vẫn lung linh nhưng hầu như chẳng có hoạt động sôi nổi nào diễn ra. Mọi người đã trở về tổ ấm của mình, chỉ còn văng vẳng tiếng cười nói vọng lại từ những quán rượu cuối làng. Một niềm ấm áp mơ hồ chợt dâng lên trong lòng khi nghĩ đến nụ cười rạng rỡ của nó, biết rằng hôm nay bản thân sẽ được chiêu đãi một bữa tử tế.
Chúng tôi đã không có một bữa ăn trọn vẹn nào kể từ năm ngoái.
Con đường về nhà rốt cuộc cũng không mất nhiều thời gian. Nhưng khi tiến gần hơn về phía căn nhà gỗ, tôi chợt nhận ra đằng trong căn nhà tối om, không một ánh lửa, không một bóng người, chỉ còn lại sự tĩnh lặng vang vọng.
"Kian? Thằng nhóc này lại đi đâu rồi?"
Vội vã bước, tôi khẽ gọi tên em. Lục lọi khắp các gian phòng, cố gắng tìm kiếm dấu vết của thằng bé nghịch ngợm. Nó sẽ không thường ra ngoài sau bảy giờ tối, không phải nó sẽ đi mà không báo trước một lời.
Ba tiếng đồng hồ trôi qua nặng nề. Đi quanh làng vài vòng nữa, rảo bước khắp các ngõ nhỏ, tôi cố gặng hỏi từng người thân quen nhưng đều vô vọng. Nỗi lo bắt đầu ăn mòn tâm trí, tựa như em đã tan biến vào hư không, không một dấu vết còn lại. Ý nghĩ về sự mất mát ấy chợt gieo vào trong lòng một nỗi sợ hãi tê tái. Bởi Kian là những gì còn sót lại, duy nhất của hai từ 'gia đình' trong tôi.
Màn đêm dần bao phủ khung cảnh nhưng vẫn không có dấu hiệu của thằng bé. Mãi cho tới khi nghe thấy tiếng khóc quen thuộc xé tan sự tĩnh lặng, âm thanh yếu ớt vọng ra từ con hẻm tối tăm ở cuối làng. Một dự cảm chẳng lành chạy dọc sống lưng nhưng tôi vẫn quyết định bước vào bên trong.
Cảnh tượng hiện ra khiến trái tim chợt thắt. Kian đang co người ngồi trên nền đất lạnh, những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên đôi má ửng đỏ. Vội vã chạy lại, tôi quỳ xuống bên nó.
"Kian, em sao vậy?!"
Nó khóc nức nở khi ngước lên. Quần áo lấm lem bụi đất, trên khuôn mặt non nớt xuất hiện vài vết xước nhỏ. Tôi gượng dìu nó dậy khi chợt nhận ra một bên chân của nó đang khập khiễng, đầu gối rỉ ra vài giọt máu tươi. Cứ như thể có ai đó đã đánh nó vậy.
"Chuyện gì đã xảy ra thế?"
"...Chúng...Chúng đánh em..."
Lấy vạt áo mình, tôi cẩn thận lau đi những giọt nước mắt lạnh trên khuôn mặt bầm dập ấy.
"Em lại ăn trộm à?"
"...Không...Không phải. Mấy tên khốn khiếp, chúng đánh em..."
Lại là trò bắt nạt của đám nhà giàu. Không phải lần đầu tiên, nhưng tệ hơn, lần này nó lại xảy tới với Kian. Lũ công tước, quý tộc chết tiệt và cả lũ bắt nạt hèn hạ ở trong làng. Chúng luôn tìm cách ức hiếp những người yếu thế.
Có lẽ thánh thần thật sự ghét bỏ chúng tôi, khi những bất hạnh này cứ ập đến một cách oan nghiệt như vậy.
"...Em không nên ra ngoài mà không nói một lời nào như thế. Mọi chuyện đã có thể trở nên tồi tệ hơn..."
Vòng tay ôm lấy cơ thể run rẩy nhỏ bé. Nhẹ nhàng vuốt dọc sống lưng, tôi cố gắng trấn an nó.
"...Em muốn nó là một bất ngờ dành cho chị..."
"Bất ngờ?"
Từ trong túi, Kian lôi ra một chiếc vòng cổ bạc, mặt dây chuyền hình giọt nước được chạm khắc tinh xảo từ đá Lapis. Bề mặt lấp lánh một màu xanh trong trẻo, càng lộng lẫy hơn khi được ánh trăng huyền ảo chiếu rọi. Một vẻ đẹp tới mê hồn.
"...Chúc mừng sinh nhật..."
"Cho chị à? Em lấy ở đâu vậy? Bằng cách nào?"
"...Em đã tiết kiệm. Nó không đắt lắm đâu..."
Ngồi thẳng mình, nó lau những giọt nước mắt còn đọng, nhẹ sụt sịt. Thằng bé đã chạy việc vặt và tiết kiệm từng đồng suốt cả năm trời, chỉ để mua cho tôi một thứ gì đó tử tế. Hóa ra, đây chính là lí do nó thường xin ra ngoài vào ban tối, để rồi trở lại khi đã muộn về đêm. Nước mắt bỗng dâng lên trong khóe mắt khi tôi nghĩ về những nỗ lực âm thầm của em, một đứa trẻ với tấm lòng trắc ẩn bao la.
"...Chị không biết nên cảm ơn thế nào mới đủ nữa. Nó thật sự rất đẹp"
"...Em biết rằng có nhiều khó khăn và gian khổ nhưng chị vẫn luôn gắng sức một mình lo liệu mọi thứ. Cảm ơn chị...vì đã luôn cố gắng..."
Ngay cả khi không ai nhớ về ngày sinh thành của tôi, Kian vẫn trân trọng điều đó. Nó không bao giờ quên, ngay cả khi tôi ngừng bận tâm đến khoảnh khắc mình được sinh ra trên cuộc đời này.
Trở về căn nhà gỗ nhỏ, tôi nhẹ dìu em lên phòng. Đặt nó ngồi tựa thành giường, cẩn thận tôi dùng khăn ấm lau đi những vết trầy xước còn rướm máu trên khuôn mặt và đầu gối nó trước khi bắt đầu băng bó.
"Chúng ta hết thuốc sát trùng và băng gạc rồi. Chị sẽ đi mua, em nghỉ ngơi đi"
Trong làng chỉ có duy nhất một bệnh xá nhỏ. Oliva là chủ nhân của nơi này, chị ấy, một người phụ nữ với trái tim nhân hậu và đôi mắt dịu dàng, từng là niềm tự hào của cả vùng khi đỗ vào học viện y thuật danh tiếng. Nhưng rồi, chị đã từ bỏ tương lai rộng mở nơi đô thành để trở về đây, gánh vác trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho những người dân quê lam lũ, nơi mà sự thiếu thốn y tế luôn là nỗi lo thường trực. Với tôi, chị Oliva không chỉ là ân nhân mà còn là một hình mẫu, một người mà tôi luôn muốn hướng tới sau này.
"Chị Oliva...Chị có ở đây không?"
Cánh cửa gỗ kẽo kẹt mở ra, Oliva xuất hiện trong bộ quần áo thường ngày giản dị. Ánh đèn vàng ấm áp từ lò sưởi hắt lên khuôn mặt hiền dịu của chị, thoang thoảng trong không khí là mùi thuốc bắc quen thuộc.
"Lia, có chuyện gì vậy?"
"E-Em cần băng gạc và thuốc sát trùng"
Chị không hỏi han nhiều, chỉ khẽ gật đầu, ánh mắt thoáng chút lo lắng. Có lẽ chị đã quen với việc tôi tìm đến đây ăn xin thuốc thang. Lần đầu gặp chị, tôi vẫn có thể hình dung ra mình, một đứa trẻ lấm lem, ngồi khóc nức nở bên bờ kênh, trái tim nhỏ nặng trĩu vì những lời chế giễu cay nghiệt. Chị đã dịu dàng đem tôi về bệnh xá và mủi lòng chữa trị giúp mà chẳng hề đòi lại bất cứ điều gì.
Một lát sau, chị bước ra từ phòng thuốc, trên tay cầm một cuộn băng gạc trắng tinh và một lọ thuốc sát trùng nhỏ. "Của em đây"
"...Em sẽ trả tiền cho chị sau ạ..."
"Không cần đâu. Giúp đỡ người khác là việc đương nhiên mà"
Từng chữ như nghẹn lại nơi cổ họng, không thể đúc thành lời, tôi chỉ biết cúi đầu thật thấp, trong lòng nặng trĩu sự biết ơn. Chỉ có thể ước mình có thể làm nhiều hơn là một kẻ chỉ có thể ăn xin.
Khi về tới nhà, Kian đã chìm vào giấc ngủ sâu, quên đi nỗi đau và muộn phiền trong chốc lát. Ngồi xuống bên giường em, bàn tay nhỏ bé nắm hờ, nhẹ nhàng, tôi cẩn thận bôi thuốc sát trùng lên những vết thương còn rướm máu. Kian khẽ cựa quậy, nhăn mặt thoáng qua khi cảm nhận hơi nóng rát của thuốc ngấm vào da thịt nhưng em không hề hé nửa lời than vãn.
Có lẽ nó đã quen với việc này, một lần rồi nhiều lần, dường như chẳng còn gì là to tát em.
Bên ngoài khung cửa sổ ọp ẹp, những hạt mưa đêm bắt đầu rơi. Từng giọt tí tách nhỏ xuống từ mái nhà dột, vẽ lên nền đất ẩm ướt những vòng tròn đồng tâm, như những giọt lệ ai rơi trong đêm vắng. Gió lạnh buốt giá len lỏi qua những khe hở, mang theo hơi ẩm se sắt, xua tan đi chút hơi ấm yếu ớt tỏa ra từ ngọn đèn dầu.
Xong xuôi mọi việc, tôi lặng lẽ trở về căn phòng nhỏ của mình. Đầu óc quay cuồng với những lo toan bộn bề. Gánh nặng cơm áo gạo tiền ngày càng trở nên chật vật, cuộc sống càng lúc càng khó khăn.
Với tình hình này, việc buôn bán những loại thảo dược thông thường sẽ chẳng thể giúp chúng tôi trụ vững được bao lâu nữa. Phải tìm một con đường khác, nhưng rốt cuộc còn con đường nào đang chờ đợi chúng tôi phía trước. Chẳng ai sẽ nhận những đứa trẻ con làm việc với một cái giá tử tế. Sẽ có những ngày, thậm chí chẳng kiếm nổi cái ăn, tôi đã quen với việc phải cúi đầu ăn xin từng miếng sống. Cùng đường, có lẽ chúng tôi sẽ phải vào trại trẻ mồ côi, bỏ lại căn nhà và tài sản nơi đây. Căn nhà gỗ vốn sập sệ và cũ kỹ nhưng chứa đựng bao kỷ niệm, nơi cuối cùng còn gìn giữ những ký ức mờ nhạt về cha mẹ.
Tôi không muốn vậy.
Ánh mắt vô vọng lướt qua căn phòng một lần nữa, cố gắng tìm kiếm dù chỉ một tia hy vọng le lói. Và rồi, ánh nhìn dừng lại nơi sự xuất hiện của những cây Anh Túc đặt trên chiếc bàn cạnh ngọn đèn dầu cũ. Trong một chuyến đi thu hoạch, vì tò mò trước vẻ đẹp đỏ rực kỳ lạ, tôi đã hái chúng về từ bên bờ hồ nhỏ trong rừng thông.
Cây Torbica, một loại thảo dược đặc biệt bị cấm gắt gao trong đế quốc. Không ai biết rõ về tác hại của nó nhưng cây Torbica vẫn được bán trên thị trường một cách bất hợp pháp với giá cắt cổ ở chợ đen của thủ đô. Người ta đồn rằng Torbica thường được dùng để điều chế những loại độc dược chết người, tuy những ghi chép chính thức về nó gần như không hề tồn tại, chỉ biết rằng Torbica là một loại cây rất hiếm. Có nhiều loại khác nhau, càng quý thì giá bán càng cao.
Có lẽ...thực sự không còn con đường nào khác.


2 Bình luận