Tập 1: Trong con thuyền mang tên "nhân loại"
Chương 02: Tới với công việc trái tay đầy mệt mỏi
3 Bình luận - Độ dài: 6,205 từ - Cập nhật:
“Chắc là chỗ này rồi…”
Tsuyasa đưa mắt nhìn quanh.
Phía trước là cái dãy nhà giống nhau đến mức khó phân biệt nên rõ ràng chẳng có gì để xác nhận lời cậu nói. Khi Tsuyasa và Nebu dừng trước căn hộ cuối cùng trong con hẻm nhỏ bên rìa Tây Bắc, bóng tối đã phủ gần hết đoạn đường. Khu vực này tuy vẫn tồn tại dân cư nhưng lại khoác lên mình cái vắng vẻ đến ghê người, đủ để khiến ta có cảm giác vừa đặt chân vào bờ rìa của thế giới.
Lối đi thì hẹp tới mức hai người di chuyển song song cũng phải nghiêng mình tránh nhau. Mặt đường lót đá đã xô lệch theo năm tháng, vài phiến gạch thậm chí bị bật hẳn lên, để lộ ra lớp đất nâu bầy nhầy bên dưới. Đầy các mảng rêu mọc loang lổ bám chặt trên tường nhà hai bên như thể chúng là phần da thịt của chính địa bàn này vậy. Bầu khí nơi đây lẫn lộn giữa mùi mốc, mùi của quần áo phơi lâu ngày và của thức ăn cũ bốc ra từ khe vách.
Tsuyasa gõ cửa căn nhà duy nhất có vẻ là giống mô tả trên giấy tờ, rồi ngay lập tức muốn thu tay lại, theo bản năng lùi về nửa bước. Cậu nghe thấy tiếng động phía trong, âm thanh chân ghế nghiến xuống nền nhà, và tiếng bước chân nặng nề đang tiến lại gần. Ổ khóa có vẻ đang được tra chìa.
Cánh cửa bật mở.
Người đàn ông cao lớn, vai u thịt bắp xuất hiện, mái tóc xám bết lại thành từng mảng như đã lâu không chạm vào nước sạch. Bộ quần áo mặc trên người đã bạc màu đến mức khó mà đoán nổi từng là màu gì.
Điều đáng chú ý nhất là việc chủ nhà đón tiếp họ bằng khẩu súng săn dài nòng cầm trên tay, thứ mà chắc chắn vừa khiến không khí trước hiên nhà bỗng trở nên căng như dây đàn. Khẩu súng không phải loại hiện đại, thậm chí có phần lỗi thời, nhưng điều đó không khiến nó kém đi sự chết chóc. Trái lại, chính cái cũ kỹ ấy khiến nó mang lại cảm giác đã được dùng qua nhiều lần chứ chẳng phải để hù dọa.
Cặp đôi quân phòng thì lại chẳng trang bị vũ khí hạng nặng hay khiến bảo vệ như thường ngày mà chỉ khoác lên mình bộ thường phục lót chống đạn mỏng. Hy vọng vẻ vô hại này sẽ tránh cho họ vài viên đạn lạc.
“Xin chào! Ông là Licher Smurt ạ?” Tsuyasa cúi đầu lễ phép.
“Chúng mày là quân phòng giống mấy đứa bữa trước tới đây đúng không?” Giọng ông ấy khàn đặc như thể hút cả chục gói thuốc mỗi ngày.
Quân phòng, nghe thì có vẻ oai chứ bọn họ cũng chẳng khác quá nhiều so với tổ chức lính đánh thuê bán chuyên hay chó săn trung cấp của chính quyền. Thành ra cũng khó tìm được sự quy củ và danh dự trong cái nghề này. Trong vài trường hợp, đôi khi bị gọi là quân phòng còn là ngầm có ý miệt thị. Ở đâu không rõ nhưng tại Loromicon là thế.
Dù hơi ngần ngại khi đối tượng có vẻ bất hảo, song Tsuyasa vẫn rất tự tin với đống kế hoạch trong đầu, cậu đang định tung ra lời nói dối đã chuẩn bị từ trước thì…
“Phải! Quân phòng đây!” Nebu chồm tới sớn sác. “Và nếu ông biết điều thì hãy buông vũ khí đầu hàng ngay lập tức!”
Đồ ngốc!
Cậu suýt thì đứng tim.
Tsuyasa quay phắt sang, với với tay như thể đang cố bắt một quả bóng bay mất kiểm soát giữa không trung.
“Không, không, không! Không phải thế!”
Ông già nheo mắt. Khẩu súng săn khẽ nhích lên vài phân.
Tsuyasa bật ra tiếng cười gượng gạo, tay trái nắm cổ áo kéo nhẹ Nebu lùi lại, tay phải lắc lắc theo kiểu “bình tĩnh nào, chú ơi, cháu nó còn trẻ người non dạ lắm.”
“Chúng cháu không phải là... à, không phải kiểu quân phòng vũ trang đi cưỡng chế đâu. Ý là, có, bọn cháu là quân phòng... nhưng mà không phải quân phòng ấy.”
“Là sao? Bọn mày thích vòng vo không?!”
Tsuyasa nuốt nước bọt, khuôn miệng càng thiếu tự nhiên hơn, cậu ước gì ngay lúc này có thể dẹp cái vụ này mà biến về nhà ngay lập tức.
“Tụi cháu thuộc... bộ phận tư vấn. Đúng rồi. Tư vấn tâm lý hậu tận thế. Kiểu... hỗ trợ tinh thần, định hướng lại cảm xúc, giúp ông tái hòa nhập với xã hội, theo kiểu vượt qua đau khổ tinh thần chẳng hạn.”
Nebu chớp chớp mắt, quay sang nhìn cậu như thể cậu vừa nói tiếng ngoài hành tinh. Nhưng rồi, sau một thoáng ngớ người vì nhận ra chiến thuật ấy, cô bé cũng lập tức gật đầu lia lịa mà hùa theo.
“Đúng đấy ạ! Hôm nay là phiên đi khảo sát! Miễn phí hoàn toàn! Nếu ông tham gia, sẽ được tặng thêm một cuốn sổ tay ghi chú kèm hình dán!”
“Gì cơ?” Lão Licher vẻ mặt biến từ nghi ngờ sang bối rối.
Tsuyasa gật đầu hết sức nghiêm túc, mắt vẫn dè chừng khẩu súng trên tay ông ấy.
“Thật mà! Tụi cháu có cả... phiếu khảo sát nè.” Cậu vội lôi từ túi áo ra mảnh giấy gấp tư đã chuẩn bị từ trước.
“Vâng, cháu là Nebu Malandy.” Nebu chìa ra thẻ tên đang đeo trước ngực.
“Tsuyasa Albridge ạ!” Đồng nghiệp của cô cũng hăng hái làm theo.
Một khoảng lặng kéo dài, chỉ còn tiếng gió thổi qua khe cửa. Người đàn ông vẫn nhìn đôi trẻ chằm chằm, môi mím lại như thể đang cố hợp lí hóa cái dịch vụ mà hai đứa trẻ kỳ cục này vừa đem đến.
“Vậy... là tụi bây tới để... tư vấn?”
“Vâng ạ. Tư vấn. Tụi cháu cực kỳ chuyên nghiệp trong khoản... đối thoại cởi mở. Ông thử nhìn vẻ khả ái của em gái này mà xem.”
Bị chỉ đến, Nebu giật nảy mình, cố phản ứng nhanh bằng nụ cười vô cùng thương mại, hai tay làm hai dấu chữ V.
“Bọn cháu làm việc với quy tắc khá trung lập, chắc chắn ông không muốn bỏ qua cơ hội này đâu ạ. Nhất định chúng ta sẽ tìm ra cách tốt nhất để giải quyết việc này.”
Ông Licher nghe thế bỗng dưng ngần ngừ rồi đổi hẳn thái độ. Cái cụm “tìm ra cách”, cứ như đang thôi miên lấy lí trí thực tế rằng chuyện này khó mà có kết thúc viên mãn. Nó vẽ ra cho ông ta tia hi vọng nhỏ giữa lớp băng dày.
“Hừm…Thế thì vào nhà đi. Tối nay ta cũng rảnh.”
Tsuyasa thở phào đầy kín đáo, bước đầu có vẻ suôn sẻ hơn cậu nghĩ, tâm trí người đàn ông này chưa đến mức quá tuyệt vọng, nhưng còn chuyện khác phải lưu tâm. Tsuyasa quay sang đồng sự, thì thầm:
“Em có thực sự đã đọc nhiệm vụ không vậy? Đây là một vụ tinh tế, đâu phải kiểu rút súng như mọi khi đâu? Đồ hạng B tầm thường.”
Nebu bĩu môi, ngay sau đó thì lại ôm bụng nhịn cười. Em ấy cũng thỏ thẻ:
“Ý anh là phải xạo xạo như vừa rồi ấy hả?”
“Ai bảo xạo? Nó sẽ không phải là xạo nếu mình sắp biến nó thành thật, hiểu chưa?”
“Anh giỏi quá hen? Để xem tên quân phòng hạng C như anh làm được trò gì nào?”
Tsuyasa định đáp trả câu móc mỉa đó thì nhác thấy ông Licher ngẩng đầu để ý, cậu lại thôi. Vì “đại sự” nên đành dẹp bớt mấy cái đôi co nhăng nhít này vậy.
Cánh cửa nặng nề khép lại sau lưng họ bằng âm vang não nề, cảm tưởng cả căn nhà vừa nuốt trọn hai vị khách lạ mặt. Bên trong tối hơn Tsuyasa nghĩ, nguồn sáng duy nhất phát ra từ bóng đèn dây tóc lập lòe giữa trần nhà. Ánh sáng vàng vọt của nó nhuộm mọi thứ dưới lớp màu hoen ố, tưởng chừng cả hành lang bị giam trong một bức ảnh đã phai màu.
Licher Smurt đi trước, tiếng chân ông ấy nện xuống sàn gạch nghe thật khó nhọc, kéo lê theo thứ mệt mỏi không rõ hình thù. Nền gạch lát không đều, vài chỗ còn lún hẳn xuống như thể từng có ai đó giẫm lên rồi một đi không trở lại. Trần nhà thì thấp, tường lại phủ đầy lớp giấy dán bong tróc. Tsuyasa và Nebu bước vào phía sau, cẩn trọng như thể từng ô gạch dưới chân có thể sụp xuống bất kì lúc nào.
Chiếc bàn ăn nhỏ đặt giữa phòng, bên trên là vài mảnh khăn trải bàn rách nát, mép bàn có vết cháy sém. Bên cạnh có ba chiếc ghế nhựa lung lay vì thiếu chân, thêm cái bồn nước đầy những chén dĩa chưa rửa, mùi mốc meo từ đó khiến hai bạn trẻ nhăn mặt.
Ở góc xa, họ thoáng thấy lớp cửa gỗ khác khép hờ, bên trong tối đen. Đáng lưu tâm hơn là thứ âm thanh ẩm ướt, khe khẽ vọng ra, giống với tiếng giòi bò dưới lớp vải mục. Ngoài ra còn có thể dễ dàng cảm nhận được thứ mùi hỗn hợp giữa thuốc tẩy, thịt hỏng kèm hóa chất bảo quản. Tsuyasa ngầm đoán được đó chính là thứ mình đang nhắm đến, xác chết bị nhiễm Artocoil cần phải thu gom.
Cậu nhích tới gần Nebu một chút, rỉ tai em ấy:
“Em chắc chắn muốn vào thật à? Hãy cẩn thận, chẳng phải em…”
Nebu ngẩng lên liếc lại bằng đôi mắt đỏ hồng mạnh mẽ không chút nao núng. Cô gái gật đầu nhẹ, rồi khẽ chỉnh lại cổ áo khoác, kéo cao lên đến gần cằm.
“Em mặc kín rồi. Không sao đâu.”
“Được rồi. Nhưng nếu thấy có dấu hiệu gì bất thường...”
“Em biết.”
Tsuyasa muốn căn dặn đồng sự của mình thêm vài điều nữa, nhưng cứ tiếp tục trao đổi riêng thế này sẽ gia tăng ấn tượng đáng ngờ với tên chủ nhà kia.
Người chủ căn nhà lớn tuổi với cây súng dài vẫn đứng ở góc phòng, ánh mắt lặng lẽ dõi theo họ như con thú canh tổ. Ông ấy không nói không rằng, chỉ hất cằm về phía bộ ghế gỗ cũ để ra hiệu.
“Ngồi đi. Ở đây hết trà nước rồi, đừng trông chờ mấy thứ xã giao.”
Cả ba ngồi xuống, lưng ghế phát ra tiếng đuổi khéo kẽo kẹt. Giờ mới chính là trận chiến thực sự. Tsuyasa đan hai tay vào nhau, khuỷu tay tựa nhẹ lên đầu gối, nửa thân trên nghiêng về phía trước, tạo dáng điệu của kiểu người biết cách lắng nghe. Cậu gật đầu vài cái rất khẽ, như thể đang đồng cảm sâu sắc với nỗi đau mà ông Licher chưa hề nói ra.
“Vậy ông có thể kể cho chúng cháu một chút về… cảm xúc của mình gần đây không?”
Giọng Tsuyasa mềm như nhung, pha chút xót xa vừa đủ, hoàn hảo cho cái buổi “tư vấn tâm lý” mà họ vừa vẽ ra vài phút trước. Ông Licher liếc sang, ánh mắt đầy ngờ vực, nhưng có lẽ sự trơ lì mỏi mệt đã khiến người này không còn đủ sức để làm mình làm mẩy.
“Cảm xúc à? Bọn mày thiệt là… biết người ta mất mát mà còn hỏi câu đó.”
Người cha ấy hừ mũi, miệng nhếch lên thành một nụ cười khinh thường:
“Mấy đứa trẻ bọn bây biết quái gì?”
“Bởi vậy nên bọn cháu mới cần ông chia sẻ.”
“Ta không cần ai thương hại. Sau cùng cũng sẽ yêu cầu ta ký đơn, giao lại xác. Dọn đi, quên đi, khác gì thu hồi tang vật không? Nhưng nếu bọn mày thực sự muốn nghe tao càu nhàu thì cứ việc.”
“À không, ông chẳng cần ký tá gì đâu…”
“Ký hay không đó đâu phải là vấn đề!”
Nebu ngồi đối diện gật đầu nhẹ kèm ánh mắt thương cảm để khích lệ thân chủ của mình tiếp tục.
“Chính quyền… bọn nó chỉ muốn dọn rác. Với tụi nó, đứa con của ta chết rồi là xong. Là một cái xác bị nhiễm Artocoil. Một vật thể cần xử lý tại nhà máy để làm nguồn năng lượng cho thành phố.”
Vào 16 năm trước, cái ngày tận thế mà nhân loại hiện tại gọi là Ngày Đứt Gãy, viên thiên thạch khổng lồ tên là Artocoil đã đâm vào Địa Cầu. Dù có cố bắn vỡ nó bằng pháo hạt nhân nhưng các mảnh thiên thể nhỏ vẫn rơi vào khí quyển dưới dạng bụi, gây ra căn bệnh quái ác vô phương cứu chữa này.
Và chẳng mấy chốc sau khi loài người thiệt hại nặng nề trước cấp số nhân những ca nhiễm mới, các chính phủ lần lượt sụp đổ. Trong đống tro tàn còn lại, con người nhận ra rằng xác chết của các nạn nhân bị Artocoil phát ra nguồn năng lượng phóng xạ, có thể chế tác lại, và giờ đây nó gần như đã thay thế mọi loại xăng dầu.
“Nó không phải vật liệu.” Ông Licher nói tiếp với hàm răng nghiến ken két. “Nó là con ta. Nó… nó vẫn còn đó. Vẫn còn là một phần của ta. Người ta không hiểu, họ sợ. Thấy bị nhiễm Artocoil như thế là la hét, báo động. Họ không hiểu đó vẫn là con người, là thằng bé của ta.”
Tsuyasa nhìn chằm chằm vào tay mình, cảm giác lớp da dưới ngón tay lạnh đi từng chút. Cậu bỗng thấy việc này đang trở nên nặng nề hơn bản thân hình dung cách đây vài giờ. Thà là công việc dạng hộ tống hay giao chiến còn hơn.
Cậu quân phòng trẻ này đã từng làm kha khá nhiệm vụ. Cũng từng nhìn thấy xác người bị Artocoil tàn phá. Dù có đẹp đến man rợ thế nào thì suy cho cùng cũng chỉ là vật chất Artocoil mà thôi. Tuy vậy, lại chưa bao giờ cậu đứng trước một người cha vẫn gọi cái xác ấy là con trai mình, vẫn xem như thể nó chỉ đang ngủ trong căn phòng phía sau.
Không khí trong phòng dày đến mức mỗi lời nói dường như sẽ để lại vết lõm. Chính vì thế nên Tsuyasa lại càng không biết nên thốt ra gì. Đây không phải kiểu vấn đề mà có thể giải quyết bằng miệng lưỡi khéo léo hay vài cú đấm tự vệ ngụy biện.
“Chúng cháu hiểu…”
“Bọn mày làm sao hiểu được?! Bọn loắt choắt chúng mày đâu có đứa con nào để mất! Nhưng chắc bọn mày cũng từng có cha, có mẹ, bọn mày đã bao giờ chú tâm, để ý xem đấng sinh thành yêu quý bọn mày thế nào chưa?”
“Ông Licher…” Tsuyasa muốn cất tiếng, nhưng lời lẽ bỗng trôi đi đâu mất. Trong giây phút ấy, Tsuyasa vô thức nguyền rủa cái vai trò tham vấn mình đã bày ra.
“Bọn mày làm sao rửa trôi được cái văn hóa ứng xử của đám chính quyền? Lịch sự, giả vờ đồng cảm để đạt được mục đích, xong rồi thì chẳng bao giờ lòi mặt trở lại.”
Cậu gãi nhẹ gáy, tì khuỷu tay lên đùi mạnh hơn, người gập xuống, mắt nhìn sàn như thể nơi đó có câu trả lời.
Chết thật! Mình phải làm gì đây?
Một mặt, nhiệm vụ vẫn còn đang đè trên vai, phải tìm hiểu rõ tình hình, báo cáo lại, xử lý xác chết đúng quy trình để tránh phát tán phóng xạ.
Mặt khác, cậu đang ngồi giữa làn ranh của nỗi đau nhân văn.
Thật trớ trêu.
Họ đến đây với tư cách “chuyên gia tư vấn” giả mạo, vở kịch rẻ tiền, nghĩ ra trong vài phút. Và giờ đây lại bị cuốn vào nỗi đau, nó sống động đến mức không tài nào bước chân ra được.
Giữa khi Tsuyasa còn đang loay hoay trong mê cung của cảm xúc, bỗng chiếc ghế cạnh cậu xê dịch. Nebu nhẹ nhàng đứng khỏi chỗ ngồi, tiến lại gần ông Licher tay vẫn còn lăm lăm cây súng lớn. Chuyển động ấy vang lên như tiếng chuông mở đầu cho điều gì đó vừa chớm khởi. Cô gái trẻ chỉ đơn thuần là một người bạn, đang tiến về phía một người bạn khác đang chìm trong khổ đau.
Ông Licher ngẩng đầu lên, đôi mắt thoáng hiện vẻ ngạc nhiên. Tuy nhiên, thay vì lùi lại hay tỏ ra e dè, ông vẫn bất động như pho tượng. Nebu bước đến, dừng lại ở khoảng cách được tính toán cẩn thận, đủ gần để thể hiện sự quan tâm, nhưng vẫn cốt để người đối diện không cảm thấy bị áp đảo hay xâm phạm.
“Ông có thể kể cho cháu nghe… về cậu bé được không?”
Câu hỏi vang lên khẽ tựa hơi thở, nhưng trong cái không khí đầy sạn của căn phòng, nó vỡ tựa tiếng chuông nhỏ giữa đêm khuya. Không có toan tính, không có kỹ xảo, chỉ là một câu hỏi thật lòng, đặt vào đúng khoảnh khắc, khớp với nhịp đập của trái tim.
“Tóc ông bạc nhiều rồi. Có phải vì ông đã khổ não lắm phải không?”
Ông Licher nhìn cô gái, ánh mắt dần đổi khác. Trong khoảnh khắc ấy, ông mới thực sự nhận ra rằng mình không còn hoàn toàn đơn độc giữa khoảng chu vi tù túng nhuốm màu mục rữa này. Giống như ai đó vừa mở hé khung cửa cũ kỹ, để ánh sáng lặng lẽ tràn vào.
“Thằng bé… rất thích vẽ. Ta từng bảo nó là con trai thì phải mạnh mẽ, chơi súng gỗ, ném đá, học bắn cung. Nhưng nó lại suốt ngày vẽ mấy cái cây kỳ quặc với mặt trời có năm cái râu.”
“Cháu nghĩ những bức tranh đó hẳn là đẹp lắm.”
“Ờ…. Đẹp đến ngớ ngẩn. Nó vẽ cả ta thành một cái bánh mì có chân. Bảo là vì ta hay ngáy như cái lò nướng bị kẹt bánh.”
“Lần cuối ông nói chuyện với cậu bé là khi nào?”
Khóe miệng Licher co giật nhẹ, kéo theo cái gật đầu nặng tới hàng tấn.
“Bữa cơm cuối cùng nó ăn ít lắm. Ta bảo nó ăn thêm đi, ốm quá rồi. Nó chỉ nhìn chằm chằm xuống đất, trông khó coi lắm. Giờ thì sao? Hồ sơ báo tử cũng đã được lập, quyết định hậu sự cũng đã được ban bố. Nhưng làm sao ta giao nó đi được? Chẳng lẽ bây giờ nó là con của các người rồi chứ không còn là con ta?”
Nebu im lặng trong vài giây, rồi khẽ nói:
“Ông giữ lại cậu bé, bởi vì ông không muốn những cảm xúc đó biến mất. Không muốn những gì từng là một phần của ông bị chôn vùi dưới lớp nhãn mác nhiên liệu hay vật thể cần xử lý, đúng không?”
Ông Licher nghe thế thì cổ họng nghẹn cứng, như thể cảm xúc dâng trào đã chặn đứng mọi ngôn từ. Môi mím lại, tay nắm lấy mép ghế như thể sợ nếu buông ra thì mình sẽ bị xoắn nát theo mớ rối bời trong lòng.
“Cháu biết là... cậu bé đã đi rồi. Biết là cơ thể kia không còn có thể cười nói nữa. Nhưng ông vẫn ở đây, ngày này qua ngày khác, đóng cửa, cắt liên lạc, cố thuyết phục bản thân rằng chỉ cần giữ lại cái xác, thì yêu thương sẽ không rơi rụng.”
Nebu hít một hơi sâu. Mùi thuốc tẩy và thịt thối vẫn quẩn quanh nơi sống mũi, nhắc nhở rằng cái chết ở đây không phải điều trừu tượng.
“Ông đã cố hết sức rồi nhỉ? Người ta ở đây thường chẳng bận tâm đến việc tìm hiểu, ai cũng thích sử dụng vũ lực nhỉ? Vậy nên bọn cháu ở đây để giúp ông dễ dàng đưa ra quyết định.”
Người cha ấy lặng đi.
“Cháu tin…” cô ngập ngừng một chút, rồi tiếp tục.”…sâu bên trong, ông cũng biết cậu bé đã không còn nữa, ông hiểu tất cả mà. Cái xác kia, dù ông có che đậy, bảo vệ hay cầu nguyện, nó không thể là cậu bé ấy nữa. Và rồi nó sẽ trở thành thứ gây hại cho người khác.”
Lời cô quân phòng trẻ như chiếc kim châm chạm nhẹ vào vết thương đang mưng mủ. Không gây ra cơn đau dữ dội, nhưng đủ khiến người ta rùng mình vì biết rằng vết thương ấy vô cùng nhức nhối.
Ông Licher hơi quay đi, đặt tầm nhìn tại cánh cửa khép hờ dẫn vào căn phòng phía sau. Tsuyasa nhìn thấy bờ vai ông khẽ động. Một nhịp, rồi thêm một nhịp nữa. Như thể trái tim bên trong lớp da nhăn nheo ấy đang chao đảo, đang đối mặt với điều mà ông đã quay lưng quá lâu.
“CÂM MỒM!”
Tiếng gầm bật ra, nói đúng hơn là tiếng rít đầy bản năng, không phải của kẻ mất lý trí, mà của một con thú bị dồn ép đến tận cùng, hoảng loạn, phẫn nộ đến mức sẵn sàng lao vào mà cắn xé bất kỳ điều gì trước mặt. Đó là phản ứng của một linh hồn đã bị bức đến mép vực.
Nebu giật thót trước cơn bùng nổ ấy, nhưng không hề có ý định lùi bước. Đôi mắt vẫn kiên định, như thể chính sự dữ dội ấy lại càng khiến quyết tâm trong cô được củng cố thêm.
“Chúng mày đếch biết gì hết! Dạy tao cách buông bỏ đứa con mà tao... tao phải đào xác nó từ đống bùn xám, tự tay khiêng nó về, rửa máu nó từng chút một?!”
Tsuyasa bật dậy như chiếc lò xo bị nén, không kịp suy nghĩ, không kịp cân nhắc, chỉ là phản xạ thuần khiết của bản năng. Trong tích tắc, cậu đã lao đến đứng chắn ngay trước mặt người đồng nghiệp nữ.
“Tao nhìn thấy nó mỗi ngày... từng lúc một, cơ thể nó thay đổi. Mắt nó lõm xuống, da nó nứt như đất khô, đầu nó nghiêng hẳn sang bên phải.”
Ông ta vùi gương mặt mình vào hai bàn tay to bè, ngón tay quặp vào tóc.
“Nhưng tao... tao vẫn gọi nó dậy vào buổi sáng. Tao đặt bữa tối cạnh nó. Tao kể cho nó nghe chuyện bên ngoài...”
Căn phòng lại chìm vào cái ảm đạm đáng sợ, lần này không đến từ sự lặng im, mà từ cảm giác lạc lối không có lối thoát.
Tsuyasa câm nín, Nebu cũng vậy. Có gì đó thật chênh vênh.
Họ hiểu những lời vừa rồi không phải là sự thoái lui, cũng không đơn thuần là cơn giận dữ bùng phát. Đây chắc chắn không phải là bước lùi, đó là sự kháng cự cuối cùng, là bản năng muốn phủ nhận điều không tài nào tránh khỏi.
“Ông Licher... con trai ông... chắc chắn không muốn thấy ông đau đớn thế này mãi đâu.”
Ông Licher lắc đầu, động tác cứng đờ như một cái chốt sắp gãy vụn.
“Không thể... nếu ta để nó đi... ta cũng biến mất.”
“Không!”
Nebu trưng ra ánh mắt quả quyết.
“Ông sẽ không biến mất. Ký ức về cậu bé sẽ không biến mất. Chỉ có nỗi đau mới rơi rụng thôi.”
Cô bé khẽ siết hai bàn tay vào nhau, rồi nói tiếp:
“Cháu từng mất người yêu quý rồi. Cháu biết cái cảm giác sợ quên đi giọng nói, ánh mắt, sợ đến mức chỉ muốn níu mọi thứ lại.”
“Nhưng...” Ông Licher lạc giọng. “Nếu ta để nó đi... ta còn lại gì?”
Một tia chớp lóe lên ngoài cửa sổ, rạch ngang bầu trời đen kịt. Ánh sáng ấy, trong khoảnh khắc ngắn ngủi, soi rõ khuôn mặt già nua đã bị thời gian và mất mát tàn phá.
Suy cho cùng con người không dễ thay đổi, không ai quay lưng với điều mình yêu chỉ vì vài câu nói hợp lý. Nỗi đau mất đi ruột thịt đâu phải cứ bảo buông bỏ là có thể buông bỏ được? Đặc biệt là khi đó là tất cả những gì còn sót lại của họ sau chuỗi ngày bất hạnh. Họ chỉ có thể chờ, chờ như cách mùa đông buộc phải đợi tuyết tan trước khi xuân về.
Khẩu súng đạn ghém được Licher Smurt vung lên bất ngờ, dấu hiệu của cơn gió lạnh cắt ngang mặt trời vừa nhú lên sau tầng mây dày. Thép lạnh của nòng súng xoay lên, run rẩy, chĩa thẳng vào hai vị khách đối diện.
“Tao sẽ giết bọn mày! Bọn mày theo phe lũ quân phòng, tới đây để tẩy não tao!”
Gió từ khe cửa vẫn lùa qua, hất tung tấm rèm sờn cũ như lá cờ rách rưới trong chiến trường tàn khốc. Từ đây, bất cứ lời nào thốt ra cũng sẽ vỡ vụn. Đó là thời điểm mà dù ý định có trong sạch đến đâu, người ta cũng không còn quyền can thiệp.
“Đủ rồi!”
Tsuyasa bước lên chắn trước họng súng. Khoảng cách giữa cậu và nòng súng chỉ còn chưa đầy gang tay. Không hiểu bằng dũng khí nào mà cậu ấy có thể làm được việc ấy, một sự quả quyết lạ lùng, hoàn toàn trái ngược với vẻ do dự thường thấy trong đời sống thường nhật. Phải chăng khi đứng trước nguy hiểm và trách nhiệm, con người lại thức tỉnh thứ bản năng xông pha nào đó? Tsuyasa không chớp mắt lấy một cái, miệng đè từng từ:
“Nếu ông nghĩ giết tôi có thể giúp được thì cứ bóp cò xem nào?”
Cậu ấy đứng đó, cứ ngỡ đã mọc rễ vào nền nhà. Ngay cả khi làn gió lùa qua khe cửa thổi tung vạt áo khoác, thân hình ấy vẫn không hề lay chuyển. Mặc cho cái lạnh từ nòng súng dội thẳng vào cằm, lan xuống cổ.
“Ông có biết nếu cha tôi mà thấy cảnh này, lão sẽ xách cây hàng dài gấp rưỡi ra bắn vào mặt ông không? Nhưng mà cha tôi chết rồi, và ông chỉ còn cách một cái bóp cò để giết đứa con của ổng.”
Tsuyasa không thấy sợ, không phải vì cậu can đảm hơn người. Mà vì cậu biết ông ta sẽ chẳng bóp cò. Chẳng thể. Chính sự nhận biết ấy khiến nỗi sợ mất đi chỗ bám víu trong lòng Tsuyasa.
Không phải người cha ấy thiếu mạnh mẽ để siết cò. Mà vì phần nhân tính trong ông vẫn gọi tên đứa con giữa đêm khuya, nó không cho phép ông ấy giết người vô tội vạ.
Sự hiện diện trong những tình huống thế này có sức nặng hơn cả trăm lời giải thích.
Nebu cắn răng khi thấy hành động liều lĩnh của anh chàng. Đôi mắt ánh lên nỗi lo lắng không thể che giấu, bàn tay với ra như sợi dây mong manh cố níu giữ cái tên đang đứng trước làn đạn kia lại.
Hai bên bất động nhìn nhau mất đâu đó hơn mười giây. Sau cùng thì bàn tay già nua của ông Licher buông thõng, khẩu súng trượt xuống, có lẽ chính nó cũng đã rã rời, rơi phịch xuống sàn.
Cả căn phòng rùng mình theo cái khoảnh khắc ấy.
Tsuyasa vẫn giữ nguyên vẻ điềm tĩnh và sâu lắng, không hả hê, không đắc thắng. Cậu chưa từng coi mình vừa bước vào cuộc đối đầu, mà chỉ vừa chứng kiến một con người chạm đáy. Đây không phải điều gì vinh quang mà là điều cần làm để giải thoát cho tâm hồn này.
Licher đứng lặng như một tượng đá, ánh sáng đèn hắt lên khuôn mặt nhăn nheo, bạc phếch, rõ ràng mọi xúc cảm đã bị lột sạch.
Rồi đột nhiên, ông ấy quay đi.
Không lời báo trước, không một dấu hiệu nào để đoán được ý định ấy, chỉ là một cú xoay người theo bản năng thao túng, một cơn bão âm ỉ từ lâu cuối cùng cũng tìm được lối thoát qua đôi chân đã mỏi rã.
Rầm!
Cánh cửa bị đẩy bật ra với lực của cả một đời người dồn nén. Nó đập mạnh vào tường, vang lên như tiếng sấm trong căn nhà vốn đã quá quen với sự im lặng.
Ông Licher loạng choạng lao ra khỏi cửa, cứ thế chạy vào màn đêm, áo khoác bay phấp phới như một mảnh hồn phiêu lạc vô định. Bỏ lại căn nhà, đứa con, cùng hai nhân viên quân phòng đang ngỡ ngàng ngơ ngác.
Gió từ ngoài vẫn chưa chịu yên. Nó lùa thẳng vào căn phòng nhỏ, cuốn theo bụi mù, làm rèm cửa bay phần phật như tấm lưới rách đang cố giữ lại một con thuyền đã chìm.
Nebu đứng bên cánh cửa mở toang, ánh mắt dõi theo cái bóng dần hòa vào sắc đen của đêm. Còn Tsuyasa hơi lùi lại một chút, nghiêng người tựa nhẹ vào khung cửa mà lòng có chút nhẹ nhõm. Cậu cười, nụ cười nghiêng lệch, không mỉa mai, không đau buồn, chỉ như thể cậu vừa chứng kiến một ván cờ dài mà kết cục là điều ai cũng biết, nhưng chẳng thể đi nước cuối. Sau cử chỉ gãi gãi mái tóc nâu quen thuộc, cậu nhặt khẩu súng săn bị bỏ lại, dựa nó vào cạnh tủ.
“Anh nghĩ là cứ mặc ông ấy thôi.”
“Em cũng nghĩ là ông ta sẽ không quay về đâu, ít ra là trong tối nay.”
Cậu đẩy nhẹ chân vào cánh cửa, khiến nó khép lại từ từ, như khép một cuốn sổ.
“Gọi đội xử lý đến đi.” Cậu nói, mắt vẫn nhìn cánh cửa. “Chúng ta có lẽ đã gần hoàn thành công việc của mình rồi. Giờ chỉ cần canh chừng vật thể…”
Bỗng Tsuyasa ngẹn lại đôi chút rồi vội chữa lời:
“...Ý anh là di thể của cậu bé.”
“Anh nói phải. Ông Licher cần thời gian để chữa lành, còn con trai ổng thì không thể nữa rồi. Lẽ ra em nên nói gì đó khác đi…”
“Chẳng ích gì đâu, chúng ta có lẽ không tài nào hiểu nổi được ông ta, cũng bởi hai ta sinh ra vốn đã chẳng có gia đình máu mủ ở bên rồi,”
Tsuyasa nhìn Nebu lần nữa. Em ấy bỗng nhợt nhạt hơn, khuôn mặt trắng bệch dưới ánh đèn yếu ớt.
Cậu hoảng hốt. Cô bé có khi sắp ngất hay ngã quỵ mất, nơi này là chỗ mà Nebu không nên tiếp xúc quá lâu. Không khí trong nhà đã đậm mùi phóng xạ, không phải kiểu mùi mà người bình thường ngửi ra được, mà là thứ âm ỉ len lỏi qua da, qua hơi thở. Những ai từng làm ngành này đủ lâu đều có bản năng cảm nhận được thứ đó. Và Tsuyasa thì cảm thấy rõ như thể nó đang bám vào gáy mình.
“Ra ngoài thôi em ơi.”
“Ngay bây giờ à?”
“Ừ.”
Tsuyasa gật đầu, không giải thích thêm. Cậu tiến lại gần, đưa tay ra, không ép buộc, nhưng sẵn sàng kéo cô gái nhỏ ra nếu cần. Nebu giật nhẹ mình, nhìn lên. Đôi môi mấp máy định nói điều gì đó, nhưng rồi lại khép lại.
“Anh biết chỗ này không tốt cho tình trạng của em hiện giờ. Ở gần xác nhiễm quá lâu sẽ có chuyện đấy.”
Họ cùng bước ra ngoài. Cánh cửa căn nhà khép lại sau lưng họ với một âm thanh khẽ khàng, như đóng lại cả những điều không nên tiếp tục đọng lại trong đầu.
Gió đêm bên ngoài mát và sạch hơn trong nhà rất nhiều. Làn không khí buốt giá lùa qua, khiến da thịt tê dại, tuy vậy mà trong lành đến mức khiến người ta được thanh tẩy. Nebu hít một hơi thật sâu, để làn không khí lạnh len vào sâu trong phổi. Rồi cô bé nhìn sang Tsuyasa, ánh mắt đầy cảm kích.
“Cảm ơn anh.”
“Không có gì. Chúng ta là cộng sự mà. Em đã cố gắng nhiều rồi.”
Tsuyasa lôi máy liên lạc từ túi áo ra, nhấn nút gọi cho đội dọn xác gần khu này nhất đang làm ca đêm. Khi tín hiệu chớp đỏ báo hiệu rằng đã kết nối, giọng nói của cậu vang lên đều đặn, có nhịp như một đoạn mã mà bất kì nhân viên nào cũng đã nằm lòng:
“Đây là quân phòng Loromicon, đơn vị lẻ. Báo cáo vị trí C-bốn-bảy. Đề nghị đội dọn xác đêm đến hỗ trợ. Mục tiêu là đối tượng nhiễm Artocoil, trạng thái phân rã nặng, có lẽ là giai đoạn ba. Không còn yếu tố cản trở.”
Phía bên kia im lặng vài giây. Đủ lâu để Nebu nhìn cậu thắc mắc.
Rồi một tiếng tách vang lên. Sóng kết nối bắt đầu ổn định trở lại.
“Xin hỏi cậu quân phòng tên gì?”
“Vâng, tôi là Tsuyasa Albridge. Đằng ấy đã nghe rõ thông tin chưa?”
“Xác nhận vị trí.” Đầu dây bên kia đáp. “Đơn vị tiếp nhận: đội dọn xác đêm, mã số ba-mười-chín. Thời gian đến hiện trường: bốn mươi phút. Hãy duy trì khoảng cách an toàn với vật thể cho đến khi nhân lực chuyên môn tới.”
“Đã rõ.”
Sau khi kết thúc cuộc gọi, chiếc bộ đàm được tắt và thả rơi trở lại trong túi áo. Vậy là nhiệm vụ đã hoàn thành. Nhưng chỉ có thế mà thôi.
***
Ở một nơi nào đó cách C-47 vài khu phố, giữa bóng tối của một nhà kho bị bỏ hoang, nơi ánh đèn đường không chạm tới và những bức tường ngấm nước in hình như những vệt mực loang, có một chiếc bộ đàm bật sáng. Đèn báo nhấp nháy, xanh rồi chuyển đỏ.
Trong không gian im ắng đến nỗi nghe rõ tiếng bụi rơi trên gỗ mục, một giọng nói vang lên, trầm, lạnh, không hề có tông cảm xúc nào, như thể đã bị trích lọc qua một lớp kính dày.
“Tsuyasa…Albridge.”
Sàn nhà rải rác những mảnh vỡ cùng những tấm thẻ công vụ gãy đôi và mớ chiếc găng tay bảo hộ bị vặn ngược. Các vũng máu chưa kịp khô in thành vệt hình ngón tay kéo dài đến tận chân tường.
Người ngồi trước đống máy móc tỏ ra phấn khích thấy rõ, liên tục rung đùi. Hắn là người đã bắt máy cuộc gọi vừa rồi thay cho những kẻ dọn xác xấu số vừa bị giết. Dưới chân hắn, thi thể của đội dọn xác mã 39 nằm co quắp, có người còn giơ tay như thể đã cố với tới nút báo động trước khi bị thổi bay đầu. Vết máu dưới cơ thể loang ra thành hình cánh hoa, nở rộ trên nền xi măng lạnh lẽo.
Chiếc mặt nạ của hắn trơn loáng, không hoa văn, không tạo hình, phản chiếu ánh tử nguyệt đang tràn vào khe hở nơi mái tôn. Qua lớp mặt gương ấy, mọi thứ đều méo mó, lệch vặn. Hắn lêu ngêu, an vị trên chiếc ghế bành dài, tư thế kỳ quái dị hợm. Lưng thẳng tắp, đầu hơi cúi, hai bàn tay đưa ra trước ngực, mười ngón đan lại với nhau như nâng niu cuốn sách vô hình, chưa từng được viết ra mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn. Hắn thản nhiên cất giọng giữa đống máu mủ, thi thể, và mùi xác thối, thưởng thức cái thú vui khó hiểu.
Ta không phải là bậc thánh nhân ngồi giữa tòa sen,
Không phải kẻ cứu thế mang lửa đến trần gian,
Không lèo lái con thuyền nhân loại,
Ta chỉ là một người cha đau khổ. Không vì danh vọng, chẳng vì vinh quang.
Ta đã không gầm lên như sấm giữa bầu trời tan vỡ,
Chỉ lặng im nhìn mái nhà sập xuống trước mắt con thơ.
Ta đã không bay lên trời cao như chim phượng lửa,
Đành quỳ xuống nơi bùn lầy, gánh nỗi đau từng giọt nước mắt rơi.


3 Bình luận