• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 03: Bi kịch sân khấu múa rối nước

Chương 07 - Hồi III: Bên lề

0 Bình luận - Độ dài: 4,122 từ - Cập nhật:

Tách!

Một tia lửa xanh lè lóe lên ngay đầu mỏ hàn, kèm theo một làn khói khét lẹt quen thuộc.

“Chết tiệt!” Tôi rủa thầm, vội rụt tay lại.

Con robot bốn chân nằm ngửa chỏng chơ trên bàn làm việc, bộ vi mạch của nó lại vừa hứng chịu thêm một tổn thương không đáng có từ bàn tay của chính chủ nhân. Chỉ một sai sót nhỏ, một giây run tay, cả một hệ thống phức tạp liền trở thành đống sắt vụn. Tôi thở dài, cảm thấy bất lực. Một cảm giác lạnh sống lưng, cộng thêm bất an ập tới khiến mấy sợi lông trên tay tôi dựng hết lên.

Một tiếng ‘cộc’ vang lên bên cửa sổ, tôi lê lết bước chân ra mở cửa sổ.

“Minh ơi!”

Tiếng gọi gấp gáp của Lộc từ ngoài cửa vọng vào, cắt ngang dòng suy nghĩ bực bội của tôi. Tôi bước xuống nhà, cẩn thận không phát ra tiếng động. Lộc lao vào phòng như một cơn gió, mặt nó có gì đó khác lạ. Không phải vẻ tò mò hay trêu chọc thường ngày.

“Sao mày lại ở đây? Vụ án đến đâu rồi?” Tôi hỏi, vẫn còn bực mình vì con robot.

Nó không trả lời ngay. Nó kéo ghế, ngồi phịch xuống đối diện tôi, hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh lại trái tim đang đập loạn xạ.

“Sáng nay,” nó bắt đầu, giọng khàn đi, “tao đã quay lại nhà hát.”

Tôi buông vội dụng cụ, quay hẳn người lại, mặt nó lộ rõ vẻ lo lắng. “Rồi sao?”

“Tao tìm thấy nó rồi,” Lộc nói, mắt nhìn thẳng vào mắt tôi. “Sợi dây thừng và dây cước. Đúng như ta đã hình dung. Hắn giấu nó trong bụng con rối Chằn Tinh.”

Mắt tôi mở to, từ kinh ngạc chuyển sang thán phục rồi lại lập tức tối sầm lại. “Chết tiệt... Vậy là suy đoán của mày đã đúng. Nhưng mà...”

“Nhưng có người đã thấy tao,” Lộc cắt ngang, giọng hạ xuống gần như thì thầm. “Tao không chắc là ai, nhưng tao cảm nhận được. Có người đã quan sát tao từ trên khán đài. Hắn có lẽ đã biết tao phát hiện ra bí mật của hắn.”

Không khí trong phòng đột nhiên trở nên đặc quánh. Sự phấn khích của một vụ án ly kỳ đã hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại sự nguy hiểm hữu hình.

“Mày phải nói với cảnh sát ngay!” Tôi đứng bật dậy. “Nói với bố mày! Mày đang gặp nguy hiểm đó!”

“Chưa được,” Lộc lắc đầu, tay siết chặt lại. “Bằng chứng đó tao đã để lại chỗ cũ. Nếu tao lấy đi, hắn sẽ biết. Nếu tao báo cảnh sát bây giờ mà không có bằng chứng trong tay, hắn có thể phi tang nó ngay lập tức. Cảnh sát đang bận đuổi theo tổ chức ‘Hắc Long’, họ sẽ không tin lời một thằng nhóc như tao nếu không có gì chắc chắn.”

Nó cũng đứng dậy, đối mặt với tôi. Đây là lý do chính nó đến đây.

“Minh, tao cần mày giúp một việc. Một việc rất quan trọng.”

“Việc gì?”

“Tao sẽ tiếp tục điều tra. Tao tin rằng chìa khóa để tìm ra hung thủ vẫn nằm ở nhà hát đó. Nhưng nếu...” nó ngập ngừng một giây, “...nếu trong vài ngày tới, tao đột nhiên biến mất, không liên lạc được, hoặc có chuyện gì bất trắc xảy ra với tao...”

Nó nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nói chưa bao giờ nghiêm túc đến thế.

“...thì mày phải hứa với tao, hãy kể lại tất cả mọi chuyện. Kể lại về cơ chế sợi dây, về con rối Chằn Tinh, về những gì tao với mày đã thực hiện được. Kể hết cho bố tao và cảnh sát. Đừng bỏ sót một chi tiết nào. Mày là phương án dự phòng duy nhất của tao. Mày hiểu chứ?”

Tôi đứng lặng người. Tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường bỗng vang to đến chói tai. Biến mất? Bất trắc? Những từ ngữ ấy đóng băng không khí quanh tôi. Nhìn vào đôi mắt đầy quyết tâm nhưng ẩn sâu nỗi sợ của Lộc, sự ngạc nhiên ban đầu trong tôi tan biến, thay vào đó là một mảng lạnh giá lan tỏa trong ngực. Nó sợ thật sự. Và nó tin tưởng mình. Một gánh nặng vô hình đè lên vai.

“Không được,” tôi nói, giọng chắc nịch, cố gắng che giấu sự run rẩy đang rung lên từ bên trong. Tôi nắm chặt bàn tay nó đang chìa ra. “Tao sẽ không để mày có chuyện gì đâu. Tao sẽ đi cùng mày.” Một mình mày quá nguy hiểm.

Lộc nhìn tôi, ánh mắt nó như dò xét, kiên quyết đến mức sự do dự trong tôi tan biến. Một sự đồng thuận không lời. Cuối cùng, tôi thở hắt ra, một hơi dài như trút bỏ gánh nặng, vai buông thõng xuống. Sự bất lực với con robot lúc nãy giờ chẳng thấm vào đâu.

“Thôi được rồi!” Tôi vỗ mạnh vào vai nó một cái “bịch”: “Đi nào, cộng sự!” Cố gắng tỏ ra hào hứng, nhưng nụ cười trên môi tôi có lẽ gượng gạo

Cái khí thế “cộng sự phá án” của chúng tôi chưa kéo dài được năm phút thì đã phải xẹp lép khi đối mặt với thử thách đầu tiên: qua mặt mẹ tôi. Cũng tại lần trước tôi có lỡ chọc giận mẹ, cộng thêm việc bà nhận ra dạo gần đây tôi hay gặp mấy chuyện kì quái, nên tôi bị cấm túc luôn cả mùa hè. Sau một màn phối hợp còn căng thẳng hơn cả điều tra án, chúng tôi cuối cùng cũng thoát ra ngoài.

Trên chiếc xe đạp cọc cạch của Lộc, tiếng xích sột soạt đều đều trong đêm tĩnh lặng. Gió đêm lạnh buốt luồn qua áo. Chỉ mất hơn chục phút, nhà hát kịch lại hiện ra trước mắt, âm u dưới ánh trăng mờ. Khối kiến trúc đồ sộ đổ bóng đen kịt, như một con quái vật khổng lồ đang ngủ say. Lộc, người đã quay lại đây mấy lần, trông có vẻ bình tĩnh hơn hẳn khi xuống xe, nhưng tôi thấy nó liếc nhìn nhanh các góc tối, cổ họng nó lăn một cục khi nuốt nước bọt. Mỗi bước chân nó đặt xuống cỏ đều nhẹ nhàng, thận trọng. Một nỗi sợ hữu hình đang bám lấy nó. Còn với tôi, dù đã trải qua kha khá chuyện kì dị, một cảm giác rờn rợn vẫn bò lên da thịt. Tiếng dế kêu rỉ rả từ bụi cây ven đường bỗng nghe như tiếng thở dài. Nơi này đang... tiêu hóa một bí mật nào đó, tôi nghĩ, và chúng tôi đang tự nguyện bước vào dạ dày của nó.

“Mày đứng đực ra đấy làm gì?” Giọng Lộc kéo tôi về thực tại.

Tôi vội rón rén theo gót nó. Lá cây ướt sương lạnh buốt vướng vào tóc, vào cổ. Chúng tôi vòng ra phía sau, một khoảng không rộng lớn hiện ra, hoàn toàn là một khu vườn trồng chuối và cây ăn trái. Mùi đất ẩm, mùi lá chuối tươi và mùi hoa quả chín nhẹ hòa lẫn. Ánh trăng lọc qua tán lá, tạo thành những vệt sáng mờ đục trên mặt đất. Khu vườn ngăn cách với khu dân cư bằng một bức tường thấp rêu phong. Lộc đột nhiên dừng lại như trời trồng, người cứng đờ. Mắt nó dán chặt vào một vệt cỏ đã ngả vàng, lấp ló dưới ánh trăng. Tôi nhìn theo. Chỉ là một con đường mòn nhỏ, hẹp, có lẽ là lối đi tắt của những người làm vườn. Có gì đặc biệt? Nhưng ánh mắt Lộc lại sáng rực lên, cái ánh sáng quen thuộc của sự phát hiện. Nó quỳ xuống, ngón tay chạm nhẹ vào vệt cỏ úa vàng. Tôi bước tới bên cạnh, vừa đặt tay lên vai nó định hỏi thì nó giật bắn người, xoay phắt lại, mắt mở to đầy hoảng hốt. May mà nhận ra tôi ngay sau đó.

“Mày làm gì như ma thế?” Nó càu nhàu.

“Có mày là ma ấy,” tôi bực bội. “Kéo người ta đến đây rồi đứng ngắm con đường này đến bất động. Rốt cuộc mày phát hiện ra cái gì rồi?”

Khi Lộc chuẩn bị mở miệng, một giọng nói khàn, lớn tiếng từ phía sau bụi chuối vang lên, khiến cả hai đứa giật thót, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Hai đứa kia! Lảng vảng ở đây làm gì đấy?”

Chúng tôi quay phắt lại. Một người đàn ông lớn tuổi, mặc bộ quần áo bảo vệ đã sờn cũ, tay cầm cái đèn pin lớn đang nhìn chúng tôi chằm chằm. Gương mặt ông khắc khổ, đầy nếp nhăn, ánh mắt dò xét đầy cảnh giác.

“Tụi bây bay định trèo vào trong nghịch phá chứ gì? Cảnh sát dặn không cho ai bén mảng đến khu này rồi.”

Trong lúc tôi còn đang cứng họng, Lộc đã nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Nó chắp tay sau lưng, hơi cúi người một cách lễ phép.

“Dạ không ạ! Cháu chào bác. Bọn cháu không có ý định vào trong đâu ạ. Cháu là... con của chú nhà báo hôm trước có đến làm việc với cảnh sát ạ.”

Nghe đến “nhà báo” và “cảnh sát”, vẻ mặt của ông bảo vệ dãn ra một chút, nhưng vẫn còn ngờ vực. “À... ra là hai cậu nhóc hôm nọ. Nhưng giờ này vào đây làm gì? Nơi này đang có án mạng, không phải chỗ để chơi đâu.”

“Bọn cháu biết ạ,” Lộc tiếp lời, giọng đầy thuyết phục. “Chỉ là cháu rất tò mò về vụ án, nên muốn xem xét xung quanh một chút thôi. Bọn cháu không vào trong đâu ạ.”

Lộc khéo léo chỉ tay về phía con đường mòn mà nó đang xem xét. “Cháu chỉ thắc mắc thôi ạ. Con đường mòn này... nó dẫn đi đâu vậy bác?”

Ông nhìn theo hướng tay Lộc, rồi lại nhìn hai đứa chúng tôi, vẻ cảnh giác đã vơi đi nhiều. Ông thở dài, gọi chúng tôi đi sang một góc.

“Đường này ít người đi lắm, toàn dân làm vườn họ đi tắt ra phía đồng thôi. Mà tối đến thì chẳng có ma nào bén mảng đến. Yên tĩnh lắm.”

“Bác sống gần đây ạ?” Lộc sau lưng một tay vẫn đang vuốt cằm.

“Không những gần, mà ta còn làm bảo vệ ở đây mà,” ông đáp, giọng bớt đi vẻ gắt gỏng, thay vào đó là sự mệt mỏi. “Thôi, hai đứa bay đã lỡ vào đây rồi, đừng lại gần đây quá, hung thủ vẫn chưa bị bắt đâu. Qua cái chòi của ta ngồi nghỉ một lát rồi về, đừng có lảng vảng ở khu vườn này nữa, không an toàn đâu.”

Nói rồi, ông quay người, dẫn chúng tôi đi dọc theo bức tường, đến một căn nhà cấp bốn nhỏ, lợp mái tôn đã cũ nằm nép mình ngay bên cạnh cổng sau của nhà hát. Đó có lẽ vừa là nhà, vừa là phòng trực của ông.

Bên trong căn phòng đơn sơ, chật hẹp. Mùi dầu gió nồng đặc, hòa lẫn mùi thuốc lào và hơi ẩm mốc xộc vào mũi. Chỉ có một chiếc giường gấp nhỏ, một bộ bàn ghế nhựa cũ kỹ màu xanh và một chiếc tivi đen trắng nhỏ xíu đặt trên chiếc tủ gỗ ọp ẹp. Trên tường, một tờ lịch cũ mờ nhạt. Ông bảo vệ rót cho chúng tôi hai cốc nước lọc từ bình tích nước lớn, nước đục ngầu. Rồi ông ngồi phịch xuống ghế, kêu răng rắc, thở dài một hơi dài như xả hết mệt nhọc.

“Mấy hôm nay cảnh sát họ hỏi đi hỏi lại, hỏi đến phát mệt,” ông bắt đầu kể, giọng khàn khàn. “Ta cũng kể y như những gì ta biết thôi. Tối hôm Chủ Nhật đó, mọi thứ hoàn toàn bình thường.” Ông vươn vai, xương khớp kêu răng rắc.

Lộc lập tức dương ánh mắt sắc lẹm như nhìn thấy con mồi về phía bác bảo vệ: “Bình thường là như thế nào ạ? Bác có thể kể lại chi tiết cho cháu nghe được không? Từng bước một ấy ạ?”

Nó đang đặt bẫy, tôi thầm nghĩ, dò xem có kẽ hở nào không.

“Thì cũng như mọi tối,” ông bảo vệ nhấp một ngụm trà đặc từ chiếc cốc sứt quai. “Cứ khoảng sau mười giờ khi vào ca là ta đi một vòng quanh nhà hát, kiểm tra hết các cửa nẻo, rồi về đây ngồi đọc báo, xem tivi.” Ông chỉ tay về phía chiếc tivi cũ. “Tối đó cũng vậy, sau khi nhấp xong ngụm cà phê, ta đi kiểm tra mọi ngóc ngách, kiểm tra những phòng nào chưa khóa hay không, hay có gì bất thường hay không. Ta đã nói y nguyên như thế với các chú công an rồi.” Ông ngừng lại, nhíu mày, vẻ mặt có chút bối rối, ngón tay gõ gõ lên mặt bàn nhựa. “Chỉ có điều...” ông ngập ngừng, nhìn xuống cốc trà. “Chắc do dạo này tuổi già sức yếu. Không hiểu sao mấy tuần gần đây, cứ đến tầm tối là mắt nó lại díu lại, buồn ngủ không chịu nổi.” Ông dụi mắt. “Không giấu gì mấy đứa, tối Chủ Nhật đó cũng y hệt. Ta ngủ quên mất một lúc.”

Chuyện người già hay buồn ngủ thì có gì lạ? Tôi thầm nghĩ, quan sát ông ta. Nhưng sao nó lại nhấn mạnh chuyện này? Tôi thấy Lộc lại bắt đầu suy tính. Ánh mắt nó lướt nhanh quanh căn phòng, dừng lại ở chiếc cốc trà trên bàn, rồi cái ấm tích nước. Nó như đang coi ông bảo vệ là một mảnh ghép trong bức tranh lớn.

Nhưng Lộc thì khác. Nó hơi nghiêng người về phía trước, ánh mắt sắc lại, tập trung hoàn toàn vào ông bảo vệ. “Bác ngủ một giấc, tầm bao nhiêu tiếng ạ? Lúc tỉnh dậy bác có thấy mệt không? Hay thấy người lạ lắm?” Tỉnh dậy thấy lạ? Tôi chợt giật mình. Nó đang nghĩ tới thuốc?

“Đấy mới là cái lạ,” ông bảo vệ gật gù, vẻ mặt thoáng chút ngạc nhiên. “Không hề mệt chút nào. Ngược lại còn thấy tỉnh táo lạ thường, cứ như vừa ngủ một giấc thật sâu vậy.” Ông vỗ nhẹ lên đùi. “Ta dậy lúc đó là mười một rưỡi rồi, tầm gần ba mươi phút. Sau đó ta đi kiểm tra mọi thứ một lần nữa, rồi mọi thế cứ thế lặp lại, ta lại trở về đọc báo với nghe đài. Cho đến buổi sáng khi cậu Trung đến bắt chuyện với ta như thường lệ, chúng ta ngồi nói chuyện với nhau gần một tiếng. Xong ta ngồi ấy đợi người khác đến thay ca, rồi trở về nhà.” Ông nhìn chúng tôi

“Ông rất thân với chú Trung đấy ạ?” Lộc tiếp tục, giọng vờ như tò mò bình thường.

“Cậu Trung đấy là người khá dễ gần, chịu khó,” nụ cười nhẹ hiện trên môi ông. “Cậu ấy luôn là người đến nhà hát sớm nhất, rồi đến chỗ phòng bảo vệ pha cà phê rồi tranh thủ nói chuyện với ta. Hiền lành, chăm chỉ.”

“Còn mấy nghệ sĩ khác thì sao ạ?” Lộc lúc này đã chuyển sang tư thế vuốt cằm suy nghĩ, ngón trỏ gõ nhẹ lên cằm. Nó đang lập sơ đồ quan hệ, tôi đoán.

“Ừm...” Ông bảo vệ nhìn lên trần nhà, như đang lục lại ký ức. “Với cậu Hùng thì tính tình có hơi bộc trực và dễ nổi nóng,” ông chép miệng. “Ta thấy cậu ấy cãi nhau khá nhiều với ông Lâm... mà cậu ta hầu như ai cũng từng cãi vã rồi thì phải. Cô Lý thì khác,” giọng ông dịu xuống, “một người hiền lành, thường xuyên giúp đỡ mọi người, nhưng mà lại có tính hay quên.” Ông cười khẽ. “Có lần ta thấy cô ấy để quên ví ở nhà hát, lúc tuần tra đêm ta đã nhặt được, sáng hôm sau ta đã trả lại, rồi cô ấy còn tặng ta chút tiền nhưng ta không lấy. Thế mà mấy lần sau, cô Lý toàn mang nào là hoa quả, rồi cả bánh kẹo nữa. Tốt bụng lắm.”

Ông dừng lại, nhấp ngụm trà. “An thì khác hẳn với mấy người còn lại, tuy mới chỉ vào nghề, nhưng trình độ không hề tệ, thậm chí rất tốt, nhưng hay bị cô Lý quở trách vì hay xao nhãng, với thiếu tự tin.” Ông thở dài. “Thằng nhóc cũng hay đến chỗ ta tâm sự... ta nhớ đấy là những lúc mà nó ở lại tập luyện đến gần đêm, hồi đó nó mới được tuyển, ta có mấy lần mang hoa quả từ nhà đến cho nó, thế nên từ sau lần đó, nó hay đến chỗ ta tâm sự rồi mới về. Nhút nhát, nhưng có tài.”

Một người tử tế, được lòng mọi người, tôi nghe câu chuyện của ông thì thầm nghĩ. Những nghệ sĩ: một người nóng nảy, một người hiền lành hay quên, một người nhút nhát. Ông Lâm thì nhiều người ghét. Vậy thì ai? Ai có động cơ? Ai có cơ hội? Câu hỏi quay cuồng trong đầu.

“Ông ơi? Ông Lâm đấy có phải ai cũng ghét không ạ?” Tôi bình tĩnh suy xét rồi quay sang hỏi, cố giữ giọng bình thản.

“Ghét chứ!” Ông bảo vệ hất tay lên, giọng đầy bực dọc. “Làm gì có ai trong nhà hát không ghét ông ta chứ. Ta nghe nói ông ta nhiều lần chèn ép nhân viên kĩ thuật, nào là chậm lương, rồi đến cả bắt họ tăng ca...” Ông hạ giọng, như sợ ai nghe. “Còn nữa nhé, ông chủ tịch lại còn bị ghét không kém, ta nghe mọi người nói, ông ấy keo kiệt, bủn xỉn. Có mấy đồ hỏng mà mãi chả chịu chi tiền gọi thợ thay.” Ông chỉ tay hướng ra phía nhà hát. “Còn nữa đến cái camera đấy, nếu ông ấy chịu thay thế cái mới nhanh chóng là hung thủ đã không thể dễ dàng lẩn trốn đến bây giờ rồi.” Ông than thở đến nỗi ho sặc sụa, mặt đỏ bừng. Tôi vội đưa cốc nước cho ông.

“Còn gì về ông chủ tịch nữa không ông?” Lộc bây giờ mới cất lời, sau một lúc đứng hình như đang ghép nối các mảnh thông tin.

“Còn gì à... hình như...” Ông vuốt bộ râu lưa thưa, đôi mắt đảo quanh suy nghĩ. “Ta chỉ nghe mấy đồng nghiệp với mấy cô cậu kĩ thuật nói thôi, chủ yếu là tính kẹt sỉn, ngoài ra thì khá hòa đồng. À hình như mấy cô lao công, với nhân viên vệ sinh dạo này có nói mấy lần về cái gì mà...” ông ngập ngừng, vò đầu. “Hình như là về việc vệ sinh cái hồ thì phải! Họ nói cần thay nước cho đỡ phải mất công, nhưng cũng chả nhận được hồi âm gì hết. Keo quá!”

“Về cái hồ ấy,” Lộc tiếp lời ngay, giọng hơi gấp, “họ vệ sinh kiểu gì vậy ạ? Bao lâu vệ sinh một lần ạ? Và... nước trong hồ có gì lạ không bác?” Nước hồ? Tôi nhíu mày. Có lẽ nó đang hỏi đến chi tiết cái xác dưới hồ?

“Mỗi sáng thứ hai hàng tuần,” ông đáp ngay, “còn họ vệ sinh kiểu gì... ta nhớ họ chỉ cần khử trùng bằng cách rắc vôi xuống, tuy có hơi gây khó chịu với các nghệ sĩ vì mùi với lại ngứa ngáy, nhưng thế là rẻ nhất rồi.” Ông nhún vai. “Ngoài ra họ chỉ lau dọn thành hồ với khu vực buồng tròi thôi. Chủ yếu đấy là công việc phụ, chứ họ làm cả lau dọn cả khán đài với mấy khu vực khác nữa.” Ông nhấp một ngụm chè lớn, rồi khạc một cái, nhổ nước bọt ra một góc sàn. “Nước thì vẫn thế, xanh lè. Vôi rắc xuống nó lắng xuống đáy.”

“Ông thích uống trè lắm ạ? Sao tối đến lại uống cà phê vậy ạ?” Lộc lại giở chứng gì đó, nó chuyển sang hỏi mấy câu gì đâu.

“Ừ ta uống khá nhiều, nhưng lúc trực đêm thì cần tỉnh táo lên ta thường uống cà phê.” Ông cười khẩy.

Đáp lại nó chỉ nở nụ cười, rồi quay sang thì thầm vào tai ông, một lúc sau ông thốt lên với vẻ đầy ngạc nhiên. “Đúng rồi, sao cháu biết hay vậy!”

Tôi quay sang Lộc với ánh mắt đầy thắc mắc và tò mò. Nó đã nói gì? Nhưng dù tôi có lắc đầu ra hiệu hỏi, Lộc chỉ nở một nụ cười tinh quái đầy bí ẩn. Rồi như coi tôi thành không khí, nó nhanh chóng lấy lại vẻ mặt nghiêm túc, ánh mắt lại trở nên sắc bén khi hướng về phía ông bảo vệ.

“Ông ơi? Thế ông biết về cô gái đã xảy ra chuyện ở nhà hát năm năm trước không ạ?”

Câu hỏi của Lộc dường như là một công tắc, tắt đi không khí nói chuyện cởi mở ban nãy. Nụ cười trên môi ông bảo vệ vụt tắt, thay vào đó là một tiếng thở dài não nề. Ông đặt ly trà xuống bàn, ánh mắt nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ.

“Chuyện cũ quá rồi, cháu hỏi làm gì...” Giọng ông trầm xuống. “Nỗi đau của người ta, không nên nhắc lại.”

“Cháu xin lỗi,” Lộc nói, giọng cũng chùng xuống theo. “Nhưng cháu tin rằng nó có liên quan đến vụ án lần này. Bất cứ điều gì bác biết, dù là nhỏ nhất, cũng có thể giúp ích ạ.”

Ông bảo vệ im lặng một lúc lâu, dường như đang cân nhắc.

“Ta không làm ở đây vào thời điểm đó,” cuối cùng ông cũng lên tiếng. “Ta mới về làm được hơn năm thôi. Người trực đêm hôm xảy ra vụ án của cô bé đó là ông Nam, một người bạn già của ta.”

Ông ngừng lại, đôi mắt hằn lên một nỗi buồn sâu sắc. “Ổng là người phát hiện ra con bé đầu tiên. Sau vụ đó, ổng như người mất hồn. Cảnh sát kết luận là tai nạn, nhưng ổng thì không tin. Ổng cứ lẩm bẩm một mình, nói rằng có gì đó không đúng, rằng ổng đã bỏ lỡ một chi tiết nào đó trong đêm kinh hoàng ấy. Ổng bị ám ảnh, rồi xin nghỉ hưu sớm. Tội nghiệp, ổng mất cách đây hơn hai năm rồi.”

Một cánh cửa dường như vừa đóng sập lại trước mắt chúng tôi. Nhân chứng duy nhất có thể biết điều gì đó về vụ án năm xưa đã không còn nữa. Tôi cảm thấy một sự thất vọng nặng nề.

Nhưng Lộc thì không. Đôi mắt nó loé lên một tia sáng. “Bác ơi, nhà của bác Nam ở đâu ạ?”

“Nhà ổng ở gần cuối khu dân cư, đối diện cổng chính nhà hát này này,” ông bảo vệ chỉ tay. “Nhưng giờ làm gì còn ai. Ổng có đứa cháu gái cưng lắm, được ổng cho đi du học từ mấy năm trước. À mà khoan...”

Ông bảo vệ bỗng vỗ đùi một cái. “Ta nhớ ra rồi! Nghe mấy bà hàng xóm nói, con bé đó mới đi du học về nước được mấy năm nay thôi! Chắc giờ định sống ở nước luôn rồi.”

Tôi và Lộc nhìn nhau. Một sự im lặng bao trùm, nhưng trong đầu cả hai đứa đều đang nổ ra những dòng suy nghĩ dữ dội.

Một cánh cửa vừa đóng lại, nhưng một cánh cửa khác, bất ngờ hơn, vừa hé mở.

Chúng tôi cảm ơn bác bảo vệ rối rít, rồi nhanh chóng rời khỏi căn phòng nhỏ. Vị nhân chứng quan trọng nhất có thể đã mất, nhưng di sản của ông, những gì ông biết, những gì ông ghi chép lại. Rất có thể vẫn còn đang nằm đâu đó trong căn nhà kia, chờ đợi được tìm thấy.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận