Galanthus
Tép Cam
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01: Kẻ Chuộc Tội

Chương 05: Đoàn Tụ

0 Bình luận - Độ dài: 6,072 từ - Cập nhật:

Mười lăm phút.

Oswald Wadsworth đã đợi Ashley Peterson đúng mười lăm phút.

Ngồi trong khoang xe ngựa, tay mân mê tờ giấy nhàu nhĩ gấp làm tư trên tay, Oswald lặng nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi người đồng đội cũ của cậu đang vật lộn với con ngựa bất trị dưới cái nắng oi ả. Dù cả Ashley lẫn người đánh xe có dốc sức kéo cương cỡ nào, con thiết mã lì lợm vẫn không buồn nhấc dù chỉ một chân.

Mười lăm phút vốn chẳng nề hà gì đối với người dư giả quỹ thời gian như Oswald. Và với người chiến hữu dăm ba bữa lại gặp một lần kia thì cậu càng không tiếc. Bất cứ khi nào cậu đều có thể chờ đợi. Ngoại trừ hôm nay. Bởi lẽ, lệnh triệu tập bắt buộc từ Cung điện Paimonia đã được gửi tới các thành viên Galanthus từ một tuần trước. Và hôm nay chính là lần đầu tiên Galanthus tụ họp, sau ngần ấy năm tan rã.

“Tao xin lỗi.” Ashley miễn cưỡng nói. Nếu không phải tình hình cấp bách, Oswald tin anh ta sẽ chẳng bao giờ thốt ra câu đó. “Mày tha cho tao đi, tao sắp phải đi công tác rồi. Có khi không được gặp lại nhau nữa đâu đấy!”

Dù chàng Thiếu tá có hạ mình đến mấy, con thiết mã vẫn chỉ giương hai lỗ mũi to đùng, thở phì vào mặt anh cái khí động cơ xám ngoét. Oswald không rõ nó giận anh vì lý gì, chỉ biết nó là con ngựa sáng nắng chiều mưa. Bất đắc dĩ, cậu trai đành lòng nhét mảnh giấy vào túi áo rồi bước xuống xe. Vừa ló đầu khỏi bóng râm, nắng đã đổ xuống đôi vai choàng áo bông lạnh toát, châm chích vào làn da trắng xanh và đôi má ửng đỏ buốt giá. Thấy Oswald bước tới, Ashley và người đánh xe cũng thuận thế nhường lại dây cương cho cậu.

Cậu trai nhà Wadsworth vừa đặt tay lên cái bờm bạc loáng bóng, con thiết mã đã nghiêng đầu dụi mõm vào chiếc khăn trắng trên cổ như đang làm nũng với cậu. Trước giờ, đám ngựa vốn đã chẳng sợ mùi tử khí toát ra từ da thịt một đao phủ như Oswald rồi. Chẳng cần lời nói, chỉ với vài cái xoa cổ vỗ về, nó đã dậm chân, thong dong mang theo chiếc xe kéo ra khỏi chuồng.

Oswald ngửa hai bàn tay, đầy châm biếm hướng về phía con ngựa và giỡn với Ashley: Làm thế này mới đúng này!”

Thấy vậy, Ashley cũng ngán ngẩm đảo mắt một vòng thay cho lời đáp: Thích thì cho cậu luôn đấy, tôi ngấy cái của nợ này rồi!”

Khi cả hai đã yên vị, cỗ xe ngựa mới lăn bánh rời khỏi Cục Hình sự, hướng về phía trung tâm thành phố. Ngồi đối diện chàng Thiếu tá, Oswald thấp giọng hỏi:

“...Thẩm vấn sao rồi?”

“Sau một tuần cũng khui được kha khá.” Anh đáp, giọng chùng xuống như đã cạn sức sau khi bị đám quan chức trên Tổng cục xoay mòng mòng. “Nhưng chỉ moi được tụ điểm bọn tay sai của Helix thôi. Chúng nó tụ tập trong tù, đàn đúm hút chích, đút lót cai ngục rồi làm cha làm chúa ở trong đấy.”

Phục vụ cho Tổ thi hành án, Oswald đã không ít lần được rỉ tai về những góc khuất bên trong trại giam, nhất là vụ biếu xén từ quan chức cấp cao đến giám ngục cấp dưới. Khổ nỗi, dù là người chịu trách nhiệm nằm vùng trong mảng này, vậy mà cậu lại chẳng có đủ bản lĩnh để leo cao giống như Quincy hay Douglas...

“Đến khi bạo loạn nổ ra, chúng nó xổng hết.” Chống tay lên bậu cửa, chàng Thiếu tá tựa môi vào các khớp ngón tay trầy đỏ. “Giết sạch cai ngục không chừa một mống thì còn ai để mà lấy lời khai nữa?”

“Cái đám Quincy chạm mặt trong điện thờ... mấy tên nghiện ấy. Cậu có moi được thêm thông tin gì về chúng không?”

Thấy Ashley liếc sang, Oswald đành phải hắng họng, ho một tiếng nghẹn đặc: “Hôm đấy... tôi bị Quỷ Thần kéo xuống Hỏa Ngục. Dưới đó lạnh... đầu tôi đóng băng mất tiêu.”

Giọng cậu nhỏ dần, và cái mũi nẻ hồng như người say thì lẩn vào cái khăn len trắng muốt. Dẫu có thân đến đâu, Oswald cũng không thể huỵch toẹt ra là cậu đã lạnh đến nỗi ngất lịm được.

“Hồ sơ bọn nó sạch lắm. Căn bản là vì bọn nó xuất cảnh lên Nhân Giới từ tám đời nào rồi. Mấy năm gần đây mới mò về.” Dường như Ashley cũng chẳng để ý đến chuyện đó. “Ngoài ba thằng đấy ra, mấy đứa bị chỉ điểm là râu ria của Helix, lúc bị Cục phát hiện thì đứa nào đứa nấy tự cắn lưỡi chết hết. Khổ cái, đường dây của chúng nó ở dưới này chỉ là nhánh nhỏ thôi. Muốn cắt đứt thì phải quán triệt vụ nhập cảnh cho thật chặt.”

“Mấy tên ở bên Xuất Nhập cảnh với Hải quan đó toàn tham nhũng không...”

“Nhận hối lộ mỗi lần cả mớ ấy chứ... Mà bên đấy dây dưa với nhiều ông to bà lớn, muốn động tay vào cũng không dễ thật.”

“Mình không có tay ở trong đấy hả?”

“Hỏi Douglas thì cũng có vài tên đấy. Nhưng mà bọn này dễ lật mặt lắm, không tin tưởng được. Chí ít cũng phải tuồn người của đội mình vào. Ngoài nội bộ Galanthus ra thì đâu có tin được ai.”

“Nếu Hawk vẫn còn làm ở Cục Xuất Nhập cảnh, giờ đội mình cũng đâu phải chật vật như này.”

“Cái thằng tù tội đó...” Vừa nhắc đến Hawk, Ashley lại gằn lên đầy khinh miệt như thể đã ngậm cục tức quá lâu. “Ngày đấy nó không bị tống vô tù mà vẫn ru rú trong Cục, kiểu gì có ngày cũng gây họa lớn. Nếu không phải tại nó... thì Galanthus đâu có giải tán!”

Thời bọn họ còn chung một chiến tuyến, thật khó để hình dung ra một Ashley bạo miệng nói lời cay nghiệt đến thế với người anh em chí cốt của mình. Thiếu tá xưa nay vốn là người không hay chấp nhặt, lại càng hiếm khi buông lời chỉ trích. Nhưng sự việc Hawk gây ra năm đó... Quả thực không thể dung thứ...

Biết mình vừa lỡ chọc vào vết sẹo sưng tấy trong lòng Ashley, Oswald liền nín lặng hướng ra ngoài cửa sổ. Tay cậu lại vô thức đút vào túi, rờ lên những mép cạnh nhăn nhúm của tờ giấy nằm sâu phía trong.

Sau cuộc bạo loạn, khung cảnh ở Vương quốc Paimonia thật sự rất tàn khốc. Rất rất tàn khốc.

Hai bên đường họ đi qua, chẳng còn thứ gì toàn vẹn. Gạch vụn đen nhèm chất đống, ăn sâu cái mùi tử khí lẫn khói ám khét mù, ngổn ngang vương vãi. Đây đó, cánh đàn ông lầm lũi cong lưng khuân cọc gỗ, cọc sắt, bao xi măng nặng trịch, chất bên các móng nhà xây dang dở. Phụ nữ đầu vấn khăn, mắt hoe đỏ, thay nhau xúc trạc gạch lên những chiếc xe chở thải nối hàng dài. Máy móc và nhân lực tái thiết được điều động tới mọi ngách, sắc xám đồng phục của Cục Trị an cũng hiện diện ở khắp nơi.

Dẫu cho cái guồng quay của người và máy khẩn trương là thế, từ quân đến dân, khuôn mặt người nào người nấy vẫn phảng phất cái nỗi tang thương vương vấn, thật khó để làm ngơ.

Chiếc xe ngựa lăn qua những vệt máu đen thẫm nhuộm nham nhở cả con lộ. Dấu chân trên đường tháo chạy của dân thường còn lưu vết như đang tái hiện lại khung cảnh hỗn loạn của cuộc bạo động ngày hôm đó. Oswald men đôi mắt ngà ngà như màu trời tuyết, dõi theo toán người đang trám đắp lại chiếc đài phun nước nơi quảng trường. Giữa đống gạch trạc ngổn ngang, tượng đài của Đọa Đế vẫn sừng sững hiên ngang dù đã hứng chịu làn sóng càn quét của đám phản đồ.

“Cậu đã… Viết di chúc chưa?”

Ashley chợt hỏi, giọng anh lắng hơn thường ngày.

“Rồi…” Siết nhẹ mép giấy nóng ran trong túi áo, Oswald chần chừ định lôi ra, nhưng rồi lại thôi.

Bỗng,

Két...!

Chiếc xe ngựa thình lình bứt tốc, lao vút đi như tên bắn. Cả khoang xóc nảy đảo điên khi bánh xe lăn trên mặt đường đầy gạch vụn. Choáng váng nôn nao, Oswald chỉ kịp víu chặt vào khung cửa. Khi cậu ngoảnh đầu tìm Ashley, anh đã đạp tung cửa và nhào ra ngoài. Thoắt cái, cậu đã thấy anh trèo lên ghế lái.

“Dừng lại!”

Siết cương, anh Thiếu tá quát lớn. Móng ngựa vừa kịp hãm lại ngay trước một chiếc xe bán rau củ quả đang đi ngang quảng trường. Ấy vậy mà, khoang xe phía sau lại không kịp giảm tốc, theo quán tính bật văng lên khỏi mặt đất. Trời đất chao đảo, và Oswald thì ngã dúi dụi.

Cơn choáng còn chưa tan, ai đó đã túm lấy cái mũ áo của Oswald và kéo cậu ra khỏi chiếc xe lật nhào. Cậu trai lồm cồm bò dậy. Vừa hoàn hồn, cậu đã thấy bóng dáng Ashley xăm xăm tiến đến chỗ con thiết mã. Lưng nó treo lủng lẳng cái càng xe gãy tan.

“Có muốn tao... bán quách mày đi không!”

Ashley túm lấy dây cương, bất lực gằn lên. Ấy thế mà con ngựa vẫn dửng dưng chìa răng ra nhâm nhi mấy củ cà rốt vương vãi trên nền đất.

“Thật sự xin lỗi anh nhé.”

Chàng Thiếu tá vừa định rút ví lấy tiền bồi thường, người đàn ông suýt bị họ tông vào đã reo lên.

“Có phải... Ngài Thiếu tá Peterson đấy không ạ...?”

Ashley chưa kịp chối, như thường lệ, thì lại có tiếng ai đó ồ lên.

“Thiếu tá Peterson kìa...”

Tiêu rồi...

Oswald ngán ngẩm khi thấy một vài người mau chân túa lại vây quanh Ashley. Vì cậu biết, một khi người dân đã nhận ra tên tuổi anh, mười lăm phút sẽ không chỉ là thời gian mà cậu phải chờ đợi đâu.

“Cảm ơn ngài Thiếu tá nhé! Hôm đó mà không có ngài thì chúng tôi đúng là khó giữ mạng...”

“May là gặp lại cậu ở đây, chứ chúng tôi chưa kịp cảm ơn cậu đã biệt tăm biệt tích rồi!”

Ashley chỉ đáp lại vài câu cho phải phép, thế mà người thì dúi vào tay anh một giỏ táo, người thì biếu anh một túi bánh mì, tay bắt mặt mừng. Bàn tay gân guốc, trầy đỏ của anh luống cuống đón lấy, ngượng nghịu như chàng lính mới vào khu. Ánh mắt anh cầu khẩn nhìn Oswald, chỉ chờ cậu tới giải vây.

Một Ashley đã quen với việc nói chuyện với địch bằng vũ lực, ắt không muốn lộ diện trước bàn dân thiên hạ, chứ đừng nói là dùng đôi tay vừa đoạt một mạng người này chạm vào dân thường.

Đành lòng, Oswald khệnh khạng tiến về phía đám đông. Mỗi hơi thở lạnh giá của cậu, mỗi bước chân nặng trịch cậu nhấc, đám đông lại lặng thêm một nhịp. Mặt ai nấy chóng tái đi, chẳng rõ vì hơi lạnh hay tử khí vương vẩn trên người cậu. Chỉ cần một ánh nhìn, họ cũng tự khắc rẽ lối. Chẳng mấy chốc, đoàn người hâm mộ đã vãn dần.

Và thế là Oswald đã giải tán đám đông không tốn lấy một giọt mồ hôi.

Không như Ashley - người được dân chúng mến mộ, chỉ cần nhìn thấy bộ dạng này của Oswald, người ta đã muốn né xa rồi chứ đừng nói là tiếp cận.

Ashley chỉ lấy có hai quả táo và một ổ bánh mì. Anh thảy cho Oswald một quả. Cậu trai đón lấy, ngắm nghía lớp vỏ xanh mọng. Đã từ lâu cậu chẳng còn nhớ mùi vị của thức ăn. Cắn một miếng, vị chua trong khoang miệng khiến cậu rùng mình, nhưng lại chóng xoa dịu cái cổ họng sưng tấy vì cảm.

“Cậu còn nhớ lần đầu bọn mình gặp Đọa Đế không? Tám mươi năm trước ấy.” Cắn một miếng táo, Ashley vừa đi vừa hỏi. Anh chưa về xe ngựa vội, mà lại hướng về phía tượng đài đặt giữa quảng trường. Chân Oswald cũng vô thức song hành cùng anh.

“Lúc đấy ông đang ăn dở quả táo. Thấy cũng lạ lạ nên tôi cứ liếc vụng mấy lần. Không hiểu sao ông lại để ý, đành bẻ cho tôi một nửa.”

Bọn họ dừng chân ngay trước bức tượng cao năm thước của Đọa Đế. Giữa quảng trường bề bộn, giữa những hỗn độn và tàn tích tựa bãi phế liệu khổng lồ, dáng hình của Ngài hiện lên qua tài điêu khắc của nghệ nhân Đọa Ngục như một ngọn hải đăng sáng rực, lại chân thực và sống động đến lạ. Tay phải cầm một mảnh gương, Ngài nhấn vào lòng bàn tay trái, máu tuôn rơi. Đó là lần đầu tiên Ngài dùng máu mình để gột rửa và cứu rỗi Đọa Ngục.

“Mấy trăm năm cuộc đời, tôi chưa từng được ăn món gì ngon đến thế. Giờ vẫn vậy.”

Ashley bẻ một nửa quả táo, lặng lẽ đặt dưới chân bức tượng. Xung quanh, tiếng trám vữa, tiếng búa ghe, tiếng hô từ các công trình dang dở vẫn vang lên đều đặn. Đọa Đế đã ra đi, mang theo cây cỏ, ánh sáng và cả mạch sống Ngài trao cho vùng đất này chôn sâu xuống huyệt mộ. Nhưng những sự sống mà Ngài đã cứu chuộc trên khắp Đọa Ngục này vẫn bền bỉ vươn lên, giống như đám cỏ dại mọc trên mộ phần Ngài.

Sau khi gọi người đến xử lý chiếc xe ngựa đang nằm chổng vó và kéo con thiết mã báo đời đi, bọn họ lại gọi một cỗ xe khác, tức tốc lên đường đến Cung điện của Đọa Vương Paimonia. Chưa đầy nửa giờ, Oswald đã loáng thoáng thấy bóng dáng những tòa lâu đài đồ sộ hiện ra như hàng bia mộ xám màu đóng xuống lòng Vương quốc. Cỗ xe ngựa băng trên con đường trơ trọi tiến vào hoàng cung, xuyên qua khuôn viên tiêu điều không một bóng cây ngọn cỏ. Đây đó, những pho tượng đá già cỗi đắp lên mình chiếc áo phong hóa loang lổ của thời gian đang trân mắt dõi theo bọn họ, đủ khiến cậu trai nhà Wadsworth nín thở.

Hai người họ đến vừa kịp lúc. Bước vào sảnh tiếp khách, Oswald đã thấy hoài niệm một mùi gỗ cũ của hai mươi năm về trước, chỉ thoang thoảng mà lại xuyên qua cả cơn ngạt mũi, đánh vào hồi ức trong cậu. Thảm trải vẫn ướm lên sắc đỏ ngà phai, và những cổ vật ngả màu trong dinh vẫn chẳng mấy khi được tân trang. Dưới dàn đèn pha lê mờ đục, đội trưởng Douglas và Quincy đang yên vị trên hai hàng ghế nhung. Ngay gần đó là Tristia, và ngay khi nhìn thấy cô, tim Oswald bỗng dưng chùn một nhịp.

Trước mắt cậu không phải Tristia bằng xương bằng thịt, mà chỉ còn là một chiếc đài vỏ gỗ bé con con vừa vặn hai lòng bàn tay. Dù đã thấy cô trong hình dạng này những hai lần, cậu trai vẫn chẳng thôi nghẹn lòng khi nhìn người đồng đội từng cùng cậu cắt máu ăn thề lại lâm vào tình cảnh oái oăm này. Ngồi xuống cạnh Douglas và Tristia, cậu nén chặt tiếng thở khò khè, mong sao mình không khiến bầu không khí ngột ngạt này thêm phần bức bối. Đây rõ ràng là buổi họp mặt chính thức của cả đội sau hai mươi năm tan rã, cớ sao mọi người lại căng thẳng đến vậy?

Nghĩ rồi, Oswald lại vô thức siết tờ giấy nằm sâu trong túi áo.

Lặng lẽ, cánh cửa đồ sộ trước phòng làm việc của Pamonia mở rộng. Người bước ra là Tổng thư kí Will’o, cánh tay phải luôn túc trực bên cạnh vị Đọa Vương. Tóc ông lơ thơ sợi bạc, khóe mắt cũng hằn rõ những dấu chân chim. Thứ gì đã khiến loài Đọa nhân vốn không thể lão hóa lại xuống sắc đến nhường này? Oswald tự hỏi. Chỉ khi đã đặt chân vào bên trong, cậu mới vỡ lẽ.

Tiếng giấy bút nghiến rành mạch trên mặt giấy vọng xuyên qua một dãy những bàn làm việc chặt kín công văn và nghiên mực, tạo nên cảnh tượng khiến Oswald choáng váng. Ở phía bên kia căn phòng, thân người có phần tiều tụy của vị Đọa Vương đang chìm nghỉm giữa đống giấy tờ chất cao như núi. Tay này kí bút chấm mực, tay kia đóng dấu phê chuẩn, đôi mắt trũng sâu lướt qua hàng chục văn kiện, đều đặn như một guồng máy.

Ngày họ còn hoạt động dưới quyền Paimonia, thần thái ngài uy nghi lẫm liệt. Ngài là hiện thân của luật pháp và công lý, là người đầu tiên rời khỏi tang lễ Đọa Đế để ban hành một loạt sắc lệnh, vực dậy Đọa Ngục đang trên đà diệt vong. Ngài là người vẽ đường cho con rắn mất đầu bò dậy, thay Đọa Đế chấp chính cả địa lục Đọa Ngục rộng lớn. Nhờ có ngài, dù lay lắt, Đọa Ngục mới còn đó. Ấy thế mà giờ đây, nhìn dáng hình ngài lúc này, đến cả Oswald cũng khó mà nhận ra người đã một tay che trời cho Đọa Ngục năm ấy.

Kính cẩn hành lễ với vị Đọa Vương xong xuôi, các thành viên mới ngồi vào chiếc bàn họp đặt ngay trước bàn làm việc của ngài. Đoàn thư kí đã được giải tán từ sớm, nhằm đảm bảo tính riêng tư tuyệt đối cho mọi cuộc triệu tập của Galanthus.

“Đơn từ chức các cô cậu đã nộp đủ hết chưa? Có vướng mắc gì không?”

Rất nhanh, không vòng vo, Paimonia đi thẳng vào vấn đề. Đôi mắt đục ngầu như màn trời sau mưa kia cuối cùng cũng rời khỏi tập công văn trên bàn, trông tỉnh táo đến đáng sợ, trái ngược hẳn với khuôn mặt hằn vẻ kiệt quệ của ngài.

“Năm người chúng tôi đã làm xong hết thủ tục, chỉ còn đợi bàn giao công việc nữa thôi ạ.” Với tư cách là đội trưởng, Douglas thay mặt cả đội báo cáo.

Cho đến giờ phút này, Oswald vẫn chưa nắm rõ được nguyên nhân tại sao bọn họ bị triệu tập đột xuất. Không như Quincy và Douglas – những người có quan hệ rộng với giới chính trị quốc phòng, hay như Ashley và Tristia – những người trong cuộc nắm được tin tức từ các kênh nội bộ. Oswald vốn dĩ chỉ quẩn quanh cái Tổ thi hành án hẻo lánh ở vùng ngoại ô. Tin tức đến tai cậu đều là hàng chót bét. Manh mối duy nhất mà cậu có, lại chỉ vỏn vẹn một cuộc gọi đến từ Cung điện Paimonia…

“Cậu hãy nộp đơn từ chức đi.”

Tông giọng quen thuộc của Tổng thư kí Will’o điềm nhiên vang lên qua chiếc máy liên lạc khiến Oswald chẳng thể tin nổi vào tai mình.

“Tại sao… ạ?”

“Đây là lệnh điều động tái nhập ngũ được gửi đến toàn bộ các thành viên Galanthus. Bảy ngày nữa, cậu sẽ có mặt tại Cung điện của Đọa Vương Paimonia lúc ba giờ chiều. Các cô cậu sắp phải lên đường công tác rồi.”

Oswald an phận thủ thường ở vị trí này đã lâu. Chuyện viết đơn xin nghỉ cậu còn chưa từng nghĩ tới, huống hồ là mơ tưởng đến ngày Galanthus tái hợp.

“Will’o, phát lệnh điều động nhập ngũ cho họ kí đi.” Phong cách làm việc của vị Đọa Vương vẫn nhanh gọn và anh minh như ngày nào. “Trong lúc đó, các cô cậu hãy nộp lại di chúc của mình. Những ai không muốn tham gia nhiệm vụ này cứ việc để trắng.”

Tổng thư ký trông nhỏ người mà linh hoạt đến lạ. Trên tay xấp giấy, ông vừa thoăn thoắt phát cho mỗi người một tập, vừa thu lại những bản di chúc họ đặt sẵn trên bàn. Oswald liếc sang phía Ashley trước tiên. Bản di chúc trước mặt anh, tuy thò thụt chẳng ra hàng lối, song lại được kẹp gọn trong chiếc bìa nâu hệt một tập hồ sơ vụ án. Kế đến là Quincy và Tristia. Mỗi người bọn họ chỉ nộp hai trang giấy theo tiêu chuẩn, dày đặc chữ viết tay. Còn Douglas ư? Khỏi phải nói, di chúc của anh ta dày như quyển án lệ mà cậu chẳng bao giờ đọc hết nổi trang đầu vậy. Một thẩm phán cầu toàn và chi li như anh ta, ngay cả hậu sự cũng phải quy hết ra thành giấy trắng mực đen dấu đỏ mới được.

Lưỡng lự một hồi, Oswald rút ra tờ giấy bị gấp làm tư nằm sâu trong túi áo, lóng ngóng trải vuốt cho phẳng phiu. Dẫu chẳng ai nhìn, tai cậu vẫn nóng bừng khi trao cho Tổng thư kí. Cậu không dám ngẩng lên nhìn Will’o, dù đã biết ông vẫn sẽ điềm nhiên như thể đây chẳng phải lần đầu.

Và đúng là như vậy thật.

Bởi lẽ, đây đã là lần thứ hai Oswald nộp di chúc trắng rồi.

Đặt tập di chúc vào chiếc hộp gỗ chạm khắc một bông hoa xuyên tuyết nhỏ, Will’o dõng dạc:

“Như các cô cậu đã biết, những cuộc bạo loạn cách đây hai tuần không chỉ gây ra tổn thất nghiêm trọng, mà còn làm lộ ra kẽ hở chí mạng trong hệ thống nhà tù và xuất nhập cảnh của Đọa Ngục. Chính là tham nhũng và hối lộ!” Chưa bao giờ Oswald thấy Tổng thư kí đĩnh đạc ấy lớn giọng đến vậy. “Nếu không nhổ tận gốc đám phản động dưới danh nghĩa Helix trà trộn trong nội bộ, thì những cuộc bạo loạn sẽ không phải là thứ duy nhất mà chúng ta phải đối mặt!”

Đọa Ngục quả thật vẫn còn non trẻ khi so với một Nhân Giới đã tồn tại qua bao niên kỉ, nhưng lại chưa từng thua kém bầu trời và mặt đất ở bất cứ khía cạnh nào. Thế nhưng, việc mất đi ong chúa ngay lúc bờ cõi đang mở rộng, lại là điều mà lần đầu tổ ong này phải đương đầu…

Nhất là khi đứng trước cám dỗ của dòng ma túy đang lăm le đổ xuống nơi cửa ngõ nối liền Nhân Giới và Đọa Ngục.

“Nếu không phải tại cái đám tàn dư loài người mở xưởng buôn ma túy như đi chợ…” Ashley nhếch miệng lầm bầm. Giọng anh thấp, nhưng lại vang rõ trong căn phòng yên ắng.

“Dù sao cũng không thể đổ hết lỗi cho mặt đất được.” Douglas nêu vấn đề. “Từ sau khi Đọa Đế mất, chúng ta buộc phải nới lỏng chính sách hải quan để thu hút giao thương từ Nhân Giới. Lâu dần những thông lệ đó đã tạo ra không ít kẽ hở.”

Câu nói ấy rõ ràng đang ám chỉ đến các quyết sách của chính quyền Đọa Ngục, điều chẳng mấy ai dám đề cập công khai, nhất là khi đang có sự hiện diện của một trong bảy Đọa Vương. Ấy thế mà Douglas lại chẳng hề ngần ngại. Bởi lẽ bọn họ đã quá rõ, nếu không có nước đi mạo hiểm của Paimonia, có lẽ Đọa Ngục đã sớm rơi vào tình cảnh loạn lạc rồi.

“Sau cuộc bạo loạn vừa rồi, Cung điện đã ban hành chỉ thị, yêu cầu các Vương quốc khác đình chỉ toàn bộ các hoạt động xuất nhập cảnh.” Sắc mặt Tổng thư ký vẫn không lay động. “Còn về các tuyến giao thương do Tổng cục Hải quan Đọa Ngục quản lý, Cung điện sẽ điều lực lượng thanh tra tới giám sát và thanh trừng sâu mọt. Một khi nguồn ma túy đổ xuống lòng đất bị cắt đứt, dọn dẹp tàn dư Helix và chân tay sẽ không còn là vấn đề.”

“Vừa rồi chúng đã đích thân thanh trừng các cai ngục nhận hối lộ và bao che cho người của chúng trong các trại giam để bịt đầu mối. Lực lượng cai ngục hiện đang thiếu trầm trọng. Cục Hình án đã có phương án giải quyết chưa?”

Giọng Đọa Vương Paimonia khàn và trầm thấp, giống như một con thú vã nước bên bờ sông sau cuộc đi săn bất thành. Ánh mắt kiên định của ngài nhìn về Oswald, khiến cậu khựng lại đôi giây. Rất nhanh, cậu trai nhà Wadsworth đã sắp xếp lại bộ não, hắng giọng đáp:

“Dạ vâng. Trước mắt thì chúng tôi đã điều nhân sự từ Tổ thi hành án xuống các trại giam, đồng thời xin lệnh hỗ trợ từ các Vương quốc ít tổn thất hơn ạ. Chúng tôi cũng đã triển khai đề án, thực hiện xét nghiệm ma túy trên cả phạm nhân lẫn cai ngục rồi ạ.”

Paimonia chỉ gật đầu nhẹ một cái cũng đủ khiến Oswald yên lòng. Đoạn, ngài hướng về phía Ashley ngồi đối diện cậu, hỏi:

“Lần này Cục Hình sự có điều người đến không Peterson?”

“Có thưa ngài.” Tốc độ phản ứng của Ashley có lẽ gấp đôi Oswald. “Chúng tôi đã điều phối nhân lực các phòng ban khác xuống Cục Hình án để giám sát và phối hợp điều tra danh sách tình nghi ạ.”

“Phải vậy. Dù có thiếu hụt nhân sự cũng tuyệt đối không được dung túng cho bọn quan tham đấy. Phải nhổ cho bằng hết!” Pamonia gằn lên, bờ môi nẻ khô bặm chặt. “Giặc ngoài không đáng sợ bằng thù trong. Nếu như để Helix bắt tay với bọn chúng, Đọa Ngục đến xương cũng không còn đâu.”

Quả thật, tốc độ lan của làn sóng ma túy thật quá khủng khiếp. Helix chỉ mới nhắm vào mạng lưới ngục giam thôi đã thổi bùng lên cuộc bạo loạn khiến Đọa Ngục chao đảo, rút cạn nhân lực lẫn vật lực của bọn họ. Nếu chúng dùng ma túy làm công cụ để mị dân, hậu họa về lâu về dài Oswald thật sự không thể mường tượng nổi.

“Còn về phía Helix,” Will’o nói. “Sau đợt truy quét vừa rồi, an ninh được tăng cường nên tình hình cũng tạm lắng xuống. Đám Helix thì vẫn đang lẩn khuất chờ đợi thời cơ. Nhưng chúng ta thì không thể ngồi yên chờ địch đến đón đầu được.”

“Muốn sông sạch thì phải lọc từ nguồn,” Paimonia tiếp lời. “Đầu não chúng ở đâu, chúng ta tấn công ở đó. Đó là lý do Galanthus có mặt ở đây ngày hôm nay. Trong thời gian tới, các cô cậu sẽ được điều chuyển lên Đại Sứ Quán của Đọa Ngục tại Nhân Giới, phối hợp với họ để truy lùng và đốt sạch hang ổ bọn chúng.”

Oswald bâng quơ nhìn tờ lệnh điều động đánh máy kín hai trang trước mặt, rồi lại quay sang phía các thành viên khác, không khỏi lắc đầu nể nang. Ai cũng đều kí cả rồi! Còn cậu thì đến một chữ vẫn chưa đọc.

Đối với những người xuất thân là quân nhân như họ, hoặc ít nhất là với Oswald, lệnh điều động chính là tấm vé nhanh nhất để thoát khỏi cái chốn quan trường đầy mưu mô toan tính này. Trên chiến trường thì không có chuyện cá lớn nuốt cá bé. Đối mặt với cái chết, vạn vật đều ngang hàng. Điều duy nhất khác biệt có chăng là cách mai táng. Mà khi đó thì đã chết quách rồi còn đâu…!

Oswald để di chúc trắng cũng là vì lý đó. Một khi đã chết, mọi thứ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Không buồn đọc, cậu trai lật thẳng tới trang cuối, vặn bút mực, dứt khoát kí tên. Phía bên kia bàn, Tổng thư kí đang đóng chiếc dấu đỏ lên lệnh điều động của Tristia theo yêu cầu từ phía cô. Vừa thu lại giấy từ các thành viên kế bên, ông vừa phổ biến:

“Đại Sứ Quán hiện vẫn đang theo dõi các hoạt động ngầm của Đọa nhân trên Nhân Giới. Nhưng mạng lưới buôn bán ma túy của loài người quả thật quá phức tạp. Cho đến giờ họ vẫn chưa lần ra gốc rễ của bọn chúng. Nếu đẩy nhanh được tiến trình thông qua thẩm vấn, thì các cô cậu cũng bớt được phần nào việc.”

“Về vấn đề thẩm vấn,” Ashley mở lời, “vừa rồi Tổ chuyên án chúng tôi bắt giam được một tên. Hắn từng chạy việc kiêm vận chuyển hàng cho đường dây phân phối ở Nhân Giới. Các ngài đã nghe về Khu phức hợp Gladiolus chưa ạ?”

“Có, bọn chúng không chỉ kinh doanh các loại hình giải trí mà còn vận hành một sòng bạc lớn.” Hàng lông mày rậm của Paimonia khẽ nhíu lại bên dưới mái tóc vàng đã bạc trắng phân nửa. “Nếu có dính líu đến ma túy thì cũng chẳng lạ. Nhưng Cung điện chưa nhận được bất kì báo cáo nào về vụ đó hết.”

“Khai ra đầu mối về Gladiolus xong, hắn cũng chết ngay tại chỗ do phản nguyền của Khế ước Câm lặng.” Nói đến đây, nắm tay trầy xước đang đặt trên bàn của Ashley liền rút xuống dưới. “Giờ chúng tôi chưa thể xác định chính xác mối liên hệ giữa Khu phức hợp và Helix, nhưng vẫn nên bắt đầu điều tra từ đó ạ.”

“Được. Ta sẽ gửi điện cho Đại Sứ Quán. Các cô cậu có hai tuần để xử lý tồn đọng và bàn giao công việc cho người kế nhiệm.”

Đợi Paimonia hết lời, Will’o mới gõ tập giấy vừa thu trên tay xuống mặt bàn cho ngay ngắn, đoạn trình lên cho vị Đọa Vương: “Tất cả đều tham gia thưa ngài.”

“Tốt. Còn về người vắng mặt,” ngài đánh mắt sang chiếc đồng hồ gỗ sứt góc bên mép bàn, rồi mới lia qua Ashley. “Peterson, cậu có thể đưa tận tay lệnh điều động cho cậu ta kí không?”

Oswald sững người, ánh nhìn dán vào Ashley ngay đối diện. Sắc mặt anh không đổi, nhưng bàn tay rươm rướm máu đang khoanh trước ngực lại chẳng kiềm được mà khẽ siết đến nổi gân. Trong số tất cả những người ngồi đây, tại sao cứ phải là Ashley Peterson chứ?

“Được ạ.” Ashley đáp, như thể không gì lay động được anh.

“Tội ác mà cậu ta gây ra, Đọa Ngục không một ai dung thứ. Nhưng Đọa Ngục cần Galanthus. Và Galanthus cũng cần Hawk nữa.”

“Cá nhân tôi thấy, nhiệm vụ lần này đâu có nghiêm trọng đến mức phải tái hợp cả Galanthus đâu ạ?” Tristia bấy giờ mới lên tiếng. Tiếng rèn rẹt lẫn đâu đó trong những thanh âm từ chiếc đài lại khiến giọng cô thật lạnh và xa cách. “Helix không phải lý do duy nhất ngài điều động chúng tôi đến Nhân Giới đúng không ạ?”

“Phải, còn một việc nữa.” Đẩy tập giấy sang bên, Paimonia quay đầu ra hiệu cho Tổng thư kí. Hiểu ý ngài, Will’o liền bật từ dưới đáy chiếc hộp đựng di chúc ra một chiếc khay gỗ. Nằm ngay ngắn phía trên lớp lót nhung đỏ chính là một bức thư đã ố màu.

“Cách đây một tuần, Cung điện nhận được di thư Đọa Đế để lại từ tay một cố hữu. Có cả của Galanthus đấy.”

Mới nhắc đến hai chữ “Đọa Đế”, không khí trong căn phòng bỗng dưng đông cứng lại. Ngay cả Quincy, người chẳng mấy khi để lộ tâm tình cũng khó giấu nổi vẻ kinh ngạc. Bởi lẽ, năm ấy, di sản duy nhất của người trị vì Đọa Ngục suốt bao thiên niên kỉ lại chỉ có vỏn vẹn vài trang di chúc mỏng tang mà thôi…

Tại sao đến tận bây giờ họ mới nhận được lá thư đó? Ai là người đã cất giữ nó suốt bốn thập kỉ? Và người cố hữu trong lời nói của Paimonia rốt cuộc là ai?

Bàn tay nhăn nhúm, gầy rạc của vị Đọa Vương chống xuống mặt bàn, nâng cơ thể cao kều đứng dậy. Bờ vai đã gánh vác Đọa Ngục đến hao mòn dưới tấm áo bào khẽ rung lên, cũng sớm vững lại khi đôi chân tìm được điểm tựa. Tay không gậy chống, lưng thẳng như tựa ngai vương, ngài bước tới trước bàn họp của Galanthus. Tổng thư kí kề cạnh ngài, không rời nửa bước.

Nghe tiếng đội trưởng Douglas kéo ghế, Oswald liền đứng dậy ngay tắp tự như thể kỉ cương và phục mệnh là bản năng ăn sâu trong máu cậu. Không chỉ mình Oswald, tất cả các thành viên còn lại đều thành kính quỳ gối xuống hành lễ, cúi đầu tỏ lòng trọng thị khi Đọa Vương Paimonia đích thân trao thư.

“Trong di thư Cha để lại cho Cung điện Paimonia có đề cập đến một di vật có thể cứu vớt Đọa Ngục khỏi suy vong.”

Đọa Vương nâng bức thư từ chiếc khay trên tay thư kí lên, và Douglas cũng kính cẩn đón lấy di vật từ ngài. Từng lời ngài cất khiến tim Oswald đập vang lồng ngực. Chẳng đâu xa, đó chính là cái cảm giác cồn cào nôn nao trước giờ xuất chinh, thứ mà cậu tưởng chừng đã đánh mất từ lâu.

“Nếu Galanthus là những người được Cha tin tưởng giao phó, Vương quốc Paimonia sẽ toàn lực dốc sức phụ trợ!”

“Đã rõ!” Tất cả thành viên đồng thanh hô to. Tiếng hô rền vang như một toán quân.

“Đọa Ngục tự cổ chí kim đã phải đánh đuổi thù trong, giặc ngoài.”

Trái với dáng vẻ gầy guộc rệu rã, giọng ngài vang, tiếng ngài đặc như thể không gì đánh gục được ngài, kể cả cái chết.

“Dù địch lần này có là bầu trời hay mặt đất, ta cũng chẳng nề hà. Máu dân đã đổ, xác quân đã chôn. Đọa Ngục chúng dám rửa bằng hận, mộ phần Đọa Đế cũng dám đào bằng tay. Động vào Cha là mạo phạm, động vào dân là tuyên chiến. Đã cả gan, thì dù có là Thánh Địa trên cao kia, ta cũng đánh rơi cho bằng được!”

Khi đội trưởng Douglas đứng dậy, Oswald và các thành viên cũng thôi hành lễ.

“Khoan mở vội. Hãy đợi đến khi Galanthus có mặt đầy đủ.”

Thế rồi, vị Đọa Vương lại khó nhọc đặt mình xuống ghế. Đôi lông mày mệt nhoài trên vầng trán rộng khẽ díu vào nhau. Ngài nhìn đồng hồ và cầm bút lên, như thể công việc đã trở thành một phần không thể thiếu của ngài. Căn phòng lại đi về đúng guồng quay của nó, và cả tay ngài cũng vậy.

“Sắp tới, Đọa Ngục sẽ cải tổ bộ máy. Khi các cô cậu trở về, sẽ có nhiều thay đổi rất lớn đấy.”

Dẫu Galanthus đã để lại di chúc, dẫu Galanthus đã luôn sẵn sàng để chết, câu nói ấy lại giống như tấm vé hai chiều sẵn sàng đón bọn họ trở về cố hương...

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận