• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Volume 2 (Thánh Nữ Không Thấy Ánh Sáng)

Chương 4

0 Bình luận - Độ dài: 6,278 từ - Cập nhật:

Lễ tang của Cha Carol Snowell được cử hành một cách trang trọng và đầy tận tụy bởi Thánh nữ Nevissa Vernalia. Khi những hồi chuông vang lên, nàng cầu nguyện lên các vị thần, khẩn xin họ ban phước cho linh hồn ông và dẫn dắt ông không lạc lối về bên họ. Những đốm sáng huyền diệu được tạo nên từ lời cầu của nàng hòa vào ánh lửa từ những cây nến mà vô số người đưa tang cầm trên tay, khiến không khí tang lễ mang một sắc màu kỳ ảo và linh thiêng đến lạ lùng.

Người ta đã tìm thấy thi thể ông—không phải là một thi thể hoàn chỉnh nữa—mà là những mảnh vụn, rải rác trên khung kính màu nhìn ra đại sảnh của nhà thờ. Khi các linh mục tới làm lễ buổi sáng, họ đã lập tức cảm thấy có điều gì đó không ổn ngay khi mở cửa. Họ ngửi thấy mùi máu, và khi ngẩng đầu lên… là cảnh tượng khủng khiếp ấy. Đó là những gì họ kể lại với chúng tôi.

Tất cả đều chết lặng trước sự tàn độc kinh hoàng của vụ sát hại. Khi tôi chạy đến cùng với Cion, chính tôi cũng phải đưa tay bịt miệng lại trong cơn sốc. Liệu ông ấy đã bị xé xác khi vẫn còn sống, hay đã bị sự điên cuồng tàn bạo của kẻ sát nhân dày xéo ngay cả sau khi chết? Tôi có thể cảm nhận được làn sóng ghê tởm lan ra giữa đám đông khi họ đối mặt với mức độ tàn nhẫn và vô cảm của con người. Và khi tôi đứng trước thi thể ấy, tôi cảm nhận rõ ràng trái tim mình đang lạnh dần đi, từng giây một.

Sự mất mát đột ngột khiến các linh mục khác rơi vào bối rối, không biết phải làm gì. Vì vậy tôi là người đã đứng ra điều tra. Nhưng tôi biết trước là vô ích. Tôi không tìm được bất kỳ manh mối nào về kẻ giết người, không có gì giúp lần theo dấu vết.

Veil Croitzen là một sát thủ có khả năng biến chính cơ thể mình thành bóng tối và di chuyển tự do trong đó. Tôi không biết hắn là ai, và động cơ thật sự của hắn vẫn là điều bí ẩn. Nếu hung khí chỉ là một cái bóng ẩn nấp trong đêm, thì việc tìm kiếm quả thật vô vọng.

Tôi chẳng tìm được gì. Thứ duy nhất tôi có thể làm… là dọn dẹp thi thể và khôi phục lại sự linh thiêng cho nơi thánh điện. Những mảnh kính màu vỡ tan hòa lẫn trong nội tạng ông—tôi đã nghĩ là không thể khôi phục nổi. Nhưng cô trợ tá của thánh nữ, Sơ Loria, đã tìm đến tôi, nước mắt rưng rưng, cầu xin được giúp. Tôi để việc phục chế lại cho cô ấy. Dù sao thì tôi cũng không biết bức tranh kính ban đầu trông thế nào, nên không thể tự mình làm được. Có lẽ cô ấy cần điều gì đó để có thể tưởng nhớ Cha Carol theo cách của riêng mình.

Nhưng tại sao...?

Tôi thẫn thờ nhìn dòng người đưa tang lặng lẽ di chuyển.

Cha Carol Snowell—ông ấy tuyệt đối không phải là quỷ dữ. Gốc gác của ông rất dễ truy ra—sinh ra tại một thị trấn nhỏ hẻo lánh, mất hết người thân vì dịch bệnh. Ông là một con người bình thường, với một cuộc đời và quá khứ đúng nghĩa. Tôi không thể dám chắc rằng ông không có một mặt khác nào ẩn giấu, nhưng khi tôi nhìn vào hàng người dài vô tận đang xếp hàng đến tiễn biệt ông, tôi có thể khẳng định một điều: chẳng có lý do gì để ai đó thù ghét ông cả.

Nếu xuất thân khá hơn, có lẽ ông đã trở thành một trong Thất Đại Hồng Y. Câu nói đó từ Sơ Loria không hề mang thành kiến hay thiên vị gì. Tình yêu mà mọi người dành cho ông là điều quá rõ ràng—và số người ông từng cứu giúp cũng vậy. Tôi là một trong số họ. Nhưng tôi...

Một tiếng thở dài nhỏ, cay đắng trượt khỏi lồng ngực tôi.

Lẽ ra tôi nên cảnh giác hơn. Tôi không bao giờ nên lơi lỏng phòng bị. Ngay tại khu vườn hôm đó, tôi đã phải bắt và giết Veil Croitzen, cho dù điều đó khiến cơ thể tôi tan vỡ.

Trong đầu đầy ắp bóng đen dao động, tôi rời khỏi đại sảnh nhà thờ, để đôi chân tự đưa mình xuống các phòng giam ngầm nơi rìa khu đất thánh. Những tù nhân bị quỷ ám không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra bên trên, nhưng khi nhìn thấy cô dâu mà họ từng chiến đấu hôm nào, họ trừng trừng nhìn tôi qua chấn song bằng ánh mắt dã thú.

“Không ai trong các ngươi có lỗi, nhưng ta sẽ rất cảm kích nếu các ngươi hợp tác.”

Cuộc thẩm vấn của các hiệp sĩ thánh trước đó chỉ mang tính hình thức. Cuộc tấn công của họ không gây ra thương vong nào, nên nhờ vào lòng khoan dung của Đức Bà Uyên Tuệ, họ được tha mạng. Họ sẽ bị đày sang một hòn đảo phương Đông bằng con tàu tháng một chuyến. Cho tới lúc đó, họ được để yên. Nhưng tình thế giờ đã khác. Họ là đầu mối duy nhất tôi còn lại để lần ra tên sát thủ bí ẩn kia.

“Thông qua điều tra, ta biết các ngươi đã được một kẻ đồng lõa dẫn vào thánh đường. Ta cũng biết người đó là một cá nhân cực kỳ nguy hiểm, mang biệt danh ‘Kẻ Quan Sát Cái Chết’ hay ‘Veil Croitzen.’”

Về lý thuyết thì vẫn có thể có một kẻ đột nhập khác cũng biết điều khiển bóng tối, nhưng Veil vẫn là nghi phạm số một.

“Ta muốn các ngươi nói cho ta biết danh tính và năng lực của hắn—hoặc của ả. Đây không phải là một cuộc mặc cả. Đây là mệnh lệnh.”

Lạ lùng thay, tôi cảm thấy bình tĩnh hơn bao giờ hết. Suy nghĩ của tôi sáng rõ đến rợn người. Cứ như thể các vị thần đang chỉ đường, tôi biết chính xác điều mình phải làm tiếp theo. Tim tôi hỗn loạn, nhưng đầu óc lại sắc bén đến kỳ lạ.

“Phải, ta biết rõ Thánh Nữ đã cam kết bảo vệ sinh mạng các ngươi. Do đó, các ngươi không có lý do gì để tuân theo yêu cầu của ta... Trừ phi, chẳng hạn, ta đề nghị thả các ngươi ra.”

Tuy nhiên, tôi không thể làm trái lệnh thánh nữ để phóng thích họ.

“Do đó, đây không phải một lời mặc cả, mà là mệnh lệnh.”

Vừa dứt lời, tôi kích hoạt pháp trận mà mình đã tự tay khắc nên từ con số không. Một quả cầu lửa khổng lồ hiện ra, ánh sáng rực cháy của nó hoàn toàn lạc lõng giữa bóng tối ẩm thấp nơi tầng hầm.

“Không dài dòng nữa.”

Tôi ném thẳng quả cầu lửa vào tên quỷ bị giam gần nhất.

53ce3119-b686-459d-9390-d4bb47aa1a90.jpg

Có một tiếng thét rợn người vang lên. Giọng gào trầm đục của gã đàn ông vang vọng khắp dãy ngục. Cơn đau khi bị thiêu sống chắc hẳn không thể nào tưởng tượng nổi.

“Đừng lo. Không sao đâu. Ta sẽ không giết ngươi.”

Rồi tôi bắt đầu cầu nguyện. Gã đàn ông lực lưỡng, thân hình như vượn, đã bị lửa nuốt chửng, phần lớn tóc trên người đã cháy rụi. Nhưng tình yêu của các vị thần bắt đầu chữa lành cho hắn—làn da đỏ rực và cháy đen dần dần liền lại, mái tóc nâu sẫm mọc trở lại ngay trước mắt tôi.

“Chuyển hóa, hấp thu, phân tách, kết hợp.”

Tôi niệm thêm một công thức nữa, và ngọn lửa bỗng dưng bùng lên dữ dội trở lại.

Tiếng gào lần thứ hai còn tuyệt vọng hơn cả lần đầu. Âm thanh xé họng hắn khiến tai tôi cũng bắt đầu đau nhức.

“C-c-cái quái gì đang diễn ra vậy hả?!”

Gã mặt chó có vẻ là thủ lĩnh của nhóm. Khuôn mặt hắn hiện rõ sự hoảng loạn và kinh hãi.

“Bản thân ta cũng chẳng hứng thú gì với chuyện này...” tôi nói. “Nhưng ta không còn cách nào khác để buộc các ngươi phải mở miệng.”

Tôi không nghe thấy tiếng nói từ các vị thần, nên buộc phải chọn cách trực tiếp—tìm câu trả lời trong trái tim kẻ khác.

“Mau trả lời đi. Kẻ đồng lõa của các ngươi—‘Kẻ Quan Sát Cái Chết’—hắn là ai? Hắn hiện đang ở đâu?”

Gã to lớn bị thiêu ngã gục xuống, miệng rên rỉ yếu ớt. Khi tôi chờ câu trả lời, tôi lại cầu nguyện để chữa lành hắn. Có vẻ như hắn đang dần mất ý thức; đồng bọn gọi tên hắn, nhưng hắn chỉ phát ra vài tiếng lầm bầm vô nghĩa. Dù đã được chữa lành, hắn vẫn co giật, run rẩy trên mặt đất, thở từng hơi nông và đứt quãng.

Chứng kiến sự đau đớn của bạn mình, ngay cả những kẻ bị quỷ ám cứng đầu này cũng bắt đầu lung lay. Theo những gì tôi nghe được, trước đó họ chẳng hé răng với ai, ngoài câu “ăn cứ* đi.” Nghe tưởng bọn chúng gan lì lắm. Nhưng, đó chính là sức mạnh của lễ rửa tội từ các vị thần.

“Ta chưa bóp nát cổ họng các ngươi... ít nhất là chưa. Nói đi.”

Vừa nói, tôi vừa kết hợp một công thức khác.

Tích lũy, chuyển hóa, nén ép.

Một vài khối cầu chất lỏng bắt đầu lơ lửng trong không khí. Cô gái tai mèo, nhỏ nhắn nhưng sắc sảo, gầm lên chửi rủa tôi khi nhìn thấy.

“Con khốn tra tấn của Giáo hội! Mày chỉ là con chó đẫm máu của mấy vị thần thôi!”

“Đúng vậy. Thì sao?”

Những quả cầu axit sulfuric lặng lẽ luồn qua chấn song phòng giam và bắn lên người cô ta, ăn mòn cả da lẫn thịt. Một tiếng hét nữa vang lên, thấm đẫm đau đớn.

Phần xương trắng hở ra trông kỳ lạ, như được đánh bóng. Tôi cảm thấy một tràng cười lạ lùng dâng lên trong cổ họng. Mùi chua chát lan ra, cho tôi biết mình đã có “nguyên liệu mới”—đau đớn quá độ khiến cô ta không kiểm soát được mà tiểu ra quần.

“Tích lũy, chuyển hóa.”

Tôi bắt đầu xử lý nguyên liệu bằng một công thức khác để chuẩn bị đòn kế tiếp, đồng thời chữa lành cho cô gái tai mèo bằng một lời cầu nguyện.

“Trả lời ta. Nói cho ta biết tất cả những gì ngươi biết.”

Tôi sẽ không giết họ. Nhưng tôi cũng không định thả họ ra.

Tôi đã lục soát khắp nơi, tự hỏi liệu Kẻ Quan Sát Cái Chết có còn ẩn nấp đâu đó trong nhà thờ không. Tôi đã gọi tên hắn, chẳng màng mất mặt. Tôi đã cố cảm nhận sự hiện diện của hắn. Nhưng chẳng tìm thấy gì—không một dấu vết, không một mùi hương.

“Nếu các ngươi vẫn từ chối trả lời, có lẽ ta sẽ cần thay đổi phương pháp.”

Có thể ta sẽ phải mượn đến lũ trẻ bị quỷ ám đang được giữ ở khu y tế...

“Chúng tôi không biết...” gã người sói lẩm bẩm. “Tôi thề đấy... chúng tôi chỉ đến đây để cứu đồng đội bị bắt! Tôi éo biết cái Veil đéo gì của mấy người đâu!”

“Schnoë!” một tên khác hét lên.

“Câm mẹ mày đi! Con này bị điên thật rồi!”

“Các ngươi xúc phạm ta đấy. Ta hoàn toàn bình tĩnh và lý trí—không điên tí nào. Nếu ta thực sự điên, thì chúng ta đã chẳng thể đối thoại như thế này rồi.”

Vừa nói xong, tay tôi "vô tình" trượt một chút, để lại ít axit cho hắn “thưởng thức.”

“Gh—Gaaaaaaaaaaah!!!”

“Schnoë!”

Mùi da thịt phân hủy thực sự không thể chịu nổi, nhất là trong căn phòng ngầm chỉ có một đường ống thông khí bé xíu sát trần. Tôi cũng chẳng muốn ở đây lâu hơn cần thiết.

“Con đĩ của thần linh, mày sẽ phải trả giá!”

“Ta đã nói rồi—ta không chối bỏ điều đó. Ta đã dâng hiến thân thể mình cho các vị thần như một cô dâu. Chỉ có vậy thôi.”

Hmm, tiếp theo là chân hắn chăng...? Không, ta nghĩ ta còn có thể mạnh tay hơn—bọn bị quỷ ám này hồi phục nhanh hơn người thường.

Tôi định thần lại.

“Xiềng Xích Thiên Không, Ăn Năn Tội Nhân.”

Tôi tụng thánh ngôn, triệu hồi xiềng xích và rễ cây trói chặt thân thể chúng. Đồng thời, tôi niệm một phép khác, uốn các thanh sắt trong phòng giam thành những cây giáo—mũi nhọn hướng thẳng vào lũ tù nhân.

“Tôi sắp đâm xuyên người các ngươi bằng thứ này,” tôi thông báo.

Những ngọn giáo bắt đầu xoay tròn nhanh chóng, rít lên một tiếng cao vút. Chúng từ từ tiến gần, mỗi cây nhắm vào một kẻ, tránh các điểm hiểm.

“Ta không định giết các ngươi. Ta chỉ cần thông tin.”

Gương mặt lũ quỷ ngập đầy nỗi sợ.

“Kẻ đồng lõa của các ngươi ở đâu?”

Chúng nhìn nhau, hoảng loạn lắc đầu lia lịa.

“Ra là vậy.”

Tiếng la hét kinh hoàng vang khắp phòng giam. Lũ quỷ gào lên, cố giãy ra khỏi mũi giáo đang tiến gần từng chút một.

Tôi chẳng lạ gì cảnh tượng này.

Khi đối mặt với cái chết, cho dù trước đó có từ chối thần linh đến mức nào, con người luôn tìm kiếm một điều gì đó để cứu rỗi—một quyền năng, một phép màu. Càng không thể thoát khỏi thực tại, họ càng liều lĩnh ngoảnh mặt đi.

“Thật ngu ngốc...”

Nếu chẳng có chuyện gì xảy ra, thì tôi đâu cần phải ở đây...

Tôi thở ra, chuẩn bị đâm mũi giáo vào—thì một tiếng va chạm kim loại chói tai vang lên, phá vỡ hoàn toàn nhịp điệu.

Tôi lặng lẽ nhìn người vừa nhảy vào giữa tôi và lũ quỷ bị trói. Bờ vai cô ấy run lên vì gắng sức, ánh mắt bối rối. Nhưng khi nhìn thấy mặt tôi, biểu cảm cô ấy lập tức chuyển sang giận dữ, nanh trắng nghiến chặt.

“Chị đang làm cái quái gì vậy, Alicia?!”

Tôi nhìn cô ấy. “Cion.”

Tôi đã ở dưới này quá lâu.

“Cô đến đây tìm tôi sau khi tôi rời khỏi buổi tang lễ à?”

“Tôi hỏi chị cái gì cơ mà?!”

Lũ quỷ im bặt; chúng còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi chỉ im lặng nhìn lại Cion. Chẳng phải quá rõ rồi sao?

“Công việc của tôi... Tôi…Tôi cần chôn cất Cha Carol cho trọn vẹn, tôi—”

“Đó không phải điều em muốn hỏi!!”

Cion chưa bao giờ nắm chặt vai tôi mạnh đến thế, kể cả trong những lúc nguy cấp nhất. Đôi mắt em đầy kinh hoàng và giận dữ khi nhìn tôi chằm chằm, miệng run lên, vặn vẹo mà không thốt nổi thành lời.

“Chị biết rõ tất cả những chuyện này... cũng chẳng thể mang ngài ấy trở lại được mà! Alicia, chị...”

“Chị sao? Em nói tiếp đi.”

Tôi biết em đang muốn nói gì. Nhưng đây không phải là sự bộc phát vô nghĩa.

“Nghe này. Cái bóng mà chúng ta nhìn thấy chính là thủ phạm đứng sau chuỗi giết người trong Giáo hội. Em đã từng trực tiếp đụng độ nó khi bọn chúng tấn công, đúng không? Kẻ địch của ta là một bóng tối có thể biến đổi hình dạng tùy ý—dù ta có tìm kiếm thế nào cũng không phát hiện nổi dấu vết. Thứ đó chính là—”

“Alicia!”

Cion quay lại nhìn tôi bằng đôi mắt khẩn cầu. Em nghiến chặt răng, tức đến phát run.

“Làm ơn đi chị... Đừng đánh mất chính mình...”

Chết tiệt... rốt cuộc con bé này thấy gì ở mình chứ?

Cảm giác như trong đầu tôi có những hồi chuông tang đang vang vọng—chuông gọi hồn người chết.

“Chính em mới là người cần bình tĩnh lại, Cion.”

Chính em mới là người đang la hét om sòm. Còn tôi thì vẫn rất bình tĩnh, rất tỉnh táo.

“Đám quỷ bị ám này là đầu mối duy nhất chúng ta còn. Chị chắc chắn cái bóng đó đã giúp chúng thực hiện cuộc tấn công. Không thể nào chúng phối hợp được như vậy mà không có sắp đặt từ trước—chắc chắn chúng phải có cách liên lạc—”

Một âm thanh lớn vang lên, và thế giới trước mắt tôi nghiêng đi.

Tôi quay sang nhìn em, ngạc nhiên. “Cion...?”

Em nghiến răng, rồi thở ra một hơi ngắn và sắc. Khi cảm giác nóng rát lan dần trên má, tôi hiểu: Em đã tát tôi.

“Nó có thể trốn ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào mà không ai biết!” em hét lên. “Nó hoàn toàn có thể lén nghe trộm các cuộc họp của bọn họ, đúng không?! Chính chị đã nói vậy còn gì, Alicia! Ngay cả chị cũng không tìm được dấu vết nào! Nếu nó chỉ đang nghe lén, thì họ sẽ chẳng biết gì cả, mà nếu họ có liên quan, thì làm gì có chuyện nó để họ sống đến giờ?! Nếu bọn họ dẫn đường được cho chúng ta, thì chắc chắn họ đã chết rồi! Sao chị không hiểu vậy hả?! Nếu chị cứ tiếp tục như lúc nãy... thì chị đã giết họ rồi đấy—!”

Và nếu chị đã giết họ thì sao?

“Cion, chị—”

“Chị không thể để bản thân bị nó cuốn đi như thế được! Chị... Chị phải giữ lấy chính mình!”

Tất cả chuyện này như một cơn ác mộng. Nhưng khi cơn đau rát ở má bắt đầu hiện rõ, tôi nhận ra: đây là hiện thực. Cion đang đứng ngay trước mặt tôi. Tôi chỉ biết nhìn em trân trân.

“Chị... chị không có...”

Không một âm thanh nào, những xiềng xích và rễ cây trói lũ quỷ bị ám lặng lẽ tan biến. Các cùm gông rơi xuống nền đá với âm vang trầm đục. Tôi chẳng nói gì cả. Không nghĩ ra được điều gì để nói.

Không... Tôi chỉ là một người thẩm vấn, một kẻ thi hành công lý, một đao phủ. Nếu tôi đã giết họ, thì tôi...

“Alicia...”

Cion vẫn đang nhìn tôi. Chỉ là nhìn. Thẳng vào mắt tôi.

“Cion... rốt cuộc em thấy gì ở chị vậy...?”

Tôi sắp nói ra điều không nên. Tôi biết rõ điều đó. Nhưng khi ánh mắt ấy cứ nhìn sâu vào tôi như vậy, tôi không thể nào kìm lại được. Nhưng—

“Làm ơn... đừng nói những điều như vậy. Xin chị... Em cầu xin chị.”

Một giọng nói dịu dàng vang lên trong khoảng lặng, hòa cùng tiếng chuông ngân từ xa. Tôi ngẩng đầu, và thấy thánh nữ đang đứng nơi lối vào.

Cô bước xuống bậc thang, lặng lẽ bước qua giữa tôi và Cion, quỳ xuống bên cạnh đám quỷ bị ám, rồi bắt đầu chữa lành vết thương cho họ. Giọng nói của bà dịu dàng, từ tốn, như thể muốn hàn gắn cả những linh hồn rách nát của họ.

Lũ quỷ chỉ còn biết ngơ ngác nhìn bà, như thể lần đầu tiên được thấy ánh sáng cứu rỗi rọi xuống tận đáy địa ngục.

Tôi lặng lẽ quan sát cảnh tượng ấy. “Tôi sẽ chấp nhận mọi hình phạt cho tội lỗi của mình.”

“Alicia!”

Tôi... tôi không thể tiếp tục nhìn nữa.

Cion cố ngăn tôi lại khi tôi quay người rời đi, nhưng em không đuổi theo. Em hiểu rõ nguy hiểm nếu để thánh nữ một mình giữa lũ quỷ. Dù cảm xúc có mãnh liệt, nhưng sâu thẳm trong em vẫn là bản lĩnh của một lính đánh thuê dày dạn kinh nghiệm sống còn.

Tôi băng qua khu vườn sau và đi vòng về phía sau nhà thờ, cố gắng tránh ánh nhìn của người khác. Dù tang lễ đã kết thúc, tôi vẫn thấy nhiều người đứng trong đó, chật vật đối diện với nỗi mất mát. Một làn sóng cảm xúc dâng lên nơi cổ họng, nhưng tôi nuốt xuống, nhắm mắt lại thật chặt.

Tôi... tôi không sai. Tôi không sai... đúng chứ? Tôi hoàn toàn bình tĩnh, lý trí, tỉnh táo, như mọi khi. Đầu óc tôi không hề mơ hồ. Ngay cả mệt mỏi về thể xác cũng chẳng còn. Mọi thứ đều ổn. Có thể lúc nãy tôi hơi mạnh tay, nhưng tôi chỉ đang làm công việc của mình.

“Tôi... tôi là...?”

Tôi dừng lại trong bóng râm bên hông nhà để thở một chút. Đột nhiên, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Tôi co người lại, vô thức vòng tay ôm lấy gối, răng va vào nhau lập cập.

Tôi... Tại sao mình lại như thế này—?

Tôi chẳng có gì phải sợ cả. Cái chết của ông ấy vốn chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống của tôi. Chúng tôi đã không còn liên lạc kể từ khi tôi rời trại mồ côi. Việc ông bị sát hại... hoàn toàn không liên quan đến tôi.

“Không có gì thay đổi cả... Vậy tại sao—”

Tôi vội lau đi những giọt nước mắt đang tuôn ra. Tôi úp mặt vào hai tay, ép mình nuốt ngược cảm xúc trở lại.

Tôi không có thời gian để ngồi đây khóc. Mỗi giây tôi phí phạm tại nơi này là mỗi giây tên sát thủ đó đang nhắm đến mục tiêu tiếp theo. Tôi còn việc phải làm.

“Là quỷ hay người... cũng chẳng khác gì...”

Tên sát nhân đó cũng giống như Karm—chỉ là một kẻ điên bị ám ảnh bởi tín ngưỡng của riêng mình. Không ai ngoài hắn có thể hiểu nổi hệ tư tưởng đó có hợp lý hay không. Dù hành động của hắn có điên rồ hay phi lý thế nào, thì với hắn, đó vẫn là Chân Lý. Tôi không thể xem hắn là người như phần còn lại của nhân loại. Hắn là một kẻ quái đản đã bước ra khỏi vòng luân lý con người—một kẻ dị giáo.

“Và tiêu diệt dị giáo... là công việc của tôi.”

Tôi nghiến răng, nén tất cả ký ức vừa bị đánh thức bởi cơn sóng cảm xúc, rồi đứng dậy vững vàng trên chính đôi chân mình. Nếu kẻ địch đang ẩn nấp đâu đó quanh đây—tôi sẵn sàng giết hắn ngay tại chỗ.

Tôi quét mắt qua mọi góc tối.

Tất nhiên... tôi không may đến mức gặp được kẻ giết người ngay lúc đó.

***

Tôi đang rửa mặt ở chiếc giếng gần lối vào chính, cố gắng lấy lại bình tĩnh thì một giọng nói cất lên phía sau.

“Ồ, chào con nhé…”

Tôi vốn định ra ngoài thu thập thêm thông tin, nhưng rõ ràng là với đôi mắt đỏ hoe, sưng mọng thế này thì chẳng ai chịu tin lời tôi cả. Quả nhiên, vừa thấy mặt tôi, bà sơ già liền bước nhanh lại với vẻ mặt lo lắng.

“Thật lòng xin lỗi...” bà nói. “Con là người đã dọn dẹp thi thể của ngài ấy, phải không? Cảm ơn con, sơ.”

Bà cúi đầu với động tác nhanh nhẹn một cách bất ngờ so với tuổi tác.

“Không có gì đâu ạ, con... chỉ là đang làm nhiệm vụ thôi…”

Tôi đáp lại, đồng thời cố lục lại trí nhớ xem đã gặp bà ở đâu rồi. Khi nhìn tôi, gương mặt bà dịu lại bằng một nụ cười.

“À, ta xin lỗi, con yêu. Ta là Sơ Teresa—viện trưởng của trại trẻ mồ côi trong thị trấn.”

À, đúng rồi… Mọi ký ức dần ùa về. Chúng tôi từng gặp nhau vài lần khi tôi cùng thánh nữ đến thăm trại mồ côi. Bà cũng từng đến nhà thờ để đón mấy đứa trẻ lén trốn sang chơi.

“Con có rảnh nói chuyện một chút không?” bà hỏi. “Cha Carol... từng là một người bạn rất thân của ta. Không lâu trước đây, ngài có nhờ ta chăm sóc con nếu có chuyện gì xảy ra với ngài…”

Giọng bà nghẹn lại, cảm xúc trào dâng. “Xin lỗi…” bà nức nở, rút khăn tay ra chấm mắt, đứng yên lặng trong giây lát.

“Chúng ta qua ghế ngồi nhé,” tôi đề nghị. “Con... con cũng không có việc gì quan trọng lúc này cả.”

Chúng tôi cùng đi đến một băng ghế dưới bóng cây, cách cửa nhà thờ không xa.

“Ta xin lỗi...” bà nói khi cả hai vừa ngồi xuống. “Ta biết chuyện này chắc chắn còn khó khăn hơn rất nhiều với con…”

“Không, con chỉ là…”

Tôi là gì đối với Cha Carol?

Với tôi, ông ấy là viện trưởng của trại mồ côi, là thầy dạy, là ông linh mục già khó tính chuyên đánh tôi mỗi khi bắt gặp tôi nghịch ngợm.

“Ông ấy... ông ấy từng đánh con suốt,” tôi nói nhỏ.

Sơ Teresa—già rồi nhưng ánh mắt vẫn dịu dàng—mỉm cười như thể đang hồi tưởng một kỷ niệm vừa ngọt ngào vừa buồn bã.

“Hồi nhỏ, ông ấy và ta cùng lớn lên trong một trại mồ côi,” bà kể. “Trời ơi, ông ấy nghịch ngợm kinh khủng luôn. Lớn rồi thì mới biết ngoan ngoãn hơn, chứ lúc còn bé mà có linh mục nào la mắng là ông ấy cãi lại ngay. Lúc nào cũng miệng: ‘Chỉ có các vị thần mới được phán xét tôi!’ đấy…”

Khó mà tưởng tượng nổi. Cha Carol trong trí nhớ của tôi luôn nghiêm khắc mỗi khi nổi giận, nhưng bình thường ông ấy lúc nào cũng mỉm cười ấm áp, dịu dàng.

“Dạo gần đây, khi ta đến đây có chút việc, ông ấy nói với ta: ‘Một học trò cũ của tôi sắp ghé thăm. Nếu có chuyện gì xảy ra, xin hãy chăm sóc cô bé ấy.’” Gương mặt bà bình thản khi nhắc đến bạn cũ. Đôi mắt khép hờ, miệng nở nụ cười hiền. “Lúc ấy ta còn chẳng hiểu ông ấy đang nói gì. Có lẽ là trực giác của người từng trải... Ta không khỏi tự hỏi, phải chăng ông ấy đã cảm thấy trước điều này. Từ khi nhận chức quản lý chính tại đây, ông ấy hay than phiền về đủ áp lực bên trong lẫn bên ngoài. Điều đó thật không giống ông ấy chút nào…”

“Ý bà là… Cha Carol cảm thấy mình đang gặp nguy hiểm sao?”

“Chuyện đó... cũng chẳng lạ gì. Người làm ở trung tâm của Giáo hội vẫn thi thoảng bị ám sát một cách kỳ lạ, dù thường thì được che giấu nội bộ. Làm việc ở Thánh Đô này—lại còn là quản lý tối cao của Đại Thánh Đường Pontifex—thì khó tránh khỏi việc tiếp xúc với mặt tối của Giáo hội. Ta cứ nghĩ ông ấy sẽ xoay xở được, nhưng…”

Sơ Teresa nghẹn lại khi nước mắt lại dâng lên. Bà vội đưa khăn tay lên chấm mắt lần nữa. Tôi định nhẹ nhàng vỗ về lưng bà, nhưng bà ngồi thẳng lên, gượng cười.

“Không sao đâu, con yêu. Ta ổn rồi…”

Bà hít một hơi sâu, rồi quay sang tôi.

“Nghe đây, con đừng nên tìm cách báo thù cho ông ấy. Đó không phải con đường mà con nên bước đi, Alicia Snowell.”

Đôi mắt bà nhìn thẳng vào tôi, không hề dao động.

“Ta đã gặp rất nhiều đứa trẻ như con rồi. Trẻ trung, tài năng, có tinh thần chính nghĩa mạnh mẽ… Nhưng chính vì thế, con càng phải biết dùng sức mạnh ấy để cứu người. Một khi con vung quyền năng của mình trong cơn giận dữ, những cảm xúc thuần khiết ấy sẽ bị vẩn đục... và con đường con đi sẽ bị bẻ cong, rẽ về phía bóng tối.”

Sơ Teresa nắm lấy tay tôi trong tay bà, mỉm cười nhẹ nhàng.

“Cứu giúp người khác, đó cũng là điều mà ông ấy muốn con làm. Ông ấy luôn tự hào khi kể về con—một cô gái nhân hậu.”

Một thứ gì đó thắt chặt trong lồng ngực tôi, và tất cả ký ức—tất cả cảm xúc mà tôi cố gạt ra khỏi đầu—trở lại cùng với nước mắt. Một khi đã bắt đầu tuôn rơi, tôi không còn cách nào ngăn lại được.

“Con… con…”

“Không sao đâu. Cứ khóc đi. Khóc cho thoải mái.”

Bà nhẹ nhàng ôm lấy tôi, và tôi tựa đầu vào hơi ấm ấy. Tôi khóc nấc lên thành tiếng, mặc kệ ánh nhìn của những người vừa rời khỏi nhà thờ, mặc kệ thế giới xung quanh—chỉ để mặc cho cảm xúc cuốn trôi mình đi đến tận cùng.

84c67707-99d5-4ebf-a3d4-a76a1cc27e47.jpg

“Con xin lỗi...” tôi lẩm bẩm.

“Không sao đâu, con yêu. Mấy người già như ta đâu còn nhiều việc để làm nữa.”

Không rõ chúng tôi đã ngồi đó bao lâu. Khi tôi khóc đến mệt nhoài, cảm xúc cũng dần ổn định trở lại, mặt trời đã bắt đầu ngả xuống phía tây.

“Thật lòng mà nói…” Teresa thở dài. “Có lẽ ông ấy không muốn khiến ai lo lắng. Nhưng chí ít cũng có thể lên tiếng nhờ giúp đỡ chứ, đúng không?”

Giọng bà trở nên tươi sáng hơn một chút. Có lẽ bà đang cố làm tôi vui lên. Tôi nhận ra bà rất quen việc an ủi trẻ con—dù sao cũng là viện trưởng của trại mồ côi mà. Nhưng tôi cũng không thể không cảm thấy hơi phản kháng. Tôi đâu còn là trẻ con nữa.

Chính lúc đó, tôi nhận ra mình đã bắt đầu suy nghĩ rõ ràng trở lại. Tôi đã cãi nhau với Cion, nhưng chính tôi mới là người không nhìn nhận được mọi chuyện. Tôi sẽ phải xin lỗi em sau.

Tôi thở dài, trút hết căng thẳng trên vai, để cho tâm trí trống rỗng trong giây lát.

Vừa rồi tôi thực sự đã mất kiểm soát. Lâu rồi tôi chưa phạm sai lầm lớn đến vậy. Dù sao thì lũ quỷ bị giam cũng không chịu tổn thương thể chất nào—nên việc tôi có bị phạt hay không hoàn toàn phụ thuộc vào thánh nữ, vào những gì bà ấy báo lại.

“Ừm... nếu điều này khiến tôi bị rút khỏi nhiệm vụ, có khi lại là điều tốt...”

Có thể tôi sẽ quay lại Glasses, để Cion tiếp tục bảo vệ thánh nữ một mình. Phái bảo thủ trong Giáo hội từng cực lực phản đối việc để một nam nhân canh gác phòng riêng của thánh nữ, nhưng sau vụ ám sát vị quản lý tối cao của nhà thờ, e là họ cũng phải câm miệng mà nhượng bộ.

Anh hùng Elcyon sẽ bảo vệ Thánh Nữ Nevissa suốt ngày đêm; với lớp an ninh dày đặc như vậy, đến cả “Kẻ Quan Sát Cái Chết” cũng khó mà ra tay. Dù kẻ đó có tàng hình đến đâu, tôi không thể tưởng tượng được Cion lại sơ suất để hắn lọt qua. Và nếu đến Cion cũng không ngăn được, thì chẳng ai có cơ hội tốt hơn đâu. Vả lại...

“Thánh Giáo Hoàng cũng sẽ sớm trở về.”

Tôi không rõ ngài đang tiến hành cuộc hành hương với tốc độ thế nào, nhưng theo lịch trình thì chưa đầy mười ngày nữa ngài sẽ ghé thăm thủ đô, rồi trở lại đây. Lúc đó, an ninh của Thánh Đô sẽ trở lại mức cao nhất, và sự hiện diện của chúng tôi cũng không còn quá cần thiết.

“Sẽ là nói dối nếu bảo tôi không giận, nhưng...”

Nhiệm vụ của tôi chỉ đơn giản là điều tra hung thủ và bắt sống hắn nếu có thể. Tôi chẳng cần phải tự đẩy mình vào hiểm nguy.

Teresa lại lên tiếng; có lẽ bà đã đợi tôi suy nghĩ xong xuôi.

“Ta không phải người nhanh nhạy gì,” bà nói chậm rãi. “Nhưng ta luôn tin rằng chính con người, chứ không phải thần linh, mới là kẻ tạo nên ý nghĩa cho cuộc sống này—cho những lần gặp gỡ, những lần chia ly. Vậy nên, ta cũng muốn tìm ra ý nghĩa cho cuộc chia ly lần này. Ta nợ ông ấy điều đó, sau khi để ông ấy tiếp quản vị trí quản lý từ ta. Và ta mong mình có thể tiếp tục mang theo ý nghĩa, mục đích cuộc đời ông ấy.”

Bà ngẩng lên nhìn bầu trời. Gương mặt bà hằn sâu nếp nhăn của một đời dài đằng đẵng. Bầu trời phía trên chúng tôi cao vời vợi, mang theo sắc thu sâu thẳm và tĩnh lặng.

Giáo hội dạy rằng linh hồn người chết sẽ bay lên thiên đàng. Nhưng cũng như các vị thần, chẳng hề có linh hồn nào cả. Không có linh hồn người chết trông chừng người sống, nhưng dù thế, ta vẫn cố gắng sống sao cho xứng đáng với ký ức về họ—ký ức còn lưu lại trong tim. Có lẽ đó chính là mang vác lịch sử—cũng có thể, đó là điều khiến chúng ta trở thành con người.

Sơ Teresa chuẩn bị quay lại trại mồ côi, nên tôi đi cùng bà ra tận cổng nhà thờ.

“Xin lỗi vì đã thất lễ,” tôi cúi đầu. “Cảm ơn bà đã ở lại và lắng nghe.”

“Không sao đâu, con yêu,” bà mỉm cười rạng rỡ. “Ta mừng vì đã được trò chuyện cùng một người cũng hiểu rõ ông ấy như ta.”

Tôi biết mình đã để lộ một hình ảnh đáng xấu hổ, nhưng thật kỳ lạ—có lẽ vì bà là viện trưởng trại mồ côi—mà tôi lại không cảm thấy quá ngượng ngùng. Thậm chí còn thấy nhẹ lòng, như thể đã quay trở lại những ngày thơ ấu. Cảm giác ấy giúp tôi vơi đi nhiều nỗi nặng nề.

Khi cuộc trò chuyện kết thúc, sơ già quay bước rời đi, còn tôi thì đứng tiễn bà.

“Chỉ mong con bé ấy sẽ nghĩ lại một chút sau tất cả những chuyện này...” bà khẽ lẩm bẩm.

Tâm trí tôi lúc đó đã hướng về việc nên xin lỗi Cion thế nào khi quay về phòng. Nhưng câu nói bất chợt của bà đã khiến tôi chú ý và không tài nào dứt ra được.

“‘Con bé ấy’?”

“À—xin lỗi, ta chỉ đang nói một mình thôi. Không định để con nghe thấy,” bà cười gượng.

“Không sao ạ... Chỉ là...”

Có gì đó... vừa rồi...

“Nevissa Vernalia...?” tôi chậm rãi hỏi.

Khi cái tên đó bật ra khỏi miệng, bà sơ tròn mắt nhìn tôi. Bà lặng lẽ bước lại gần hơn, nét mặt đầy lo lắng như thể sợ có ai khác nghe thấy.

“Làm sao mà con...?”

“Cha Carol từng nói điều tương tự với con. Ngài nhờ con giúp ‘Thánh Nữ’ tìm thấy con đường của mình. Nhưng mà... con không hiểu. Vì thánh nữ đâu có gì sai trái cả, nên con cứ luôn thắc mắc ngài muốn nói gì...”

“Vậy sao... ông ấy thật sự đã nói vậy ư?”

Gương mặt Teresa tối sầm lại khi nghe tôi kể. Bà nhìn tôi bằng ánh mắt đầy mâu thuẫn—không hẳn là thương hại, cũng không hẳn là hối tiếc. Như thể có điều gì đó chưa dám nói. Cuối cùng, bà ghé sát, thầm thì như sợ đang bị ai đó vô hình theo dõi.

“Ta không nên nói to điều này, nhưng...” Bà hạ thấp giọng, cẩn trọng đến từng chữ. “Ông ấy luôn lo lắng về chuyện đó. Ông nói rằng, dù lãng quên bi kịch quá khứ có thể giúp chúng ta bước tiếp, thì nó cũng không bao giờ là một giải pháp lâu dài...”

Dù chúng ta có ngoảnh mặt làm ngơ, hay cố xóa sạch khỏi ký ức, quá khứ rồi cũng sẽ tìm đến chúng ta. Sơ Teresa nói trong lúc nhẹ nhàng đặt tay lên má tôi và mỉm cười đầy âu yếm.

“Cứu một con người... thật sự là điều vô cùng khó khăn, phải không?”

Dưới ánh sáng mờ nhạt của những ngọn đèn đường vừa được thắp lên, bà rời đi trong yên lặng. Bóng lưng của bà khuất dần trong ánh chạng vạng, khiến lòng tôi bỗng thắt lại.

“Rốt cuộc là...”

Bà ấy muốn nói gì vậy?

Tôi không thể ghép nối mọi điều lại được. Nhưng sâu trong lòng, tôi có cảm giác như thể mình đã biết câu trả lời từ rất lâu rồi.

Thánh nữ và sát thủ. Thần thánh và quỷ dữ.

Tôi quay lại, ngẩng nhìn hình bóng sừng sững của đại thánh đường phía sau. Nó hiện lên như một pháo đài tối tăm—nơi cất giấu một điều ác đang ngủ yên.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận