Tập 01 - Quỷ Vương và Hội Săn Linh Hồn
Chương 3 - Con gái không giống cha, nhưng giống mẹ.
0 Bình luận - Độ dài: 5,585 từ - Cập nhật:
Chương 3 - Con gái không giống cha, nhưng giống mẹ.
Phần 1
Ánh nắng vàng nhạt cuối buổi sáng xuyên qua lớp rèm lụa trắng, hắt lên những đường thêu hoa văn tinh xảo, tạo thành bóng đổ lung linh trên sàn gỗ sồi. Tôi đoán đã 10 giờ, khoảng thời gian mọi người đang thu xếp công việc để chuẩn bị cho giờ trưa. Ấy vậy mà tôi vẫn ngồi đây, trong căn phòng ăn rộng lớn và xa hoa này, chưa dùng bữa sáng.
Hương trà thảo mộc thoang thoảng hòa quyện cùng mùi bánh mì nướng bơ và mứt dâu tây, tạo nên mùi hương dễ chịu, kích thích cơn đói cồn cào. Dạ dày tôi réo ầm ĩ, đòi hỏi được lấp đầy bằng những món ngon bày la liệt trên bàn. Nhưng tôi vẫn giữ vẻ mặt bình thản, tập trung vào mục tiêu quan trọng hơn cả bữa sáng.
Công tước Cobley Marius, ngồi đối diện, đang chậm rãi thưởng thức tách trà, ánh mắt lướt qua tôi một cách thờ ơ. Ẩn sau cặp kính gọng vàng mỏng, đôi mắt ông lạnh lùng như lưỡi kiếm. Khuôn mặt góc cạnh, nghiêm nghị, in hằn dấu vết thời gian và toát lên vẻ uy quyền. Mái tóc muối tiêu được chải chuốt gọn gàng, bộ vest đen, cùng chiếc ghim cài áo hình sư tử bằng vàng đính đá quý, toát lên vẻ uy nghiêm. Ông đặt tách trà xuống, cất tiếng hỏi, giọng đều đều, không cảm xúc: "Đã khỏe hơn chưa?"
Nghe như thể sếp lớn đang hỏi tôi về tiến độ dự án, chứ không phải một người cha hỏi thăm sức khỏe con gái vừa tỉnh dậy sau cơn hôn mê. Lạnh lùng, vô cảm hệt lão già độc đoán kia. Tuy nhiên, chỉ cần nhìn vào tách trà nóng hổi vừa được rót của tôi và so với tách trà có vẻ nguội lạnh của ông, có thể nhận ra ông đang bồn chồn.
Người ta nói 'lời nói tựa lưỡi dao'. Nếu ông ta không hiểu nghĩa của câu nói đó, tôi cũng không cần phải đắn đo. Tôi cúi đầu, đáp bằng giọng cung kính mà xa cách: "Thưa Công tước, tôi đã hoàn toàn bình phục. Đa tạ người đã quan tâm."
Ngài Công tước chỉ khẽ gật đầu, gần như không thể nhận ra. Khuôn mặt ông vẫn giữ nguyên vẻ bình thản. Ông cầm dao nĩa lên và bắt đầu bữa sáng một cách chậm rãi, từ tốn, như thể vừa rồi chẳng có chuyện gì xảy ra. Cử chỉ thanh lịch và tinh tế như một quý ông điềm tĩnh. Tôi nghĩ rằng vẻ ngoài đó sẽ rất cuốn hút với người ngoài. Nhưng đối với tôi, nó chẳng có nghĩa lý gì.
Trông như thể ông đã bỏ qua cho sai lầm của Eleanor, bỏ qua nỗi lo lắng, sợ hãi mà ông phải chịu đựng suốt một tuần qua. Nhưng tôi biết, đằng sau vẻ ngoài lãnh đạm đó, có lẽ ông đang rất đau lòng. Ông sẽ không coi nhẹ những chuyện liên quan đến ma thuật, thứ đã cướp đi người vợ yêu quý. Eleanor cũng không phải lần đầu gây ra chuyện khiến ông đau đầu, thất vọng. Và cũng như những lần trước, ông sẽ không để chuyện này trôi qua dễ dàng.
Công tước thường không trực tiếp trách mắng hay trừng phạt Eleanor. Ông làm điều đó gián tiếp thông qua người hầu. Có lẽ ông nghĩ làm như vậy sẽ không khiến mối quan hệ cha con vốn đã căng thẳng thêm trầm trọng.
Bữa ăn tiếp tục trong im lặng. Tiếng dao nĩa chạm vào sứ vang lên đều đặn, buồn tẻ và đơn điệu. Tôi quan sát Công tước Marius, cảm thấy ông quyền lực, nhưng cũng cô độc đến đáng thương. Đứng trên phương diện trung lập, tôi thấy ông cũng chỉ là một người cha mất đi vợ, và giờ đang cố gắng bảo vệ con gái duy nhất theo cách ông cho là tốt nhất.
Nghĩ đến tương lai không xa, khi ông ngỡ rằng mối quan hệ cha con đã được cải thiện, Eleanor đã thay đổi, đã trở nên ngoan ngoãn, biết nghe lời hơn, tôi không khỏi xót xa. Ông sẽ không bao giờ biết được rằng con gái bé bỏng của ông đã không còn nữa, rằng người đang ngồi trước mặt ông chỉ là kẻ giả mạo.
Chiếc vòng tay hoán đổi linh hồn đã bị tôi phá hủy từ tối hôm qua. Dĩ nhiên, tôi hoàn toàn có thể tái tạo nó bất kì lúc nào. Tuy nhiên, tôi không có ý định quay lại. Có lẽ tôi chỉ đang tự thuyết phục bản thân, nhưng Eleanor hẳn sẽ ổn. Ban đầu chắc chắn sẽ khó khăn, bỡ ngỡ khi phải làm quen với cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Nhưng rồi, dần dần, cô ấy sẽ nhận ra rằng được sống trong cơ thể của Charlotte là một món quà.
Dù sao ngài Công tước cũng đã đạt được mong muốn gặp con gái. Không cần phải duy trì bầu không khí ngột ngạt thêm nữa. Tôi đặt dao nĩa xuống, nhẹ nhàng lau miệng bằng khăn ăn rồi đứng dậy, khẽ cúi đầu. "Thưa Công tước, tôi xin phép về phòng nghỉ ngơi. Tôi vẫn còn hơi mệt."
Khi tôi vừa xoay người, chuẩn bị rời khỏi phòng ăn, giọng nói trầm thấp của Công tước Marius vang lên: "Eleanor..."
Tôi dừng bước, quay lại nhìn ông, chờ đợi. Công tước Marius im lặng một lúc, ánh mắt nhìn tôi có chút khó tả, như thể ông đang cố gắng nói điều gì đó mà bản thân vẫn còn do dự. Rồi, ông chỉ khẽ thở dài, phẩy tay ra hiệu cho tôi đi. "Không có gì. Con cứ đi đi."
Trông như thể ông vừa cố gắng truyền tải một thông điệp nào đó, nhưng lại không đủ can đảm để nói ra. Tôi ngạc nhiên. Điều gì đã khiến ông hành xử như vậy? Lẽ nào do cách diễn của tôi vẫn chưa giống Eleanor? Hay ông thật sự muốn thay đổi? Dù là gì, ông vẫn cần nhiều dũng khí hơn để phá vỡ bức tường ngăn cách giữa hai cha con.
Tôi quyết định thúc đẩy ông ta một chút. Tôi cúi đầu sâu hơn, giọng nói nhỏ nhẹ, hối lỗi: "Thưa Công tước, về chuyện phòng nghiên cứu, tôi thực sự xin lỗi."
Lời xin lỗi của tôi có lẽ nằm ngoài tưởng tượng của Công tước Marius, khiến ông cứng đờ người. Cặp kính gọng vàng mỏng phản chiếu ánh sáng che khuất đôi mắt, khiến tôi không thể đoán được ông đang nghĩ gì. Vẻ mặt ông thoáng chút kinh ngạc, như thể vừa chứng kiến điều gì đó không thể tin nổi. Rồi nhanh chóng, vẻ mặt ấy lại trở về với sự lạnh lùng thường thấy. Giọng đều đều, ông nói: "Ừm. Vì con đã biết lỗi và xin lỗi, ta sẽ cân nhắc giảm nhẹ hình phạt."
Phần 2
Bánh xe lăn nhẹ trên con đường lát đá cuội, tạo nên tiếng lạo xạo đều đều. Anna khéo léo đẩy xe về phía trước, đưa tôi đi dạo quanh khuôn viên dinh thự rộng lớn, chẳng khác nào công viên Hyde gần nhà tôi. Chúng tôi đi qua những thảm cỏ xanh mướt trải dài, điểm xuyết bởi đài phun nước trắng xóa và tượng điêu khắc tinh xảo, rồi đến hồ nước rộng lớn, tĩnh lặng, bao bọc bởi rừng cây xanh mát.
(Chú thích từ tác giả: Công viên Hyde là một trong những công viên lớn và nổi tiếng nhất ở London.)
Sức khỏe tôi hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, vì chưa biết hình phạt Công tước dành cho mình là gì, tôi cần giả vờ ốm yếu để mong ngài ấy động lòng trắc ẩn. Eleanor từng bị cấm túc trong phòng suốt một tuần vì dám vô lễ với hôn phu, bị cắt chi tiêu một tháng vì trốn tiết học lễ nghi Hoàng tộc, và còn vô số hình phạt khác nữa. Tôi không sợ những hình phạt kiểu đánh vào nhu cầu vật chất hay tinh thần như thế. Thực ra, tôi chẳng sợ gì cả. Nhưng vì chúng có thể hạn chế sự tự do di chuyển của tôi, nên vẫn cần tránh nếu có thể. Hơn nữa, Anna không thể đi phía trước tôi. Đó là hành vi phạm thượng mà một người hầu không được phép. Thế nên, để Anna dẫn tôi đi dạo quanh dinh thự làm quen địa hình, việc để tôi ngồi xe lăn là hợp lý nhất. Vừa giữ được lễ nghi, vừa giúp tôi quan sát mọi thứ tự nhiên.
Chúng tôi dừng tại đài ngắm cảnh bên bờ hồ. Không khí trong lành, làn gió mát lạnh khiến tôi dễ chịu hơn hẳn sau bữa sáng ngột ngạt. Dù mặt trời đã lên cao, ánh nắng chiếu xuống không hề gay gắt, không chói chang như thường thấy của buổi trưa, mà chỉ ấm áp dễ chịu.
"Anna," tôi cất tiếng hỏi, giọng hơi ngỡ ngàng, "Đang giữa trưa, sao trong vườn lại mát mẻ như vậy?"
Anna mỉm cười, nhẹ nhàng giải thích: "Thưa tiểu thư, toàn bộ dinh thự, bao gồm cả khu vườn, được bao quanh bởi một kết giới đặc biệt. Kết giới này điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm, và cả cường độ ánh sáng, tạo ra không gian sống lý tưởng bất kể thời tiết bên ngoài."
"Vậy nó có ngăn chặn việc ra vào dinh thự không?" Tôi tiếp tục dò hỏi.
"Dạ bình thường thì không ạ. Khi đó, kết giới ở trạng thái kích hoạt một phần, chỉ ngăn chặn những sinh vật nhỏ như côn trùng, chuột bọ xâm nhập. Nhưng trong trường hợp khẩn cấp, cha thần, ngài quản gia, có thể khiến kết giới trở nên nội bất xuất, ngoại bất nhập." Anna đáp, vẻ mặt có chút tự hào về cha mình.
"Tuyệt vời thật." Tôi đáp lại bằng nụ cười nhẹ.
Kết giới dạng này không phải lần đầu tôi gặp. Trong những nhiệm vụ trước, tôi từng đối mặt với vô số loại kết giới khác nhau. Độ bền của chúng chỉ như bức tường bê tông dày khoảng 20 đến 30 cm, cứng lắm thì nửa mét. Dù có thể ngăn cản hầu hết đòn tấn công ma thuật bậc trung đến cao, thậm chí cả những vụ nổ nhỏ, nhưng chỉ cần một viên đạn chống tăng làm từ vonfram hoặc uranium nghèo bắn ra từ súng cỡ nòng lớn thì chẳng là vấn đề gì. Lớp phòng thủ ma thuật đó sẽ bị xuyên thủng như tờ giấy mỏng.
(Chú thích từ tác giả: Uranium nghèo (Depleted Uranium - DU) là sản phẩm phụ của quá trình làm giàu uranium, chủ yếu chứa đồng vị U-238 với mức phóng xạ thấp hơn uranium tự nhiên. Do mật độ cao, DU được sử dụng trong đạn xuyên giáp. Thứ này hình như không được xem là vũ khí hạt nhân.)
Nói vậy thôi, chứ tôi đào đâu ra vũ khí hạng nặng đó. Giờ tôi chỉ là tiểu thư yếu đuối ngồi xe lăn, không hơn không kém. Vũ khí mạnh nhất lúc này chỉ có thể là thông tin. Bất kể thông tin gì, dù vô dụng, đều có thể trở nên hữu ích nếu được thu thập và sử dụng đúng cách.
Khi đang trầm ngâm ngắm nhìn mặt hồ phẳng lặng, suy tư về những kế hoạch dang dở, tôi nghe thấy tiếng người nói rôm rả từ xa. Dõi theo hướng âm thanh, tôi nhận ra đó là một đám hầu gái đang tụ tập buôn chuyện, có lẽ bàn tán về những câu chuyện phiếm trong dinh thự. Để ý kỹ, hình như một cô hầu gái đang bế sinh vật gì đó đen đen, nhỏ nhắn, trông giống con mèo. Con mèo đó vừa liếc thấy tôi thì giật mình. Như nhận ra điều gì bất thường, nó nhảy khỏi tay hầu gái, chạy nhanh về phía tôi. Những người hầu gái trông thấy tôi cũng hốt hoảng cúi đầu chào, rồi nhanh chóng tản ra, biến mất sau hàng cây.
"Kia chẳng phải là Ruby sao?" Anna nhìn con mèo với vẻ mặt ngạc nhiên, rồi quay sang giải thích, "Nó là ma thú của chủ nhân quá cố, thưa tiểu thư."
Khi nó tiến lại gần, tôi mới nhận ra nó không phải mèo bình thường. Nó có đôi tai dài, nhọn hơn bình thường, đôi mắt đỏ rực như đá ruby, chiếc đuôi thon dài với chùm lông xù xù ở cuối như tua rua. Nó đích thị là mèo Alien Cat, một trong những sinh vật mà đám người xâm chiếm Trái Đất mang đến. Bọn này ngoài việc sống hoàn toàn bằng năng lượng ma thuật ra thì cũng chẳng khác gì mèo nhà, hữu dụng lắm thì chỉ để đuổi chuột hay bầu bạn.
Khi con mèo chỉ còn cách vài bước chân, nó dừng lại. Đôi mắt ruby nhìn tôi chằm chằm, vẻ dò xét. Có lẽ nó đang nhìn nhận tôi như kẻ xa lạ. Bởi vì nếu là sinh vật sống bằng năng lượng ma thuật ắt hẳn sẽ ngửi được mùi của linh hồn, cảm nhận được sự khác biệt trong linh hồn mỗi người. Tuy nhiên, kỳ lạ thay, sau một hồi dò xét, đánh hơi, con mèo vẫn tiến lại gần, dụi đầu vào chân tôi, kêu "meo meo" nhỏ nhẹ, như đang làm nũng.
Anna dường như không nhận ra điều gì khác thường. Cô bế nó lên, đặt vào lòng tôi. Con mèo cuộn tròn trên đùi tôi, tìm vị trí thoải mái, tiếp tục kêu rừ rừ, tỏ vẻ hài lòng. Tôi xoa nhẹ bộ lông mềm mại của nó, cảm nhận hơi ấm lan tỏa từ cơ thể nhỏ bé. Có lẽ dù biết tôi không phải Eleanor, nhưng bản tính dễ gần của loài ma thú này đã khiến nó không quá cảnh giác.
Chúng tôi tiếp tục dạo chơi, đi ngang qua phòng nghiên cứu ma thuật cũ của Eleanor. Cánh cửa gỗ nặng nề được canh gác bởi hai lính mặc giáp sáng loáng, tay cầm giáo mác. Vừa thấy tôi, hai lính canh lập tức có phản ứng phòng bị, ánh mắt đầy cảnh giác. Có lẽ họ lo tôi đang tính tiếp cận căn phòng, tìm cách vào bên trong. Anna nhận ra phản ứng đó liền hiểu ý, đẩy xe lăn rời đi, tránh gây hiểu lầm.
Họ có thể an tâm rằng tôi sẽ không bao giờ đặt chân vào nơi đó. Bởi vì ngoại trừ việc không thể trực tiếp sử dụng, tôi hoàn toàn nắm vững kiến thức về ma thuật, từ nguyên lý căn bản nhất đến lý thuyết phức tạp, cao siêu nhất. Tôi đã học tất cả vì cảm thấy cần thiết cho việc chiến đấu chứ không mê mẩn gì bộ môn phi logic này.
Sau khi đi dạo thêm một lúc, Anna đẩy xe lăn vào thư viện. Căn phòng rộng lớn, trần cao, được bao quanh bởi kệ sách cao ngất, chứa đầy sách. Mùi giấy cũ và mực in thoang thoảng, hòa với hương nước hoa xịt phòng, tạo cảm giác dễ chịu, dễ tập trung.
Anna dẫn tôi đến góc thư viện yên tĩnh, nơi có bàn nhỏ và vài ghế bành êm ái. Cô lấy ra vài cuốn sách dày cộp, bìa da đã cũ sờn, đặt lên bàn.
"Đây là sách về lịch sử, địa lý, và văn hóa thế giới, thưa tiểu thư," Anna nói. "Để tiểu thư nhanh chóng nắm bắt kiến thức cần thiết, em đã cố tìm chúng cho người."
Tôi nhìn những cuốn sách mà không khỏi thở dài. Thực chất, tôi chỉ thiếu hụt kiến thức của 500 năm trở lại, và đặc biệt quan tâm đến sách viết về Aurelius. Thế nhưng phần nhiều sách Anna mang đến lại có nội dung dàn trải từ tận vài ngàn năm trước, khi chủng tộc này lần đầu đổ bộ xuống châu Úc và đồng hóa ngôn ngữ, văn hóa với người dân bản địa còn sống sót sau tận thế. Nhân tiện, đó cũng là lý do đám người này sử dụng thứ ngôn ngữ có 70% là tiếng Anh. Thật ra, nếu có sách nào viết về khoảng thời gian trước khi chúng đến Trái Đất thì tốt. Nhưng hình như vì có thù oán gì với quê cha đất mẹ nên toàn bộ thông tin đó đã bị tiêu hủy.
"Anna," tôi gọi, giọng đều đều, "Những cuốn sách này hơi sơ đẳng so với trình độ của ta. Ngươi có thể tìm sách chuyên sâu hơn về lịch sử hình thành Đế Quốc Aurelius được không? Ta đặc biệt quan tâm đến giai đoạn 500 năm trở lại đây."
Anna chớp mắt, rồi đáp: "Dạ, nếu tiểu thư muốn, nô tì sẽ tìm. Nhưng nô tì cho rằng nó cũng không hơn những gì nô tì đã kể với tiểu thư là mấy."
Ừ. Đúng là Anna đã kể khá chi tiết về lịch sử Đế Quốc Aurelius. Có điều đó chỉ là kiến thức bề nổi mà dường như bất kỳ người dân nào cũng biết. Cái tôi cần là kiến thức sâu hơn.
Tôi nhìn Anna, khẽ nhíu mày. "Ta nghĩ nếu là người của Hoàng tộc thì từng ấy kiến thức về Đế Quốc là không đủ."
Anna có vẻ hơi bất ngờ, nhưng rồi lại làm ra vẻ mặt vui sướng. Cô nói: "Nô tì hiểu rồi. Nô tì sẽ tìm chúng ngay."
Dựa vào phản ứng này, tôi đoán Eleanor có vẻ khá bỏ bê việc bản thân là hôn thê của Đại Hoàng tử. Nghe nói trước đây mối quan hệ của Eleanor và Đại Hoàng tử khá tốt. Nhưng sau khi bị ép buộc vào hôn ước, nó đã trở nên tệ đi trông thấy.
Tôi nhìn Anna đang hăng hái tìm sách, lòng dấy lên chút lo lắng mơ hồ về cuộc hôn nhân chính trị sắp tới. Dù ở thế giới ảo hay ở đây, những mối quan hệ kiểu này thường không mang lại lợi ích gì đáng kể cho người vợ. Vai trò của họ thường chỉ là trang trí, con tốt trên bàn cờ chính trị.
Để khai thác tối đa lợi ích từ mối quan hệ này, tôi cần biến nó thành thứ gì đó sâu sắc hơn, thứ tình cảm có thể dùng để thao túng đối phương. Và thứ tình cảm hiệu quả nhất, dĩ nhiên, là tình yêu.
Tuy nhiên, tình yêu lại quá xa vời, quá khó nắm bắt với một người sinh ra đã không có giới tính như tôi. Nó không giống tình cảm cha con, thứ tình cảm vốn dĩ đã tồn tại sẵn. Tình yêu là cảm xúc phức tạp, khó kiểm soát, thậm chí nguy hiểm. Nó có thể khiến con người ta mù quáng, mất lý trí, làm điều điên rồ.
Với cả, Đại Hoàng tử Aurelius Cassius. Cái tên này, tôi đã nghe Anna nhắc đến rất nhiều lần. Một người đàn ông điển trai, tài giỏi, đức độ, được lòng dân chúng. Một người chồng lý tưởng trong mắt bất kỳ cô gái nào. Những mô tả đó khiến tôi nhớ đến hắn ta, kẻ đã gián tiếp gây nên cái chết cho Charlotte. Thế nên tôi càng phải tránh xa tên này.
Thời gian còn lại trong ngày, tôi dành trọn cho việc đọc sách. Anna sau khi mang đến bữa trà chiều nhẹ thì lặng lẽ lui ra, để tôi một mình trong không gian yên tĩnh. Tôi lật giở từng trang sách, ánh mắt lướt nhanh qua từng dòng chữ, duy trì tốc độ đọc tối đa.
Dù Anna đã chuẩn bị bữa tối thịnh soạn trong phòng ăn, tôi vẫn quyết định dùng bữa ngay tại thư viện. Tôi nói với Anna rằng tôi muốn tận dụng thời gian đọc sách và rủ cô ấy cùng tham gia. Anna ban đầu do dự, nhưng rồi đồng ý. Tôi biết cô ấy mệt mỏi sau một ngày dài đẩy tôi đi khắp dinh thự, và việc ngồi yên đọc sách có lẽ là cách nghỉ ngơi hợp lý.
Đúng như dự đoán, sau khoảng hai giờ, Anna bắt đầu gật gù. Mí mắt cô nặng trĩu, đầu gục xuống, rồi lại giật mình tỉnh giấc. Cứ thế lặp lại vài lần, cho đến khi cô chìm vào giấc ngủ. Tôi khẽ đặt sách xuống, nhẹ nhàng đỡ Anna nằm xuống ghế bành êm ái gần đó, đắp lên người cô chiếc khăn mỏng.
Khi Anna đã ngủ say, tôi đứng dậy, đi dọc theo những kệ sách cao ngất. Ánh đèn dầu leo lét hắt lên bìa sách cũ kỹ. Tôi lướt tay qua những cuốn sách, cảm nhận bề mặt thô ráp, lạnh lẽo.
Giờ là lúc tôi có thể tận dụng tối đa khả năng của mình. Không phải đọc như bình thường nữa, tôi bắt đầu 'scan' toàn bộ mọi thứ, lưu vào bộ nhớ. Những kiến thức về lịch sử, địa lý, văn hóa, chính trị, ma thuật… Thậm chí cả những thứ tưởng chừng chỉ để giải trí như tiểu thuyết, truyện cười, truyện ngụ ngôn... cũng được tôi ghi nhớ.
Phần 3
Thời gian trôi đi nhanh như chớp mắt. Bên ngoài cửa sổ, ánh trăng dần nhạt nhòa nhường chỗ cho những tia sáng đầu tiên của bình minh. Trước khi mặt trời ló dạng, tôi đã đọc xong toàn bộ sách trong thư viện. Khép cuốn sách cuối cùng lại, tôi đặt nó lên kệ một cách nhẹ nhàng rồi quay sang nhìn Anna. Cô vẫn đang ngủ say trên chiếc ghế sofa cạnh lò sưởi, hơi thở đều đều, yên bình như một đứa trẻ. Nhân lúc này, có lẽ tôi nên chợp mắt một chút để giả vờ như mình đã ngủ quên trong lúc đọc sách.
Tôi đang chuẩn bị tựa lưng vào thành ghế để nghỉ ngơi thì bỗng nghe thấy tiếng mèo kêu khe khẽ. Hóa ra là Ruby, con ma thú nhỏ nhắn với bộ lông đen tuyền như màn đêm. Nó đang đứng ở gần cửa ra vào, đuôi ngoe nguẩy. Ruby nhìn tôi, ánh mắt đầy ẩn ý, rồi lại quay đầu nhìn về phía cửa, kêu meo meo như muốn nói với tôi điều gì đó.
Tôi tiến lại gần. Ruby dụi đầu vào chân tôi, bộ lông mềm mại như nhung cọ vào da thịt, rồi quay người chạy về phía cửa, thỉnh thoảng lại dừng lại nhìn tôi như đang giục tôi đi theo. Tôi nhìn Anna đang ngủ say, do dự một chút. Đã gần sáng rồi. Nếu Anna tỉnh giấc mà không thấy tôi thì sẽ rắc rối lắm. Nhưng điều gì đó mách bảo tôi rằng con ma thú này tinh tường hơn vẻ bề ngoài. Biết đâu nó đang muốn cho tôi thấy điều gì đó quan trọng. Sau một thoáng suy xét, tôi quyết định đi theo Ruby.
Ruby dẫn tôi đi qua một hành lang dài hun hút. Dinh thự lúc rạng sáng trông không khác gì một ngôi nhà ma ám trong phim kinh dị bối cảnh trung cổ. Ánh đèn leo lét hắt lên những bức tranh treo tường, những bức chân dung với ánh mắt dường như dõi theo từng bước chân.
Ruby dừng lại trước một bức tranh treo tại một góc khuất. Nó cào nhẹ vào một viên gạch lát sàn, kêu meo meo như đang thúc giục tôi đến xem. Tôi quan sát. Đó chỉ là một viên gạch lớn có cạnh khoảng 30 cm. Có điều, khoảng cách giữa nó với những viên gạch xung quanh có chút khác biệt. Nó rộng hơn, tạo thành một khe hở vừa đủ để đút móng tay vào. Tôi đưa móng tay vào khe hở và thử lay viên gạch. Quả nhiên, viên gạch này nhẹ bẫng. Tôi hoàn toàn có thể nhấc nó lên chỉ bằng móng tay. Bên dưới là một cầu thang xoắn ốc dẫn xuống tầng hầm, chìm trong bóng tối dày đặc. Không gian tối đen như mực, chỉ có một chút ánh sáng le lói hắt lên từ ngọn đèn ma thuật đặt ở chân cầu thang, lay lắt như sắp tắt.
Tôi bước xuống cầu thang, từng bước chậm rãi và thận trọng. Ruby vọt lên phía trước, dẫn đường cho tôi trong bóng tối. Cầu thang dẫn đến một hành lang ngầm dài và ẩm thấp, không khí nặng nề mùi đất ẩm và mốc meo. Hai bên tường là những ngọn đuốc cháy lập lòe. Ánh lửa nhảy múa như những hồn ma. Cuối hành lang là một cánh cửa gỗ lớn, được gia cố bằng thép, trông kiên cố như một bức tường thành. Trên cửa có một ổ khóa lớn bằng đồng, cũ kỹ và hoen gỉ.
Ruby lại cào cửa, kêu meo meo. Tôi nhìn ổ khóa, suy nghĩ một chút rồi quyết định thử mở nó. Tôi lấy một chiếc kẹp tóc từ túi ra, bẻ cong nó thành hình chữ L rồi nhẹ nhàng đưa vào ổ khóa, cảm nhận từng rãnh nhỏ dưới đầu ngón tay.
Chỉ vài giây sau, tiếng lách cách vang lên. Ổ khóa bật mở. Tôi đẩy cánh cửa nặng nề kẽo kẹt mở ra. Bên trong là một căn phòng rộng lớn, được bài trí như một phòng nghiên cứu ma thuật. Giữa phòng là một chiếc bàn lớn bằng gỗ sồi, trên bàn bày la liệt sách vở, dụng cụ ma thuật, và các lọ thủy tinh chứa đủ loại dung dịch. Một số còn phát ra ánh sáng mờ ảo trong bóng tối. Xung quanh tường là những kệ sách cao ngất, chứa đầy sách.
Có gì đó không bình thường ở căn phòng này. Dinh thự này vốn đã có một căn phòng nghiên cứu ma thuật được canh gác cẩn mật. Giờ lại có thêm một phòng nghiên cứu được che giấu sâu trong lòng đất. Điều này khiến tôi nghi ngờ về mục đích thực sự của nó.
Ngôi dinh thự này thuộc về gia tộc của Công tước phu nhân quá cố, một gia tộc nổi tiếng với những cống hiến cho nền ma thuật. Tôi đoán có lẽ những người tiền nhiệm của gia tộc đã âm thầm nghiên cứu thứ gì đó nằm ngoài sự cho phép của bộ ma thuật. Tôi không lạ gì bản tính tò mò của con người. Thứ gì càng bị cấm đoán thì càng kích thích ham muốn của những kẻ thích làm liều. Có lẽ trường hợp này cũng tương tự.
Dù họ nghiên cứu về lĩnh vực bị cấm đoán, hay đang khám phá ranh giới mà người thường không dám vượt qua, thì tôi cũng không hứng thú. Chỉ là, tôi đã cất công đến đây thì cũng không thể ra về tay trắng. Và cũng chưa chắc đã có cơ hội quay lại đây lần hai. Vậy nên, khám phá một chút vậy.
Tôi tiến lại gần chiếc bàn lớn giữa phòng, bị thu hút bởi một cuốn sổ tay bọc da đang được đặt ngay ngắn, bên cạnh là cây bút máy làm bằng kim loại được chạm khắc tinh xảo. Tôi lật mở từng trang, những dòng chữ viết tay tỉ mỉ hiện ra trước mắt: những công thức và sơ đồ phức tạp, những ghi chú chi tiết về các thí nghiệm và kết quả nghiên cứu. Tôi nhận ra đây là nhật ký nghiên cứu của Eleanor, nơi cô ghi lại những khám phá và suy tư của mình về ma thuật.
Eleanor thực sự là một thiên tài. Những ghi chép của cô, chi chít những cổ tự mà không phải ai cũng đọc được, những biểu đồ phức tạp mà phải kì công lắm mới vẽ được. Cô ấy thật sự khác xa những ma pháp sư khác. Có khi còn giỏi hơn cả Han Hana cũng nên.
Tôi chăm chú đọc những phương trình ma thuật mà Eleanor đang nghiên cứu. Có một số phương trình tôi chưa từng nhìn thấy trước đây. Chúng vượt xa khỏi hiểu biết thông thường về ma thuật. Chẳng hạn như phương trình cải tiến ma pháp dịch chuyển tức thời, giúp giảm thời gian thi triển, giảm năng lượng cần thiết và tăng trọng lượng cũng như khối lượng vật cần di chuyển. Hay phương pháp tối ưu khoảng cách của ma pháp thần giao cách cảm, cho phép giao tiếp xuyên lục địa mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ rào cản nào. Nhưng tất cả những phát kiến đột phá này chẳng là gì so với thứ mà cô ấy đang nghiên cứu gần đây nhất: nguồn gốc thật sự của ma thuật. Nói cách khác, cô ấy đang muốn có được 'căn nguyên của ma thuật', thứ quyền năng tối thượng có thể giúp cô ấy nắm giữ sức mạnh sáng tạo và hủy diệt.
Những người tài giỏi thường có tham vọng lớn lao, và Eleanor cũng không ngoại lệ. Tham vọng chạm đến quyền năng của thần thánh này, nếu để những kẻ cuồng tín biết được, thì có nguy cơ bị đưa ra pháp trường vì tội báng bổ. May mắn là Eleanor vẫn chưa hoàn thiện được công trình nghiên cứu mang tính cách mạng của mình. Phần còn lại của cuốn sổ tay, ngoài những ý tưởng mới được nhen nhóm, những phác thảo còn dang dở, những giả thuyết chưa được kiểm chứng, thì chẳng còn gì nữa.
Nhưng có lẽ tôi đã sai. Khi vừa định đóng cuốn sổ tay lại để chuyển hướng sang những cuốn sách cổ phủ đầy bụi trên kệ, tôi lại bị thu hút bởi một thứ khác: tấm bảng đen dựng ngay bên cạnh lối ra. Chữ viết trên tấm bảng là một phương trình ma thuật tạo ra ánh sáng, thứ ma thuật cơ bản nhất mà bất kỳ học viên nào cũng phải học. Có điều, nó lại được diễn giải theo một hướng hoàn toàn khác biệt, kết hợp giữa ma thuật và những nguyên lý khoa học, rồi cuối cùng không có lời giải vì thiếu hụt những hằng số quan trọng.
Trong khoảnh khắc, tôi nhìn thấy một điều gì đó lóe lên trong tâm trí. Một suy nghĩ không đầu không đuôi nảy ra, như thể nó đã tồn tại từ rất lâu và chỉ chờ đợi khoảnh khắc này để bộc lộ. Giống như cơ thể tôi bị một suy nghĩ của ai đó thôi thúc. Tôi cầm viên phấn lên và điền giá trị cho những hằng số ấy. Đây không phải kiến thức cao siêu gì cả. Nó chỉ là vận tốc ánh sáng, số pi, hằng số hấp dẫn,... những hằng số cơ bản mà bất kì học sinh cấp ba nào cũng biết.
Tôi buộc phải tự hỏi bản thân, tại sao lại không nhận ra điều đơn giản đến vậy. Cái này mà gọi là ma thuật gì chứ? Nó không phải phép thuật thần bí, không phải sự ban phước của thần linh, mà hóa ra là một chương trình phức tạp có khả năng viết lại thực tại, thao túng năng lượng và vật chất, nhưng vẫn phải tuân theo những nguyên tắc vật lý lượng tử.
Điền vào tất cả hằng số, cánh tay tôi không thể ngừng lại, như thể bị một lực lượng vô hình điều khiển. Nó liên tục tìm lời giải cho phương trình. Liên tục bôi xóa, những dòng chữ trắng xóa chồng lên nhau trên nền bảng đen, rồi lại viết lại trong một vòng lặp vô tận. Nhưng tất cả đều không có lời giải. Cho dù thay bằng phương trình ma thuật khác, thử nghiệm những cách tiếp cận khác nhau, thì cái gọi là căn nguyên ma thuật vẫn không hiện ra. Cứ như thể kẻ đã tạo ra ma thuật đã đủ thông minh để ngăn chặn bất kì sự cố gắng tiếp cận tri thức cấm đoán nào.
Không đúng. Tại sao tôi phải đi tìm căn nguyên ma thuật? Tôi chợt nhận ra sự ngu ngốc của mình. Hành động này chẳng khác nào nối giáo cho giặc. Nếu họ thật sự tìm ra căn nguyên ma thuật, họ có thể phá bỏ mọi giới hạn hiện tại của ma thuật, thao túng thực tại theo ý muốn, và gieo rắc hỗn loạn lên thế giới. Nó sẽ khiến cán cân sức mạnh nghiêng hẳn về phía họ, đẩy chúng ta vào một tương lai đen tối.
Tôi buộc cánh tay mình phải dừng lại, rồi bôi xóa hết toàn bộ những gì đang có trên bảng, xóa sạch mọi dấu vết của sự tìm tòi nguy hiểm. Tôi phải rời khỏi nơi này, càng sớm càng tốt.


0 Bình luận