Sói và Gia vị: Spring Log
Hasekura Isuna Ayakura Jū
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Volume 20: Spring Log III [Đã Hoàn Thành]

Sói Và Những Giấc Mộng Buồn (2)

1 Bình luận - Độ dài: 7,196 từ - Cập nhật:

~~~

Cuối cùng, nhờ vào các mối quan hệ của viện trưởng tu viện Harivel với các vị khách trong những nhà tắm khác, họ đã xác định được người đàn ông đã khuất là người từ một quốc gia nhỏ đã bị diệt vong cách đây chỉ khoảng năm mươi năm. Một ông lãnh chúa già, đã đi hành hương gần một tháng từ phương nam đến, đã nhận ra huy hiệu ấy.

Ông nhìn đầy hoài niệm và kể lại những tháng ngày mà chiến tranh từng tàn phá thế giới theo cách khó tưởng tượng nổi trong hiện tại.

Ngay cả sau khi chiến sự kết thúc, những di vật thời chiến vẫn còn được tìm thấy trong các nhà kho, hay ngoài những cánh đồng làng. Trong số đó có những ngôi nhà được phục hồi, nơi một chút hy vọng mong manh đã thành hiện thực, nhưng cũng có nhiều nguồn gốc đã bị cuốn trôi theo dòng thời gian.

Sau khi thanh sắt đóng dấu được rửa sạch và đánh bóng kỹ lưỡng, lúc được đưa ra dưới ánh sáng mặt trời, đúng như Lawrence đã nghĩ, thiết kế cũ vẫn chưa bị xóa hoàn toàn.

Ngày xưa, có rất nhiều người ôm giấc mộng lớn về việc thống trị cả một đế chế.

Dù sao đi nữa, bởi vì người hành hương ấy không xuất thân từ một nơi gây rắc rối, Lawrence đã báo cáo tình hình cho các chủ nhà tắm khác và đề xuất chôn cất thi thể trong nghĩa trang của làng—nhưng chính điều đó lại trở thành vấn đề.

“Ngài nói cái gì thế?! Tu viện của chúng tôi nằm ở vùng Schten, nơi người ấy từng rời đi lánh nạn, và có lịch sử hai trăm bảy mươi năm—”

“Nếu nói về lịch sử thì giáo hội của chúng tôi là hậu duệ của Thánh Imodes, lâu tới sáu trăm hai mươi năm lận—”

“Xin đợi một chút. Kinh thánh mà người ấy mang theo là phiên bản có chú thích của Giáo sư Pearson, rõ ràng là thuộc trường phái Ridol! Vậy nên tốt nhất là để Tu viện Millay chúng tôi cầu siêu cho linh hồn ấy—” “Lý sự cùn!” “Ngài dám nói thế à?!” “Ngài vừa nói cái gì?!”

Căn phòng kho kiêm phòng họp nơi thường diễn ra các cuộc họp rơi vào cảnh hỗn loạn hoàn toàn khi các tu sĩ tranh cãi xem ai là người nên chủ trì tang lễ cho người hành hương. Dù gì thì làng Nyohhira cũng quy tụ các giáo sĩ cấp cao từ khắp nơi trên thế giới. Một trăm vị thuyền trưởng trên một con tàu sẽ không tránh khỏi cãi vã. Cảnh tượng chẳng khác gì nhốt lũ bò, dê và cừu vào cùng một phòng, với râu trắng râu đen cùng đầu hói lấp lánh mồ hôi trong sự tức giận, những cánh tay gầy gò như cành củi vung loạn, còn mấy cái bụng phệ thì đẩy ngã cả bàn.

Khi các ông chủ nhà tắm đang ẩu đả đến mức túm cổ áo nhau thì các hiệp sĩ mặc giáp kín đầu đã phải tách từng người ra, đến độ mệt mỏi chán chường.

Những vị khách quan trọng, ngồi trên ghế lót đệm đỏ thẫm, đang chăm chú theo dõi toàn bộ cuộc hỗn chiến kia bằng ánh mắt sác lẹm chính là các lãnh chúa đã ủng hộ các giáo sĩ. Vì họ đều quyên góp cho các giáo hội, tu viện trong lãnh địa của mình, nên quyền uy của các giáo sĩ cũng là biểu tượng cho sự cao quý của chính họ. Hơn nữa, người đàn ông đã khuất kia từng sống trong thời chiến, mang trong lòng lòng trung thành và đức tin, và rốt chết khi đang theo đuổi giấc mơ—một anh hùng thời loạn.

Câu hỏi ai sẽ là người ban lễ cầu siêu cho linh hồn ấy không phải là điều có thể nhân nhượng, đặc biệt ở Nyohhira, nơi tập trung bao kẻ quyền thế.

Trong một góc phòng họp, Lawrence nhìn vào tấm huy hiệu rồi khẽ thở dài.

Anh lập tức ngậm miệng lại để tránh bị mắng, nhưng bên cạnh đã vang lên một tiếng cười khẽ.

“Thật là ngu xuẩn.”

Người vừa lên tiếng là vị địa chủ già đã kể cho họ về danh tính người hành hương. Tuy không phải khách của Lawrence, nhưng ông ta từng nhiều lần thuê phòng tắm hang đá nổi tiếng của nhà tắm Sói và Gia vị nên cũng biết mặt anh.

“Lão ấy sống trong thời chiến. Tôi nghĩ chúng ta nên làm đúng theo cách của thời đó.”

“Thời chiến sao?”

Lawrence có vài người quen là lính đánh thuê, nhưng họ thường tránh xa chiến tranh vì nó cản trở việc buôn bán. Anh không hiểu nhiều về nó.

“Phải. Trên chiến trường, nếu không có linh mục, người ta chỉ đơn giản là chôn xác rồi rưới chút rượu lên. Nếu người đó không uống rượu, thì chôn cùng món ăn yêu thích. Mấy lời cầu nguyện nhàm chán hay ai làm lễ chẳng quan trọng đâu.”

Nghe có vẻ đơn giản, nhưng phù hợp với hoàn cảnh thực tế nơi chiến địa.

Dù ông ta là một quý tộc hói đầu, gầy guộc, già yếu, nhưng Lawrence có thể dễ dàng hình dung ra cảnh ông tay cầm kiếm, rưới bia lên mộ bạn đồng hành.

“Nhưng giờ chiến tranh đã kết thúc, và những kẻ nắm giữ ngôn từ thì hành xử tùy tiện. Có lẽ đó cũng là dấu hiệu của hòa bình…”

Ông già ấy cũng thở dài, rồi ra hiệu cho người hầu dìu mình đứng dậy.

“Mà này, cái bồn tắm hang đá của anh còn mở không?”

“Hử? À, vâng, vì mọi người đều đang bận hỗn chiến mà.”

“Tốt lắm. Ta muốn dùng nó sau.”

“Dạ vâng. Hẹn gặp lại ngài.”

Lawrence cúi đầu cung kính rồi nhìn theo bóng ông lão rời đi. Sau đó, biết rằng ở lại cũng chẳng ích gì, anh quay gót.

Vì không phải ai cũng được vào phòng họp, nên có một đám đông đứng chen chúc bên ngoài để ngó vào qua cửa mở. Xa hơn nữa là một người kể chuyện đang say sưa thuật lại tình hình trong phòng cho đám đông khác đang thích thú nghe.

Lawrence thở dài trước cảnh tượng ấy thì có ai đó kéo tay áo anh, khiến anh quay lại.

Là Holo, với chiếc mũ trùm sâu che gần hết mặt, trông đầy chán nản.

“Ô, đúng lúc lắm. Anh đang tính quay lại nhà tắm đây.”

Holo chỉ khẽ gật đầu rồi lập tức bước đi. Cô hành xử chẳng khác gì một đứa trẻ bị lôi khỏi trò chơi giữa chừng để đi lễ nhà thờ, nhưng chính cô là người đòi đi xem hội nghị và theo anh đến đây trước.

Thường thì cô đi song song cùng anh, nhưng lúc này lại bước trước vài bước. Những lúc như vậy thường là dấu hiệu cô đang khó chịu, và nếu cô đang hành xử theo sách vở, thì có lẽ là vì bị bỏ lại một mình nên mới cáu kỉnh.

Tuy nhiên, cô từng nói sẽ đợi ngoài cửa, nên vấn đề hẳn nằm ở chỗ khác.

“Đừng lo chuyện đó.”

Khi họ đi trên con đường dốc lên, tiếng ồn ào từ phòng họp dần xa, nhường chỗ cho âm thanh nhạc nhẹ vang lên từ các nhà tắm dọc đường, anh mới lên tiếng.

“Chuyện gì?”

Holo đáp mà không ngoảnh lại, khiến Lawrence cười chua chát.

“Đống hỗn loạn đó đâu phải lỗi của em.”

Sau khi anh hỏi chi tiết lúc họ tìm thấy thi thể, hóa ra cả Holo và Aram đều đã dùng mũi sói để đánh hơi. Họ lẽ ra có thể làm ngơ, nhưng vì sợ đó là người bị lạc nên mới đi kiểm tra… Và khi thấy thi thể mang theo đủ thứ liên quan đến sói, họ không thể vờ như chưa từng thấy.

Vậy nên, tuy không tạo thành chuyện dị giáo, nhưng vẫn dẫn đến hỗn loạn giữa các khách quý.

Cậu trai thật thà Aram tất nhiên rất áy náy vì gây chuyện, còn Holo hẳn cũng cảm thấy phần nào có lỗi, nên mấy ngày nay trông cô vừa trầm tư vừa bồn chồn.

“Em chẳng quan tâm tới vụ cãi vã của mấy ông râu ria kia đâu.”

Tuy nhiên, Holo cố chấp nói. Lawrence muốn hỏi sao cô lại đòi đi xem người ta cãi nhau làm gì, nhưng anh có cảm giác nếu hỏi thật, thế nào cô cũng nổi cáu. Có lẽ vì niềm kiêu hãnh của một hiền giả sói tự xưng, kẻ thống trị rừng xanh, nhưng dù thế nào, Holo vẫn là người nhạy cảm và dễ cô đơn, nên anh không thể để cô một mình.

Tuy đôi lúc rất khó chiều, nhưng nghĩ đến chuyện cô chỉ mở lòng với mỗi anh, Lawrence cảm thấy thật hạnh phúc.

Hoặc có thể, đó là bản tính thương nhân rắc rối của anh, càng gặp khách khó chiều lại càng thấy máu nghề sôi sục.

“Nhưng anh có ổn không đó?”

Holo quay đầu lại nhìn anh qua vai rồi hỏi.

“Anh á?”

Lawrence ngơ ngác đáp, khiến Holo nhăn mặt.

“Cái kế hoạch anh nghĩ ra ấy—tầm này chắc tiêu rồi, nhỉ?”

Cuối cùng thì họ cũng hiểu nhau. Holo đang nói về lễ tang giả mà anh từng đề xuất.

“Có lẽ thế… Nếu tổ chức lễ tang giả thành sự kiện toàn làng, mấy vị khách kia thế nào cũng cãi nhau xem ai được chủ trì. Nhìn cảnh lúc nãy là đủ để anh hiểu Ừ, chắc là không làm được đâu.

Vì lần thử nghiệm chỉ có ít khách, nên không xảy ra vấn đề gì. Nhưng nếu nó trở thành sự kiện của làng, thì linh mục nào được đọc diễn văn trước quan tài sẽ đại diện cho cả Nyohhira.

Anh có thể tưởng tượng cảnh mấy ông già nhảy xổ ra tranh nhau khoe trình độ.

Nhưng nếu vậy, có phải chuyện này mới là điều Holo lo lắng nhất không? Đúng lúc anh vừa nghĩ ra một ý tưởng, góp phần cho làng, háo hức chờ được mọi người công nhận, thì dù là vô tình, cô lại khiến mọi công sức đổ sông đổ biển…

Nghe cũng giống kiểu suy nghĩ tiêu cực cô thường mắc phải, nhưng Lawrence không nghĩ cô như vậy lần này.

“Nhưng thật ra, đây lại là tin mừng theo cách khác đấy.”

Holo nhăn mặt, như thể bảo anh đừng nói lời an ủi rẻ tiền nữa.

“Thật mà. Vì anh hoàn toàn không ngờ các giáo sĩ lại sĩ diện và cố chấp đến vậy. Cứ tưởng nếu tổ chức lễ tang giả mà không trải qua vụ này trước, thì sẽ ra sao? Lúc đó càng có nhiều người dòm ngó hơn.”

Holo vẫn đi trước vài bước như mọi khi, và đáp:

“Thì sao?”

“Thì lúc đó, bọn mình đâu thể cứ thế mà hủy. Nếu khách kéo đến rồi cãi nhau ầm ĩ vì ý tưởng của anh, thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Anh đấy. Lúc đó anh đâu còn là người của làng nữa—mà là cái gai trong mắt họ. Em đã cứu anh đấy. Cảm ơn em.”

Lawrence cười thật lòng, khiến Holo chậm lại, bước gần sát anh hơn.

“Mà lễ tang giả cũng là để gom tiền lẻ, nhưng giờ thì thấy hoàn toàn vô ích rồi.”

Lawrence lẩm bẩm như nói với chính mình. Không hẳn là để an ủi Holo, mà là để xả nỗi bực của bản thân.

“Tang lễ thì luôn có tiền cúng, nến dâng, nên bọn mình mới nghĩ có thể moi chút tiền từ khách. Nhưng thường thì linh mục chủ trì mới là người gom hết. Nếu không có ai trong làng làm linh mục, thì linh mục khách mời sẽ thu trọn. Tất nhiên, các giáo sĩ khác cũng không chịu ngồi yên. Đó cũng là lý do chính họ cãi nhau dữ vậy, dù không phải là lý do duy nhất.”

Lawrence thở dài thật lòng.

“Thiệt tình, từ ngày bỏ nghề buôn bán, giác quan làm giàu của anh cùn hẳn.”

Dù Holo vẫn quay lưng lại, nhưng anh biết chắc cô vẫn đang nghe.

Lawrence nói tiếp, không để an ủi cô, mà là để trấn an chính mình:

“Một lần nữa, anh lại nghĩ ra một cách làm giàu nhanh chóng và suýt nữa rơi vào bẫy. May mà thường xuyên cúng dường thịt ngon rượu mạnh nên mới tránh được đó.”

Anh vừa dứt lời, Holo quay người lại, đập mạnh vào tay anh.

“Đừng làm biến em thành con ngốc. Em có ban cho anh chút khôn ngoan nào đâu chứ.”

“Nhưng chẳng phải nhiệm vụ của một nữ thần là mang lại hạnh phúc cho anh sao?”

Anh cầm lấy tay Holo và hôn lên mu bàn tay cô.

Nhưng nụ cười của anh dần biến mất vì vẻ mặt cô vẫn ủ rũ.

“…Này. Chuyện rắc rối lần này đâu phải lỗi của em, và cũng chẳng ai trách anh vì đã mang phiền phức từ bên ngoài đến làng cả. Lần này, mình còn rút lui mà chẳng gây xáo trộn gì đáng kể nữa.”

Hồi còn đi buôn, mỗi khi họ đến một ngôi làng nào đó và tình cờ có chuyện xấu xảy ra, họ thường bị đổ lỗi. Holo thì đặc biệt nhạy cảm với bầu không khí kiểu đó vì sự an toàn của chính cô.

Nhưng bây giờ, chẳng có chút mùi lo lắng nào lan trong không khí, và vì các vị khách đều đang mải lo chuyện hỗn loạn kia, mấy ông chủ thậm chí còn thấy vui vì nhà tắm vắng vẻ.

Đó là một khoảng nghỉ ngắn giữa mùa bận rộn.

“Em cũng biết mà.”

Lawrence muốn hỏi tại sao cô lại buồn như thế.

Nhưng anh kịp nuốt lời khi thấy cô, vẫn đi trước vài bước, quay lại nhìn anh với ánh mắt như sắp khóc.

“…Holo?”

Lawrence gọi tên cô, lòng trào lên một nỗi lo còn nhanh hơn cả bất ngờ.

Điều gì đang khiến Holo lo lắng?

Hay là Holo thất vọng vì anh không nhận ra?

Chỉ ngay sau khi những nghi vấn khiến tim anh đập loạn vì hoang mang.

Cô không dừng lại mà xoay người như một con thỏ, lao đến ôm chầm lấy Lawrence.

“Ơ!”

Anh suýt ngã ngửa, nhưng vẫn kịp đỡ cô trong vòng tay.

Holo vùi mặt vào ngực Lawrence, và đôi tay vòng qua ôm lấy anh thật chặt.

Anh vẫn chưa hiểu gì, không biết nên nói gì, thì nghe tiếng Holo nghèn nghẹn vang lên.

“Anh vẫn ở đây, đúng không?”

“Hả?”

Holo siết chặt vòng tay và lặp lại lần nữa.

“Người đang ở đây có phải là anh thật không?”

“…”

Holo ngước lên nhìn anh, gương mặt mang nét hoảng loạn như thể sắp bị nuốt chửng bởi một đám mây lo âu.

“Em…”

Lawrence lẩm bẩm, nhưng Holo chỉ thoáng kinh ngạc rồi lại vùi mặt vào ngực anh.

Ngay lúc đó, một thương nhân quen thuộc thường đến làng bước ngang qua, rõ ràng cố tình làm như không nhìn thấy họ.

Lawrence đoán thế nào rồi tin đồn cũng bay khắp nơi, nhưng điều quan trọng lúc này là Holo.

“Này, đi sang bên kia đi. Người ta hay qua lại lối này.”

Dù còn cách nhà tắm một đoạn, nhưng có một gốc cây hoàn hảo nằm trong đám bụi bên đường. Anh dắt tay Holo đến đó, cả hai cùng ngồi xuống. Khi cùng nhìn ra ngôi làng, Lawrence lại nhớ đến những ngày còn là thương nhân phiêu bạt.

Những lần làm lành vụng về sau mỗi trận cãi vã, hay những hôm mưa rả rích khiến chuyến đi mắc kẹt giữa rừng suốt vài ngày, hay…

Vị công chúa kiêu kỳ đang rúc vào người Lawrence, sụt sịt.

Anh vòng tay qua vai cô và suy nghĩ.

Người đang ở đây có phải là anh thật không? cô đã hỏi thế.

Anh nhẹ nhàng vỗ lưng cô, thở dài mệt mỏi.

Lý do thứ ba khiến Holo cư xử như vậy.

Cô đã gặp ác mộng.

“Anh hiểu rồi. Em tưởng cái xác trong hang là anh, đúng không?”

Thân thể Holo khẽ run lên. Có vẻ anh đã đoán đúng.

Holo sẽ sống hàng thế kỷ, và năm tháng với cô có thể trôi qua như trong giấc mơ. Cuộc đời một con người đối với cô hẳn chỉ là khoảnh khắc. Ngay cả Lawrence cũng đôi khi tự hỏi, liệu những ngày hạnh phúc này có phải chỉ là giấc mộng, còn con người thật của anh vẫn đang ngủ gật trong thùng xe?

Huống hồ cái xác trong hang kia rõ ràng là một kẻ lữ hành. Trên tay ông ấy là tờ da vẽ đầy hình sói.

Với Holo, người hay nghĩ ngợi những điều kỳ quặc nhất, việc đó hẳn đã trở thành một điềm báo.

Nếu đúng là như vậy, anh hiểu vì sao hôm đó cô đến tìm anh trong nhà tắm với vẻ mặt bất an đến thế.

“Chúng ta chẳng thay đổi gì cả.”

Lawrence mỉm cười nói, và Holo ngước lên, trừng mắt nhìn anh đầy sắc sảo. Má cô vẫn còn đẫm nước mắt, còn môi thì méo xệch vì xúc động.

“Câu trả lời đơn giản thôi. Thứ khiến em sợ nhất là cái thanh dập tiền, đúng chứ?”

Holo tròn mắt, còn anh thì nhếch môi cười mỉm.

“Thôi nào, tin anh chút đi.”

Dù có gọi anh là đồ đầu đất đi nữa, sống bên nhau lâu thế, anh đủ hiểu Holo nghĩ gì.

Nhưng rồi gương mặt cô bỗng sa sầm, và cô thì thầm, “Ngốc.”

“Không sao đâu. Bọn mình từng lang bạt khắp phương bắc, mang theo thanh dập tiền có biểu tượng mặt trời, mà cuối cùng vẫn ổn thôi. Bọn mình đâu có chui vào hang trốn vì thất bại rồi chết trong đó.”

Nước mắt lại ứa ra nơi khóe mắt Holo, cô cúi đầu.

Dù vậy, khả năng đó hoàn toàn có thật. Chuyến phiêu lưu năm xưa nguy hiểm đến vậy đó.

Nếu họ thất bại trong vụ phát hành bạc của Công ty Debau, thì rất có thể anh đã thành ra như kẻ ấy.

Không nơi nương tựa, không ai giúp đỡ, sống trong hang cùng Holo rồi từ từ lìa đời. Holo hẳn sẽ ở bên thi thể anh, lâu đến mức quên cả lý do mình còn ở đó. Rồi cuối cùng, ranh giới giữa mộng và thực sẽ nhòa đi, và cô sẽ nhầm lẫn giấc mơ là hiện thực.

Chuyện ấy hoàn toàn có thể xảy ra.

“Nhưng nó đã không xảy ra. Bọn mình vẫn ổn.”

Đó là nhờ may mắn và nhờ Holo.

Anh hôn lên thái dương cô, hít lấy hương thơm từ cô.

Đó là mùi hương quen thuộc của lúa mì khô, chắc chắn là của riêng cô mà thôi.

“Em đến xem đám hỗn loạn trong phòng họp chỉ để chắc chắn rằng người chết đó không phải là Kraft Lawrence, đúng không?”

Holo im lặng một lúc, rồi gật đầu mà đầu vẫn cúi thấp.

“…”

Thật ngốc mà, Lawrence suýt đã nói vậy, nhưng lời nghẹn lại.

Holo đang khẽ run lên trong vòng tay anh.

Thời gian sống của họ khác nhau, nghĩa là thế giới họ tồn tại cũng khác biệt một cách căn bản hơn anh từng tưởng.

Holo hiểu rõ điều đó, và đã nhiều lần cố rút lui.

Nhưng chính anh là người níu lấy tay cô và không buông, thì anh cũng có trách nhiệm khiến cô hạnh phúc.

Lawrence suy nghĩ lại điều ấy và hướng mắt ra xa. Giờ anh nên làm gì? Ôm cô, hôn cô, cùng cô uống rượu mật bên lò sưởi mọi lúc. Nhưng anh cần một điều gì đó để tự tin rằng chính anh mới là người có thể mang hạnh phúc cho Holo.

Khi cùng Holo ngồi giữa đám cây nhìn ra ngôi làng, anh nghĩ. Giá như có thể bước vào giấc mơ của cô, xóa sạch mọi cơn ác mộng trong đó. Và rồi, một ý nghĩ chợt lóe lên.

“À, hay là mình làm thế thật đi.”

Holo giật mình trong vòng tay anh.

Lawrence vò mạnh mái tóc cô.

“Này, Holo?”

Anh cất lời như thể đang rủ cô đi dạo, nên dĩ nhiên cô đã ngước lên theo phản xạ.

“Anh không thể chắc đây không phải là mơ, nhưng…”

Holo nhíu mày lo lắng khi anh nói thế, nhưng anh vòng tay qua vai cô rồi luồn tay dưới đầu gối, bế bổng cô lên như một tân nương.

Holo mở to mắt kinh ngạc.

“Nếu đây là giấc mơ, vậy hãy để nó là một giấc mơ đẹp.”

Cô khẽ hít vào, hoặc có lẽ là nghẹn lại. Holo nuốt nước bọt rồi cất giọng khàn khàn.

“Anh đang định…?”

“Đơn giản thôi.”

Anh hôn lên khóe mắt cô rồi nói.

“Hãy chôn vùi những điều tồi tệ lại nào.”

◇◇

Dù đang là mùa hè, nhưng nhiệt độ ban đêm hạ xuống thấp vì hơi ẩm từ cây cối, và mỗi hơi thở phả ra lại thành làn sương trắng mờ.

“Anh… thật sự là đồ ngốc…”

Holo đang ở dạng sói, nói vậy với vẻ dịu dàng khác với thường ngày.

Anh xoa lớp lông ở gốc cổ cô và chỉnh lại cái xẻng đang vác trên vai.

“Thi thoảng liều lĩnh một chút cũng đâu tệ, đúng không?”

“…”

Dường như ngay cả khi là sói, cô vẫn có thể nở nụ cười nửa khó chịu, nửa chiều chuộng.

“Hmph. Đồ ngốc.”

Cô thúc mũi vào đầu anh, và khi thấy chiếc đuôi cô vẫy nhè nhẹ đầy vui vẻ, anh cũng cười.

“Vậy nhé, trông nhà trong lúc bọn tôi đi vắng nhé.”

Aram, người hiện đang trú tại nhà tắm của Lawrence vì vụ lộn xộn trong làng, và cô em gái Selim của cậu ta không thể không để ý khi Holo biến về dạng sói. Khi cả hai đang thò đầu ra khỏi cửa nhà tắm để nhìn Holo và Lawrence đang làm gì, anh cất tiếng gọi họ.

Cả hai khẽ rụt người lại và gật đầu.

“Đi thôi.”

“Ừ.”

Holo và anh cùng tiến về phía hang động.

Holo bị nỗi lo canh cánh đè nặng bởi vì cái xác kia, kẻ đã nắm chặt tờ giấy da vẽ đầy hình sói và giữ một thanh dập có khắc hình sói, vẫn nằm trong hang.

Nên bằng chính đôi tay mình, họ sẽ cứ thế mà lấp kín cái hố ấy. Kể cả nếu tất cả chỉ là một giấc mơ, thì họ chỉ cần quay lưng với bất kỳ điều gì đang cố đánh thức cô khỏi một giấc mơ dễ chịu đến thế mà thôi.

Holo ngày xưa hẳn sẽ khinh thường lý lẽ vô căn cứ như vậy. Khi đi tìm niềm tin, có lẽ cô đã không muốn chấp nhận một cách đơn giản thế này. Nhưng thời gian đã trôi, và mối quan hệ giữa họ cũng đã đổi thay.

Anh đi sau Holo, bước chân theo chiếc đuôi đang đong đưa phía trước như một đứa trẻ rượt theo đồ chơi. Rừng đêm vốn chẳng phải chốn dành cho người sống, nhưng khi đi cùng Holo, anh không hề thấy sợ.

Anh đi với tâm trạng hưng phấn đến mức khi đuôi của cô đột ngột vẫy sát lại gần, đầu anh liền chui tọt vào lớp lông mềm.

Phù… này, Hol—”

Lời anh nói, cũng như cả cái đầu, bị chiếc đuôi phủ kín.

“Có người ở đây.”

Holo thì thầm, tiếng phát ra như tiếng gầm nhẹ từ cổ họng.

Anh im lặng, chui ra khỏi lớp lông và nheo mắt nhìn.

Dù còn xa, nhưng qua hàng cây, anh có thể thấy ánh sáng le lói.

“Có vẻ… không chỉ có mình bọn mình ngu ngốc thế này.”

“Ý em là sao?”

Anh hỏi, và Holo nhe răng cười, để lộ một chiếc nanh trắng.

“Có lẽ là màn đối đầu của những kẻ quyết định dùng vũ lực khi tranh chấp không tìm được giải pháp chung.”

Anh chẳng biết nói gì hơn, chỉ cười bất lực.

“Vậy giờ làm gì? Nhảy ra và tuyên bố có sứ giả của rừng đến chăng?”

Holo cúi đầu, dụi trán vào người anh như thể đang làm nũng.

Cô đang bảo anh cứ dại khờ tùy thích.

Anh xoa khuôn mặt đầy lông của cô rồi thở dài suy nghĩ.

“Nghe cũng vui đấy… nhưng nếu làm vậy, nơi đó lại thành một thánh địa phép lạ nữa mất.”

“Vậy là không nhỉ?”

“Đám người đang gào bên kia kiểu gì cũng bảo rằng vì chính mắt họ thấy phép màu, nên họ xứng đáng được quyền cai quản nơi ấy. Rắc rối lại càng thêm rắc rối thôi.”

“Mmh…”

Holo ve vẩy chiếc đuôi như bất mãn.

“Anh không ngờ lại có nhiều người muốn mang cái xác đi trong đêm đến vậy… Haizz, chắc còn lâu mới chôn được ông ta quá.”

Đôi mắt lớn của Holo chớp nhẹ rồi híp lại.

“Nếu ông ta có linh hồn hay gì đó, sao không hỏi thẳng luôn?”

“Phải ha, thế thì đỡ mất công,” anh bật cười, rồi chợt khựng lại. “Hỏi thẳng… linh hồn của ông ta á?”

“…Sao, anh nghĩ tai mình nghe tốt hơn tai em chắc?”

Holo nghiêng đầu tinh nghịch, định trùm đôi tai to tướng của mình lên người anh như che mưa cho một đứa bé. Anh cảm giác như mình hóa thành con chuột, vội lách khỏi trò đùa của cô, còn đầu óc thì quay mòng mòng.

“Không… chẳng phải bọn mình hoàn toàn hiểu mong muốn của người lữ khách đó sao?”

“Hửm?”

“Nếu vậy thì… ừm…”

Có lẽ do tuổi tác, đầu óc anh không còn nhanh nhạy như trước. Nó khựng lại ngay khi mọi thứ sắp kết nối với nhau.

Holo nhìn anh chăm chú, rồi liếc về phía hang động, sau đó lại quay về phía anh.

“Sao, anh định dập tiền hay gì đó à?”

Đó chính là giấc mơ của người lữ khách ấy. Đúc tiền là biểu tượng cho quyền lực của một lãnh chúa.

“Cũng được… nhưng sao em nghĩ bọn mình lo lắng về chuyện thiếu tiền đến vậy?”

Holo lùi lại một chút, đôi mắt nheo lại như sói chuẩn bị vồ mồi.

“…Em là Hiền giả Sói Holo. Đừng có xem thường em. Nếu chỉ đơn giản là in ra đồng tiền riêng, chẳng phải sẽ dính dáng đến rắc rối về lãnh thổ sao?”

“Chính xác. Chưa kể, mình còn chẳng có nguyên liệu.”

“Vậy thì nung chảy mấy đồng khác ra.”

“Hừm. Em biết nhiều ghê ha.”

“…”

Cô thúc mõm vào anh.

“Xin lỗi, xin lỗi!”

Anh vội vàng xin lỗi, còn Holo thì khịt mũi.

“Đồ ngốc. Và vẫn còn một vấn đề khác nữa.”

“Hử?”

“Người ta vẫn nói với anh suốt còn gì?”

Lawrence ngẩng đầu nhìn Holo đang đứng sừng sững. Anh dang rộng hai tay như đang cầu khẩn lời tiên tri và nhún vai.

“Không ai mang được tiền theo về thế giới bên kia. Vậy bọn mình định nói với vị lữ khách đáng thương kia thế nào rằng giấc mơ của ông ta đã thành hiện thực? Làm theo tập tục thời chiến, như lão hói kia nói à? Chôn tiền xuống đất chăng—?”

Đúng lúc ấy, anh bỗng nhìn thấy rõ ánh sáng trong khu rừng tối.

“Đúng rồi!”

Ngay khi hét lên, một thứ gì đó to lớn đè sầm anh xuống.

Đó là lòng bàn chân của Holo, và chính cô cũng đang cúi rạp xuống nhìn về phía ánh sáng.

“Đồ ngốc!”

“…Xin lỗi…”

Cả hai bất động trong giây lát, nhưng may mắn thay, dường như chưa bị ai phát hiện.

“Rồi sao? Anh đã nghĩ ra cái gì vậy?”

Holo nằm sấp xuống đất, nhìn anh bằng ánh mắt đầy mệt mỏi.

Đó là ánh mắt của một người vợ lâu năm đã quá quen với mấy trò dở hơi của gã chồng mỗi lần anh ta nghĩ ra kế hoạch kiếm tiền mới.

Và nụ cười nửa miệng của cô lúc này lại lấp lánh sự háo hức muốn xem lần này anh định dở chiêu gì nữa.

Lawrence kể cho cô nghe kế hoạch của mình, và Holo ve vẩy chiếc đuôi đầy thích thú.

~~~

Ý tưởng mà anh nghĩ ra, dĩ nhiên là làm bánh mì có in hình do chính mình vẽ, nên anh phải có kỹ năng tương ứng để biến nó thành hiện thực. Lawrence đã chuẩn bị xong mọi thứ cần thiết.

Sáng hôm sau, anh đến phòng họp vốn lúc nào cũng hỗn loạn.

“Chính vì vậy, như tôi đã nói—”

“Nếu ngài không công nhận điều này, thì chúng tôi—”

“Nếu ngài cứ tiếp tục vung vẩy những lập luận rỗng tuếch như vậy, thì đức tin của ngài—”

Khi các cuộc tranh cãi không ngừng bay ngang dọc, Lawrence cùng những người đi cùng tách đám đông, tiến sâu vào trong.

Các khán giả, các lãnh chúa và người hầu đều nhìn họ với ánh mắt lạ lẫm.

Nhưng không ai ngăn bước chân họ, bởi dẫn đầu là lão lãnh chúa hôm trước.

“Điều chúng ta thật sự nên tìm kiếm lúc này là sự cứu rỗi cho linh hồn người đã khuất—”

Một linh mục đang phát biểu, nước bọt bắn tung toé. Lão lãnh chúa liền rút trường kiếm, đập mạnh xuống bàn cùng với bao kiếm. Đám đàn ông đỏ mặt, giống như những con ngỗng đang kêu la trong đầm, bỗng cứng cổ im lặng.

“Đúng vậy. Điều chúng ta nên tìm kiếm chính là sự cứu rỗi cho linh hồn của ông ấy.”

Khi lão lãnh chúa cất lời, một vị linh mục trông như nuốt phải cục đá lấy hết can đảm mở miệng:

“...Chính vì vậy phương pháp đó—”

“Phương pháp đó à?”

Gã linh mục tự xưng là đầy tớ của Chúa lập tức nín bặt khi bị lão cựu chiến binh từ một trận chiến cổ xưa lườm một cái.

Vị lãnh chúa già đến mức ngay cả những người râu bạc trắng cũng chỉ như con cháu trước mặt ông.

“Chúng tôi hiểu điều đó.”

Vị lãnh chúa già tuyên bố, và bầu không khí trong phòng họp chợt lặng như tờ.

“Người đó đã sống trong giấc mơ, rồi cũng chết trong giấc mơ. Vậy thì còn điều gì thực hơn chính giấc mơ đó?”

Nói rồi ông lấy ra cái thanh dập đồng tiền từ trong túi.

“Kh-không, sẽ gây tai họa mất!”

Một lãnh chúa trung niên ngồi trên ghế nệm đỏ thốt lên.

“Kiềm chế lại! Chính cái đó mới gây tai hoạ!”

Một lãnh chúa khác lập tức ngăn lại. Dù trước đó họ không màng mấy trận cãi vã giữa các linh mục, nhưng chỉ vừa nhìn thấy thanh dập, mặt ai cũng tái xanh.

Mọi người đều hiểu vấn đề đã vượt khỏi tầm kiểm soát khi lão lãnh chúa rút ra vật đó.

“Hmm? Mà các người sợ cái gì thế? Nghĩ ta sẽ làm gì với cái này?”

Lão già từng trải trận mạc cười gian như cáo. Lúc này, đám lãnh chúa và linh mục mới nhận ra Lawrence và những người khác đang đứng cạnh ông.

“Gì cơ...? Khoan đã, đó là mấy người chủ nhà tắm? Mấy người định mang hoạ tới làng này sao?”

“Vớ vẩn.”

Người đáp là chủ toạ hội đồng, người đã ủng hộ kế hoạch của anh và cùng góp sức vì hòa bình trong làng. Ông ta là chủ một trong những nhà tắm lâu đời nhất.

“Điều duy nhất chúng tôi mong từ các vị khách quý là có quãng thời gian dễ chịu tại Nyohhira. Vì thế, chúng tôi muốn giúp đỡ người lữ khách ấy.”

“Và chính đó là vấn đề. Các người định in tiền vì tình hình thiếu tiền gần đây phải không? Thật ngốc nghếch khi nghĩ rằng đó là một công đôi việc. Đừng tưởng việc đúc tiền như Công ty Debau là dễ.”

Câu trả lời nghe như thể việc nghĩ đến thôi cũng đã là tội lỗi. Nhưng lão lãnh chúa đáp lại.

Ông vung thanh dập tiền như đang xua ruồi.

“Ai nói chúng ta sẽ đúc tiền? Chúng ta là đầy tớ chân chính của Chúa. Nên theo lời dạy của ngài, chúng ta sẽ biến giấc mơ của người đã khuất thành sự thật.”

“Đợi đã, nhưng... ‘Giấc mơ của người đã khuất’? Ý ngài là...”

Lão lãnh chúa đáp gọn ghẽ.

“Tất nhiên—dùng thanh dập nổi và khuôn đóng dấu này, chúng ta sẽ in lên mọi thứ giấu khắc của gia tộc ông ấy. Chắc chắn ông ấy sẽ vui khi mọi người sử dụng vật phẩm mang dấu ấn ấy.”

Nhóm lãnh chúa trẻ nhất giận ra mặt khi nghe vậy. Họ cũng đã lập công danh dưới cương vị lãnh chúa chính thức, nên không chịu thua dễ dàng.

“Và đó chính là điều chúng ta muốn nói đó! Dùng thanh dập tiền để làm gì nếu không phải để in tiền? Ngài định dùng nó làm gậy nhào bột à?”

Nhiều tiếng phẫn nộ vang lên phụ hoạ.

“À, cũng gần đúng đấy.”

Khi lão cười nham hiểm, tinh thần giận dữ của đám lãnh chúa bỗng bị dội nước lạnh.

Theo hiệu lệnh, Lawrence và những người đi cùng mở các giỏ mà họ mang theo.

“C-Cái gì—?”

Hương bơ thơm ngọt lập tức lan toả khắp phòng họp.

“Ta không rành về đồ ăn, nhưng theo Ngài Lawrence đây, người từng chu du khắp nơi, thì đây là một loại bánh khô, đặc sản của các ngôi làng nhỏ. Chúng ta đã làm ra nó với ý tưởng đó.”

Anh bước đến từng lãnh chúa, tay bưng giỏ phân phát từng chiếc bánh.

“Đây là… bánh không men?”

“Không, không chỉ là bánh không men. Là bánh quy à?”

“Hmm… Khác với bánh quy ở phương nam nhỉ…”

Những lãnh chúa giàu có tất nhiên rành đồ ăn. Đây là loại bột nhào nướng nhẹ, có trứng và bơ.

Và họ lập tức nhận ra hoạ tiết in trên bánh có ý nghĩa gì.

“Ồ! Đây là bánh hình đồng xu, in theo khuôn dập kia!”

“Không lãnh chúa nào phản đối thứ này, đúng không?”

“Dù sao thì làng ta cũng đâu có hiệp hội thợ làm bánh.”

Chủ toạ hội đồng nói thêm một câu.

“Và đây cũng là một trong số ít giấc mơ của cựu thương nhân Lawrence. Tôi chắc ai trong chúng ta cũng từng nghĩ đến một lần.”

Sau lời đùa ấy, anh nói tiếp.

“Tôi luôn nghĩ nếu có thể ăn no bằng tiền xu thì tốt biết mấy.”

Những người có mặt đều là kẻ từng trải, giàu có. Họ cười mỉm, chẳng phải vì giận.

Rồi lão lãnh chúa lên tiếng.

“Ta từng sống trong chiến tranh, từng theo chân những kẻ mộng mơ. Trên chiến trường chỉ có đói và khát, còn sự bảo hộ của Chúa lại chẳng thấy đâu. Trước đó nhiều năm, vị linh mục tuyên úy mất đi khả năng đi lại trong những dãy núi và mãi mãi không thể hồi phục. Chúng ta chưa từng có thứ gì xa xỉ như được chôn cất bạn hữu giữa những lời cầu nguyện. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là đào hố chôn vị ấy, rưới lên chút rượu, hoặc đặt miếng thịt khô thay bia mộ.”

Những người từng chinh chiến nghiêm mặt lắng nghe, vì đó chính là chuyện thật từ chiến trường.

“Là người sống sót từ thời đó, ta tin rằng giúp người đã khuất thực hiện ước nguyện cuối đời chính là món lễ vật cho hành trình tiếp theo của ông ấy.”

Tất cả các lãnh chúa liền rời khỏi ghế, quỳ một gối thể hiện sự tán đồng.

Đến nước này, các linh mục cũng chẳng thể cố chấp. Nếu không giữ quan hệ tốt với lãnh chúa, hậu quả khi họ trở về sẽ không hề nhỏ.

Một khoảnh khắc im lặng bao trùm lấy tất cả khi vị lãnh chúa già chờ xem có linh mục nào phản đối không.

Rồi khi thấy các linh mục đã cúi đầu, ông cất lời:

“Vậy thì, theo phong tục chiến trường, ta sẽ chôn ông ấy như một người bạn. Còn các vị, những người làm việc thánh…”

Đám con chiên của Chúa ngẩng đầu.

“Hãy cầu nguyện cho những đồng bánh quy chôn cùng ông ấy, để chúng có thể đến được thiên đường.”

Các linh mục đưa mắt nhìn nhau.

Vấn đề không còn là ai quan trọng hơn ai.

Bởi chẳng ai biết lời cầu nguyện nào mới thực sự đưa bánh quy đến thiên đường, nên cũng chẳng ai tranh giành nữa.

“Vậy thì… ừm…”

Khi nghe tiếng thì thầm đồng thuận, lão lãnh chúa gật đầu.

“Thế thì kết thúc ở đây! Bắt tay vào làm thôi!”

Ông vỗ mạnh xuống bàn, và mọi người đứng thẳng dậy.

Cuộc hỗn loạn bất ngờ tại Nyohhira, như vậy, đã kết thúc.

~~~

Nhóm người khiêng quan tài đi thành từng đoàn đến hang động nơi người lữ khách yên nghỉ. Có vẻ như vài ông chủ nhà tắm cũng đi cùng họ, nhưng Lawrence, người đã thức trắng cả đêm, chỉ đứng đó nhìn họ đi mà thôi.

Hôm qua anh đã đề xuất ý tưởng của mình với ông lãnh chúa già, và sau khi nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, họ đã đi đến từng nhà tắm trong làng để kể lại câu chuyện. Riêng việc đó đã tốn khá nhiều thời gian, nhưng anh còn phải đánh thức cô phụ bếp Hanna, sau đó nhờ Aram và Selim giúp nhào bột. Họ cũng phải làm nóng lò, con dấu, thanh sắt nung và thanh dập nổi, rồi cuối cùng thì những chiếc bánh mì nướng vừa đủ chín cũng hoàn thành khi bình minh ló dạng.

Sự mệt mỏi đè nặng lên vai và lưng anh, còn đôi mắt anh thì bỏng rát.

Lawrence nghĩ về việc ngày trẻ mình có thể buôn bán suốt ba ngày liền mà không cần chợp mắt, rồi khẽ cười chua chát.

Khi phần lớn mọi người đã hướng lên núi, cuối cùng anh mới lên tiếng.

“Em có muốn quay lại nhà tắm không?”

Holo, người đã đến xem mọi chuyện diễn ra tại hội trường, khẽ gật đầu. Họ nắm tay nhau, và Holo bắt đầu cào cào lớp bột dính trên ngón tay anh mà anh mãi không rửa sạch được.

“Này, đau đấy.”

Holo không đáp, chỉ tập trung cào lớp bột dính vào móng tay anh. 

“...Em có muốn đi xem lễ chôn cất không?”

Cô khựng lại trong chốc lát.

Đi được vài bước, cô lại bắt đầu cào tiếp.

“Không.”

Cô đáp lại bằng giọng của một bé gái đang hờn dỗi.

“Ừ nhỉ. Mọi rắc rối cứ để nằm yên dưới lòng đất đi.”

Holo khịt mũi như thể muốn nói rằng lý do duy nhất khiến cô thôi cào ngón tay anh là vì thấy chán.

Họ lặng lẽ bước đi giữa ngôi làng Nyohhira, những con phố thường ngày nhộn nhịp giờ đây trở nên vắng lặng. Tựa như tất cả những cuộc vui vừa qua chỉ như là một giấc mơ vậy.

“Em có sợ phải đi ngủ không?”

Khi anh hỏi vậy, cơ thể Holo cứng lại, cô đứng sững lại giữa đường.

Không còn lý do nào ngăn nổi cô uống rượu và đi ngủ sau khi đã dành ra cả đêm để nhào bột cả.

Nhưng nếu cô ngủ thiếp đi, có lẽ cô sẽ phải thức dậy khỏi giấc mơ này mất.

Điều đó khiến cô sợ hãi, nên cô đã đi cùng Lawrence.

Trên khuôn mặt anh thoáng hiện một nụ cười khi nhìn cô. Anh bước lên trước một bước, thò tay vào túi áo ngực.

Anh lấy ra một miếng bánh mỏng, có hình con sói được in cháy trên bề mặt.

“Nè.”

Lawrence đưa bánh về phía miệng Holo, nhưng cô quay đi, nhăn mặt.

Anh nhún vai, bẻ đôi miếng bánh và ăn lấy một nửa.

“Em cầm lấy phần còn lại đi.”

Anh bỏ nửa bánh kia vào chiếc túi đựng lúa mì đeo trên cổ Holo. Cô đã đưa chiếc túi cũ cho Myuri, nên đây là một cái mới.

Holo không phản kháng, nhưng liếc nhìn anh đầy dò hỏi.

“Với thứ này, nếu em tỉnh dậy một mình, ở một cánh đồng lúa mì xa xôi nào đó—”

Giữa chừng câu nói ấy, mắt Holo mở lớn đầy kinh ngạc.

Lawrence mỉm cười đầy cảm thông, đưa cả hai tay lên nâng niu bờ má cô.

“Nếu chuyện ấy xảy ra, chỉ cần đi theo mùi hương miếng bánh này. Ở đó em sẽ tìm thấy được anh.”

Holo nhìn chằm chằm vào Lawrence, và khi anh mỉm cười, nước mắt cô tuôn trào.

Rốt cuộc thì, có lẽ cô đã nhớ ra bản thân đã tự xưng là Hiền giả Sói.

Holo, với đôi tai sói và chiếc đuôi cùng màu với mái tóc màu rơm nhạt của mình, hít một hơi thật sâu, rồi gượng cười.

“Vậy thì anh thay bánh mì bằng gia vị đi.”

“Vì gia vị làm món ăn ngon hơn à?”

Rồi sau một tràng cười, Holo ôm chầm lấy Lawrence.

Lawrence vòng tay ôm lấy cơ thể mảnh mai của cô và nói.

“Giờ mình về lại nhà tắm nhé. Nhà tắm mà em và anh cùng dựng xây.”

Chiếc đuôi của Holo ve vẩy liên tục, cô gật đầu và siết chặt tay anh. 

Lần này, cô không còn nắm tay anh như thể còn điều gì muốn nói nữa.

Và thế là hai người cùng nhau sánh bước.

Mùa hè ở Nyohhira ngắn ngủi như thế đấy.

Phía trên đầu họ, bầu trời xanh thẳm trải rộng như muốn nuốt chửng tất cả.

Bình luận (1)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

1 Bình luận

Tôi định comment "nếu sợ đây không phải thực thì anh Luật chỉ cần cho Holo 1 thứ nằm trong bụng hẳn 9 tháng là biết" nhưng chợt nhận ra đây không phải lần đầu hiền giả Sói thế này, nếu làm vậy thật thì chắc phải cả đàn sói con rồi cũng nên
Xem thêm