Sói và Gia vị: Spring Log
Hasekura Isuna Ayakura Jū
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Volume 20: Spring Log III [Đã Hoàn Thành]

Sói Và Những Giấc Mộng Buồn (1)

0 Bình luận - Độ dài: 10,742 từ - Cập nhật:

Bầu trời đã chuyển sang một màu xanh thẳm hơn và mùi hương cây cỏ từ rừng thoảng qua trong gió. Tại dãy núi thuộc ngôi làng suối nước nóng Nyohhira, nơi nửa năm trời chìm trong tuyết trắng, mùa hè cuối cùng cũng đã đến.

Lawrence, chủ nhân của nhà tắm Sói và Gia vị, hít một hơi thật sâu bầu không khí mùa hè, nhưng có một điều khác mới là dấu hiệu thật sự cho anh biết mùa đã đổi thay.

“…Thật là…”

Đó là lúc anh mang lọ mực từ sổ ghi chép trở về phòng ngủ. Lawrence mở cửa và thở dài đầy ngán ngẩm.

Anh đã tự hỏi không biết vợ mình, Holo, đang ở đâu, vì cả ngày không thấy cô đâu trong nhà tắm. Nhưng rồi cô đang nằm đó, ngủ ngon lành trên giường. Trên chiếc bàn cạnh giường vẫn còn một ly bia lúa mạch đầy gần phân nửa, có lẽ cô đã gật gù ngủ thiếp đi sau khi uống vài ngụm trong lúc ngắm bầu trời.

Chiếc cửa sổ để mở vào thời điểm này trong năm khiến làn gió mát mơn man má anh và tiếng chim hót len lỏi bên tai. Không gì xa hoa hơn là nằm dài ngắm những cụm mây trôi lững lờ dưới bầu trời xanh rực rỡ như thế này.

Nằm giữa tất cả những thứ ấy, Holo trông như một con mèo ngốc nghếch khi nằm ngửa với cái miệng hé mở. Tay phải cô đặt trên bụng, phập phồng theo nhịp thở đều đều và những tiếng ngáy khe khẽ.

Lawrence khẽ cười khi thấy bàn tay phải của cô thỉnh thoảng gãi bụng như bản năng.

Cách cô nằm ngủ khiến người ta có cảm giác như cô chỉ là một bé gái mới hơn mười tuổi một chút, và thật dễ dàng để nói rằng tư thế ngủ này thật không hợp với lứa tuổi cô, nhưng tiếc thay—bản chất của Holo lại không giống như ngoại hình. Chân thân của cô là một con sói khổng lồ sống trong cánh đồng lúa mì và cai quản mùa vụ.

Và thế nên, trên đầu cô là đôi tai sói nhọn hoắt, phủ một màu lông giống với mái tóc óng ánh như sợi lanh của cô. Từ phía sau cô là chiếc đuôi bông xù mà cô chăm sóc mỗi ngày, đang đung đưa nhẹ theo gió từ cửa sổ.

Đặc điểm sói của cô không chỉ dừng ở tai và đuôi, mà còn thể hiện cả trong cách cô ngủ.

Vào mùa đông, Holo thường cuộn tròn người lại như một con sói, úp mặt xuống. Nhưng khi tiết trời ấm lên, cô duỗi người ra dần. Vào thời điểm này trong năm, tay chân cô duỗi dài khắp nơi và cô nằm ngửa, vô tư tận hưởng thế giới không một chút sợ hãi.

Trông cô thật thanh thản—thậm chí là ngốc nghếch.

Holo chắc chắn sẽ nổi giận nếu biết Lawrence đánh dấu mùa mới bằng cách quan sát tư thế ngủ của cô.

Và tất nhiên, nếu chuyện đó bị lộ, anh sẽ không thể mong đợi được nhìn thấy điều này mỗi năm nữa, nên Lawrence hết sức cẩn thận che giấu nó.

Năm nay cũng vậy, sau khi nhìn Holo một lúc, anh hạ mắt xuống chiếc bàn cạnh giường. Trên đó vẫn còn cây bút lông và vài mảnh giấy, bên cạnh đó là một bức vẽ khá nguệch ngoạc. Nó là tranh một chùm quả lý chua mà họ vừa hái hôm qua, và có vài quả thật đang nằm ngay trên mặt giấy.

Lý chua không phải là không thể ăn sống, nhưng chua đến mức khiến mặt phải nhăn lại. Holo thỉnh thoảng cố tình ăn sống chúng để khiến đuôi mình phồng to hơn thường lệ.

Những chùm lý chua mà họ hái vào mùa này đôi khi sẽ được nhúng đường, nấu với mật ong, hoặc làm thành rượu.

Lawrence nhặt một quả nhỏ màu đen lên và lăn nó trên tay. Sau đó, anh nhìn ra cửa sổ, hít một hơi thật sâu rồi ngồi xuống mép giường nơi Holo đang ngủ.

Sau khi anh đã dành một lúc ngắm khuôn mặt đang ngủ của cô với đôi mắt vẫn nhắm đầy thư giãn, rồi dùng hai ngón tay kẹp quả lý chua trên tay và nhẹ nhàng đặt lên môi cô.

Đôi tai sói của Holo vểnh lên thẳng tắp, mi mắt cô giật nhẹ khiến anh tưởng cô sẽ tỉnh dậy, nhưng cô lại tỏ ra chẳng có dấu hiệu sẽ làm thế. Thay vào đó, bản năng cảnh giác của loài sói trong cô biến đâu mất, đôi môi cô thậm chí còn chẳng mím lại.

Miệng của nàng hiền giả sói tham ăn bắt đầu nhóp nhép nhai ngay khi có thứ gì chạm vào môi, kể cả khi đang ngủ, và quả lý chua nhanh chóng bị nuốt gọn—

Nom… Mmm…”

Ngay sau khi cô cắn vào quả đó/

“Mmmmmmm!”

Nó quá chua, Holo bật dậy như lò xo.

“Mn, ngh… Guh. Cái quái—?!”

Dường như cô đã nuốt luôn cả quả lúc bật dậy, Holo vội vàng ôm cổ họng và ngực mình.

Lawrence, cười thầm vì phản ứng của cô, đưa cho cô ly bia mà cô đã bỏ quên từ trước. Holo chụp lấy, uống ngụm lớn, rồi có vẻ như cuối cùng cũng hiểu ra chuyện gì xảy ra. Không khó để đoán khi thấy quả lý chua trên bàn và Lawrence đang ngồi đó, mỉm cười.

Ngọn lửa trong đôi mắt đỏ hổ phách của cô loé lên.

“…Đồ… ngốc!”

Ngày xưa, Lawrence sẽ sợ hãi run người mỗi khi thấy cô giận như vậy, nhưng đã hơn mười năm kể từ khi anh và Holo kết hôn.

Anh cầm chiếc ly giờ đã cạn từ tay cô, rồi dùng ngón cái lau đi lớp bọt trắng quanh miệng cô.

“Em dậy rồi à?”

Holo trừng mắt nhìn Lawrence đang cười, túm lấy cổ tay anh và dụi miệng vào đó để lau, rồi cắn nhẹ mu bàn tay anh trước khi quay đi, hậm hực.

“Và chuyện này là sao hả?!”

Holo rất tự cao và không giỏi đối mặt với những bất ngờ. Nếu bị trêu quá mức sẽ cô thực sự giận, nhưng có lẽ anh sẽ không cảm thấy áy náy nếu thi thoảng được thấy mặt này của cô để xua đi nỗi buồn trong công việc.

Lawrence đưa tay ra vuốt tóc cô, nhưng bị cô gạt đi.

Anh yêu chiều cái kiểu phụng phịu của cô, nhưng phải nói ra điều cần nói trước khi cô giận thật.

“Anh có việc cho em đây. Lần này đến lượt em rồi.”

“….”

Cô liếc nhìn anh với vẻ bực bội, rồi thở dài và bước ra khỏi giường.

~~~

Lawrence trải một tấm bản đồ cũ kỹ lên bàn, bụi bay lên khiến Holo hắt hơi.

Khịt… Cái gì đây?”

Holo nhăn mặt khi xoa mũi hỏi, và khi nghe thế, Lawrence lại càng nhăn mặt hơn.

“Em không nhớ sao?”

“Hmm?”

Holo nhìn anh, rồi nhìn bản đồ. Sau một lúc, cô mới lẩm bẩm nhận ra.

“À… Hắt xì! Khụ… Và tại sao anh lại mang thứ cũ rích này ra?”

Có vẻ như cô cuối cùng cũng nhớ ra rồi.

Trên tấm bản đồ được trải trước mặt họ ngập tràn những ghi chút, và còn bị bẩn một góc do rượu đổ lên.

Đó là tấm bản đồ mà Lawrence và Holo đã cùng vẽ để đánh dấu một nơi thuận lợi để xây nhà tắm khi họ bắt đầu việc kinh doanh ở Nyohhira. Nói cách khác, đây chính làm một bản đồ kho báu cũ, thứ giúp họ tìm thấy mái ấm của mình nơi phương bắc này.

“Giờ thì kho báu đã được tìm thấy, bản đồ chẳng còn ai ngó ngàng đến nữa. Con bé Myuri đó cũng đã nhìn nó đôi lần, đúng không nhỉ?”

Lawrence vừa nói vừa lau mũi cho Holo, trong khi đuôi cô khẽ đung đưa khi cô trả lời.

“Vậy? Anh muốn làm gì với nó? Đừng nói là lại định mở thêm một chỗ nữa đấy nhé?”

Xây thêm một khu mở rộng cho nhà tắm Sói và Gia vị và phát triển việc kinh doanh... Đó từng là giấc mơ của anh từ rất lâu trước đây. Nhưng giờ thì việc giữ cho nhà tắm của họ khiêm tốn mà vẫn độc đáo mới là điều quan trọng hơn.

“Không, điều anh muốn nhờ em là từ đây đến đây.”

Anh trượt ngón tay từ làng Nyohhira về phía tây.

Ngón tay đó đi sâu vào khu rừng, vượt qua một dãy núi, nơi thậm chí những cộng đồng nhỏ nhất cũng chưa tồn tại.

“Anh muốn em tìm một con đường nối liền những nơi này.”

“Một con đường?”

Holo nhắc lại, vẻ nghi ngờ, và anh trả lời.

“Em đã từng đến đây nhiều lần bằng hình dạng sói, đúng không?”

“Đúng là vậy, nhưng... Cũng chính vì thế mà em biết chỗ đó không có con đường nào cả.”

Chỗ anh chỉ là một đường thẳng nối liền một vùng đất nhất định với làng suối nước nóng Nyohhira.

Nơi đó từng là một công trình đơn độc, từng bị coi là mối đe dọa có thể trở thành đối thủ cạnh tranh với Nyohhira trong kinh doanh.

“Anh biết. Bọn mình sẽ làm một con đường. Nhưng em biết rõ nơi nào dễ đi và nơi nào khó, đúng chứ? Còn một chuyện nữa.”

Lawrence chọc nhẹ chóp một chiếc tai sói của Holo.

“Chắc chắn sẽ có những nơi trong rừng mà cư dân ở đó không muốn ai bén mảng vào.”

Nghe vậy, Holo nhíu mày và mím môi.

Đôi mắt đỏ ánh hổ phách của cô nhìn anh đầy giận dữ, có lẽ vì anh vừa giao cho cô một việc rắc rối.

“Anh giao cho em việc phiền toái thật đấy.”

Chính xác là điều anh đoán cô sẽ nói, và anh chỉ biết cười mệt mỏi, nhún vai.

“Là nó phải không? Con đường dẫn đến nhà trọ mà Selim và người thân của cô ấy dựng lên ấy? Liệu điều đó có ổn không? Chẳng phải anh xem họ là đối thủ cạnh tranh sao?”

Selim là một cô gái trẻ đang làm việc tại nhà tắm, và cô ấy cũng không phải con người. Giống như Holo, cô là hiện thân của một con sói, và cùng anh trai và bạn bè, cũng là những con sói, đã đi từ phương nam lên phía bắc để tìm một nơi sống yên ổn. Sau bao trắc trở, Selim đến làm việc tại nhà tắm của anh, nhưng Aram anh trai cô và những người khác thì khác. Họ dựng nên một thị trấn nhỏ giả danh là nơi diễn ra phép lạ của thánh nữ, dưới vỏ bọc các tu sĩ, ở phía bên kia dãy núi Nyohhira.

Lawrence vẫn nhớ rõ sự lo lắng của các chủ nhà tắm tại Nyohhira về một đối thủ cạnh tranh khi nghe tin Aram và nhóm của cậu ta đã lập nơi cư ngụ.

Nhưng điều đó chưa bao giờ là ý định của Selim hay anh trai cô ấy, và họ cũng không có đủ khả năng hay suối nước nóng để cạnh tranh với Nyohhira.

Thêm vào đó, điều quan trọng với họ là Selim, một người trong số họ, đang làm việc dưới quyền anh, và quan trọng hơn cả, là vị trí của Holo trong mắt họ.

Chỉ cần thế đã đủ để Aram đưa ra lời đề nghị:

“Liệu các nhà tắm ở Nyohhira có thể tiếp nhận khách hành hương đến từ làng của bọn tôi không?”

Lawrence đã chấp thuận đề nghị đó và báo lại cho hội các chủ nhà tắm ở Nyohhira.

Dù họ khá bảo thủ, nhưng không hề mù mờ trước lợi ích thương mại.

Họ hiểu rằng sẽ không xảy ra trường hợp cạnh tranh khách, và việc những vị khách hành hương cũng đến Nyohhira không phải một ý tưởng tồi. Ngoài ra, khách ở Nyohhira sẽ có thêm điều mới mẻ để trải nghiệm nếu ghé thăm làng của Aram. Dù các chủ nhà tắm thường khoe rằng họ có thể giúp khách dài ngày bớt buồn chán, ý tưởng của họ không nhiều. Thế nên, có thêm một địa điểm hành hương để khách đi chơi vài ngày thực sự là một thuận lợi.

Hội đồng đã nhất trí thông qua, nhưng có một vấn đề.

“Vậy là cần có một con đường?”

“Có đường mòn do thú vật tạo ra thì tốt, nhưng nếu tự tiện dùng chúng, anh sợ sẽ gây rắc rối với cư dân trong rừng.”

Holo khoanh tay, tai sói giật lia lịa, gầm gừ khe khẽ trong cổ họng.

Rừng có quy tắc riêng của nó, nên nếu ngây thơ mà nghĩ mọi thứ sẽ suôn sẻ thì sẽ rước hoạ vào thân.

Hơn nữa, việc dùng hình dạng sói khổng lồ để bắt ép người khác nghe lời vốn không phải phong cách của Holo.

“Nơi đó quá xa để con người đi được trong một ngày, nên bọn mình cần một túp lều nghỉ chân. Cũng sẽ phiền nếu gần đó có hang gấu hay đường đi của nai, đúng không? Anh nghĩ là em sẽ biết cách xử lý mấy chuyện đó.”

“Hnnnng…”

Holo rên lên, hít sâu một hơi, rồi đá chân một cách trẻ con.

“Tại sao không để Selim làm? Đám thú trong rừng sẽ hiểu nếu cô ấy nói mình làm dưới danh nghĩa của em thôi.”

Selim cũng là hiện thân của sói, nên không phải là không thể làm việc này.

Nhưng cô ấy là người không thể thiếu trong việc vận hành nhà tắm.

Từ sáng đến tối, cô ấy lo tất cả các việc lặt vặt, đến tối lại đeo cặp kính làm từ mảnh thuỷ tinh mài mà chép sổ sách dưới ánh nến.

Nếu anh nói thẳng suy nghĩ thật lòng, thì Holo—trong cái mùa dễ chịu này, chỉ nằm dài cả ngày tận hưởng gió mát—chỉ làm được một nửa việc của Selim mà thôi.

Dĩ nhiên, nói ra điều đó sẽ chẳng khác nào anh tự tay đốt nhà, nên anh phải vận dụng sự khôn khéo của một cựu thương nhân.

“Có lý do mà anh chỉ có thể nhờ em thôi.”

“…Hửm?”

Holo nhìn anh nghi ngờ, thách anh thuyết phục được cô.

Lawrence nghiêng người thì thầm với vẻ đầy ngưỡng mộ.

“Khách đến tắm ở Nyohhira chủ yếu là người lớn tuổi, đúng không? Mà nếu họ muốn đến làng của Aram thì phải đi bộ.”

“…Ý anh là muốn nói em cũng là người già à?”

Holo sống đã hàng trăm năm.

Một chiếc nanh ló ra nơi khoé miệng cô, nhưng anh vẫn giữ vẻ bình thản.

“Không. Lý do anh không thể để cô Selim làm là vì hình dạng đặc biệt của em.”

“…Hửm?”

Lawrence đặt tay lên má cô, khẽ chạm vào khoé mắt, rồi xoa đầu cô.

Khi ngoan ngoãn, tính cách trẻ con của Holo lại lộ rõ.

“Mở đường là chuyện cực kỳ phiền phức, chỉ riêng việc chọn hướng đi cũng đủ để gây tranh cãi rồi. Nếu giao cho hội đồng chậm chạp, chắc cả đời cũng không xong mất. Nhưng nếu em đi thử đường bằng chính cơ thể mình, thì phần lớn khách ở Nyohhira cũng có thể đi được thôi. Khi đó, em sẽ là người giải thích lý do con đường phải đi theo hướng đó.”

Holo nhìn bản đồ, rồi ngước lên nhìn anh với ánh mắt tội nghiệp mở to.

Lawrence dồn hết sức bình sinh vào câu nói tiếp theo.

“Em dễ thương hơn cô Selim nhiều. Em sẽ thuyết phục dân làng tốt hơn đó.”

“….”

Holo im lặng nhìn anh chằm chằm. Đôi mắt cô không có chút ánh sáng nào, rồi đột nhiên cô nhắm lại và quay đi.

“Hứm.”

Cô hừ nhẹ, môi bĩu ra, tai và đuôi thì đung đưa đầy vui vẻ.

“Cái anh giỏi nhất chính là mồm mép. Vậy thì em sẽ chịu thua trước lời mật ngọt của anh vậy.”

Anh cúi đầu cảm ơn Holo, người dù bày ra vẻ khó chịu nhưng đã đồng ý.

“Anh cảm ơn em.”

Holo liếc anh, hừ mũi, rồi nhắm mắt, quay vai về phía anh và hích nhẹ một cái.

Anh cười khổ rồi ôm lấy cô sói nhỏ đang làm nũng.

“Vậy? Để em vẽ một đường ở nơi em nghĩ là hợp lý nhé?”

“Không. Thợ săn làng, tiều phu và cả Aram sẽ đi cùng—em gia khảo sát cùng họ đi.”

Holo, đôi mắt lim dim trong vòng tay anh, bỗng chau mày khó chịu.

“Có người khác nữa à? Em không muốn để người ta thấy. Anh cũng vậy mà, đúng không?”

Holo không phải con người và không già đi. Suốt mười mấy năm qua ở làng, cô luôn cố gắng giấu điều đó, nhưng còn có lý do khác.

Holo vốn khá nhút nhát.

“Làm ơn đi. Giờ mọi người đã công nhận anh là người làng. Nếu em, vợ anh, làm tốt chuyện này, thì bọn mình cuối cùng sẽ được coi là một phần của họ đó.”

Holo là sói, vốn sống theo bầy đàn, nên rất nhạy cảm với cảm giác bị cô lập.

Và vì cô từng một mình cai quản vụ mùa trong làng mà không được ai biết ơn, cô hiểu rõ cảm giác bị xa lánh.

Biểu cảm của cô vẫn thực sự là không vui, nhưng cuối cùng cô cũng thở dài, vai trùng xuống.

“Hừm… Đúng là em lấy phải một ông chồng rắc rối mà.”

“Cảm ơn em. Anh trân trọng điều đó mà.”

Lawrence lại ôm cô lần nữa, đuôi cô nhẹ nhàng đung đưa.

“Ừm, thôi thì thỉnh thoảng đi dạo với anh cũng không tệ lắm.”

Lawrence cảm thấy áy náy khi nhìn thấy nụ cười trên môi cô khi cô nói.

Cô nhận ra điều đó và nhìn anh ngạc nhiên.

“H…hử?”

“Xin lỗi… Anh phải ở lại nhà tắm.”

Đôi mắt Holo hơi mở to, miệng cũng lập tức khép lại. Đôi tai sói của cô run nhẹ một cách buồn bã rồi cụp xuống.

Anh không biết nên nói gì với cô, vì rõ ràng cô đã vui vẻ thế nào khi nghe đến chuyện sẽ được cùng anh dạo chơi trên núi... Nhưng rồi anh cũng nhận ra cái đuôi cô đang phồng to lên, và thở dài.

“Này, ít nhất thì em cũng thôi trò diễn đó đi chứ?”

Dấu vết buồn bã biến mất khỏi gương mặt Holo nhanh như bong bóng vừa vỡ.

Thay vào đó là ánh mắt bình thản, sắc lạnh nhìn thẳng vào anh.

“Hứm. Thế còn anh, trong khi em bị đẩy lên núi thì anh tính làm gì?”

“Ít nhất thì cũng không phải nằm dài trên giường rồi nhâm nhi bia đâu.”

Holo biết rất rõ đó là một cú móc mỉa dành cho mình, nên liền trừng mắt nhìn anh đầy sát khí.

“Hay là em muốn làm phần việc của anh luôn? Việc này cần làm khá gấp đấy, nếu em làm tốt thì anh cũng không ngại.”

Rừ… V-việc của anh à?”

Công việc ở nhà tắm chia làm hai phần: những việc cần làm hàng ngày để giữ nhà cửa gọn gàng, và những việc theo mùa. Việc ở vế sau thì vô cùng phiền phức, chẳng hạn như thu gom và chế biến nguyên liệu để bảo quản lâu dài. Holo trông như đang cố nhớ lại đó là việc gì, nên anh gợi ý:

“Phơi khô bột lưu huỳnh ngoài nắng để làm quà tặng cho khách.”

“À.”

Trong nước suối có hòa tan một loại bột lưu huỳnh vàng nhạt. Nghe nói nó khác với lưu huỳnh thông thường, và có hiệu quả với bệnh đau khớp, sưng tấy và vết thương. Những vị khách tin vào dân gian thường thích hòa nó vào nước nóng rồi uống. Lawrence từng thử một lần trong quá khứ và kết quả là đi ngoài không ngừng, nên không thể nói là dám khuyên ai thử, nhưng đã là thương nhân thì phải đáp ứng nhu cầu của khách.

Tuy nhiên, lưu huỳnh tích lại ở nguồn suối phải được múc lên, cho vào chậu đất chưa nung để tách nước, rồi mang ra phơi khô dưới nắng. Đa số khách thường mua với số lượng lớn, nên việc chuẩn bị cũng vô cùng phiền phức. Đốt lửa lớn để hong khô thì lỗ vốn, nên họ chỉ làm vào mùa hè khi trời nắng đều. Và để chuẩn bị cho việc đó cũng chẳng dễ gì.

Bột lưu huỳnh sau khi tách nước vẫn còn ẩm, rất nặng, và việc cạo sạch khối đã đông cứng ra khỏi chậu là việc khá gian truân. Sau khi cho lên mảnh vải lanh, họ phải dùng gậy đập cho vỡ nhỏ rồi tản ra, khi khô thì lại gom lại, làm đi làm lại nhiều lần.

Chì cần đến lần thứ ba như thế là Holo sẽ bắt đầu than vãn cho xem.

Holo cân đo thiệt hơn trong đầu khi anh nhìn chằm chằm vào cô, rồi bỗng nở một nụ cười và nói:

“…Thôi thì em cũng là người của nhà tắm này. Em phải cố gắng để trở thành người bạn của dân làng vậy.”

Xem ra cô đã đi đến kết luận rằng thà đi dạo trong rừng còn hơn.

Lawrence trừng mắt nhìn cô lạnh lùng, còn Holo thì trừng mắt lại, như thách anh dám cãi.

Anh nhún vai, thở dài.

“Anh sẽ bảo cô Hanna chuẩn bị món gì ngon ngon cho em, nên anh trông cậy vào em đấy.”

Ngay lập tức, cô véo vào mu bàn tay anh.

“Đồ ngốc. Anh tưởng chỉ cần lấy đồ ăn ra dụ là em sẽ đồng ý hả?”

“Vậy là em không muốn à?”

“Em đâu có nói vậy.”

Holo hừ mũi một tiếng, còn anh thì chỉ biết cười khổ.

~~~

Ngày trước, Lawrence từng nhiều lần buộc hành lý lên lưng Holo khi cô ở dạng sói, nhưng việc buộc đồ lên người cô lúc mang hình hài con người lại là điều hiếm thấy. Anh đặt một chiếc ba lô chứa đồ viết và bữa trưa lên người cô, rồi buộc dây chặt lại để không gây vướng víu khi đi đường núi.

Tiếp theo, vì lần này cô sẽ đi cùng dân làng, họ cần phải che giấu đôi tai và chiếc đuôi của cô. Tai thì có thể giấu bằng mũ trùm, nhưng cái đuôi lại là vấn đề chính.

Như thành ngữ có nói, nơi tốt nhất để giấu cây là đem vào trong rừng, họ quyết định dùng một dải lông thú bồng bềnh để ngụy trang. Dù là mùa hè, trong những khu rừng rậm rạp ánh nắng không chiếu tới vẫn còn khá lạnh, nên cách này rất phù hợp.

Việc còn lại là đặt trọn niềm tin vào hành động và sự khéo léo ăn nói của Holo nếu chẳng may có ai nghi ngờ.

“Anh trông cậy vào em đấy.”

“Ừm.”

Holo, trong bộ đồ chuẩn bị cho việc ra ngoài, trông không hề khó chịu mà còn có vẻ khá phấn khởi.

Khi chuẩn bị rời đi, cô kiễng chân, đưa má ra chờ đợi, và Lawrence thở dài rồi đặt một nụ hôn lên má cô.

“Ê-heh. Nhớ làm một chàng trai ngoan đấy nhé.”

Lawrence cười nhếch mép—Ai mới là người cô đơn, hay bám lấy ai đây chứ?—và Holo nhe răng cười thích thú, rồi bước xuống dốc rời khỏi nhà tắm. Chẳng mấy chốc, cô gặp nhóm thợ săn của làng, và Aram, trong bộ tu phục, cúi đầu chào thật sâu, rồi họ cùng nhau lên đường. Cuối cùng, Holo còn vẫy tay thật mạnh để chào tạm biệt trước khi khuất dạng.

Không giống như khi họ tiễn Myuri trong chuyến đi làm việc vặt đầu tiên của cô bé, lần này trên gương mặt Lawrence hiện lên một nụ cười lặng lẽ, có phần xúc động.

“Thưa ngài Lawrence?”

Một giọng nói vang lên.

Là Selim, cô gái làm việc trong nhà tắm, đang đứng phía sau anh, cũng đến tiễn Holo.

“Lẽ ra em nên là người đi thì hơn…”

Selim, với mái tóc dài đến vai màu xám nhạt và bộ lông trắng tuyệt đẹp khi trở về hình dạng sói, trông đầy áy náy. Nhưng điều đó cũng cho thấy cô ấy đã dần quen với vị trí của mình.

Vì Holo từng trêu chọc anh rằng anh thích mấy cô gái trông tội nghiệp nhất, nên Lawrence luôn phải thận trọng khi cư xử với Selim.

“Không cần đâu. Gần đây cô ấy chẳng làm gì cả. Nếu không có cô, Selim, nhà tắm này đã ngừng hoạt động rồi. Cô cũng từng thấy cảnh cô ấy nằm ngủ trưa rồi đúng không?”

Selim rụt vai lại, trông như thể nhớ lại một hình ảnh gì đó.

Cô suýt gật đầu, nhưng nhanh chóng lắc đầu phủ nhận.

“Kh-không đâu, em thích làm việc mà. Và cô Holo cũng sẵn sàng giúp đỡ mỗi khi cần thiết nữa.”

“Đó là vấn đề đấy. Cô ấy nghĩ chỉ cần không chìm thuyền là được rồi. Cô ấy thiếu đi động lực đều chèo nhanh hơn.”

Cứ như thể cô ấy muốn nói chính anh mới là người kỳ lạ khi cần đến sự hỗ trợ ấy.

Selim nở một nụ cười khó xử trước tiếng than thở của Lawrence, rồi nhẹ nhàng nói:

“Hay đó lại là bí quyết để sống lâu nhỉ.”

Selim thật tốt bụng, luôn biết cách dùng nụ cười để giữ thể diện cho cả hai bên.

“Có thể đúng. Cán cân nào mà đặt quá nhiều chì lên một bên thì cũng sẽ nghiêng mất thôi.”

“Vâng.”

Cô nở nụ cười rạng rỡ, và anh cũng đáp lại bằng một nụ cười. Nếu Holo mà ở đây, chắc chắn cô sẽ trừng mắt, nhưng Lawrence ước gì Holo học được đôi chút từ Selim thật thà, người chưa bao giờ dùng nụ cười như một vũ khí.

“À, ngài Lawrence, em có một báo cáo muốn trình bày.”

Khi họ cùng trở về nhà tắm sau khi tiễn Holo, Selim lên tiếng.

“Em đã kiểm tra lại tất cả khoản chi tiêu đêm qua.”

“Có sai sót à? Đừng nói là thâm hụt nhé?”

Từ sau khi có kính đeo, khả năng đọc viết của Selim đã cải thiện đáng kể, đến mức anh có thể giao cho cô những công việc mà trước đây chỉ dám giao cho Col.

Đặc biệt là những việc liên quan đến kế toán, Selim rất phù hợp, vì cô không hấp tấp mà làm việc cẩn thận, đều đặn từng việc một.

“Không, là chuyện tiền xu ạ.”

Vừa nghe đến đó, Lawrence lập tức hiểu ngay vấn đề.

“À… tiền thối lại…”

Anh thở dài nhẹ, còn Selim cúi mặt xin lỗi.

“Em đã cố dùng đủ mọi loại bạc để thanh toán đơn hàng, nhưng chúng ta không đủ tiền lẻ…”

“Không phải lỗi của cô đâu, Selim.”

Lawrence lên tiếng trấn an và đưa tay gãi đầu.

“Chuyện đó cũng được nhắc đến trong cuộc họp rồi. Giao thương năm nay bùng nổ khắp nơi, nên thiếu tiền xu là chuyện chung rồi.”

“Vậy… nghĩa là sẽ không có tiền phụ cấp trong một thời gian ạ?”

Selim nhún vai, ngẩng mặt lên nhìn anh bằng đôi mắt to tròn, cứ như thể đang cố khiến anh cảm thấy tội lỗi vì không chuẩn bị được tiền xu để thanh toán.

“Nếu ta dùng ngân phiếu cho các giao dịch lớn thì… Vấn đề còn lại chỉ là chi tiêu nhỏ và tiền lẻ cho khách, đúng không?”

Yêu cầu đổi tiền từ khách là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một trong những cách giải trí của họ trong những chuyến ở lại dài ngày là những buổi tiệc với các vũ công và nhạc công. Những ông già rảnh rỗi, háo sắc thường dùng xu đồng nhỏ dính lên người các vũ nữ đang đẫm mồ hôi như một kiểu ban thưởng và sống nhờ những nụ cười đáp lại từ họ.

Cũng có người bán rượu và đồ ngọt tự làm đi khắp làng Nyohhira, nên việc có sẵn tiền lẻ để mua đồ cũng rất quan trọng. Khách có mang theo người hầu cũng cần tiền tiêu vặt cho họ.

Không có tiền lẻ sẽ gây bất tiện đủ đường cho nhiều kiểu người.

“Tôi sẽ cố nghĩ cách. Trong lúc đó, cô giúp tôi lo phần còn lại nhé.”

“Vâng ạ.”

Selim là cô gái dịu dàng, nên chẳng tỏ ra khó chịu chút nào, nhưng cô ấy sẽ là người đầu tiên phải nghe lời phàn nàn của khách nếu không có tiền lẻ. Lawrence cũng thấy áy náy vì điều đó.

Anh nhìn theo khi cô ấy cúi đầu chào rồi quay lại làm việc, sau đó thở dài.

“Ý tưởng… Ý tưởng là gì đây, hử?”

Lawrence chống tay vào hông, ngước nhìn trời.

Nhà tắm của anh nằm sâu trong vùng núi Nyohhira, nơi vốn đã hẻo lánh rồi. Thị trấn gần nhất cũng phải mất vài ngày đi thuyền hoặc đi đường núi mới tới. Mà vấn đề về tiền xu lần này thì đến các thành phố lớn còn lúng túng, huống hồ một chủ nhà tắm nơi rừng núi.

Anh nghe thấy âm nhạc và tiếng cười đùa rôm rả của khách vọng từ bồn tắm bên kia toà nhà.

Giữ cho bầu không khí vui vẻ ấy luôn hiện diện chính là công việc của anh, người làm chủ nhà tắm.

Đây là mái nhà mà anh và Holo từng mơ đến. Không thể từ bỏ được.

“Nhưng mơ mộng trong thế giới này cũng chẳng dễ dàng gì, nhỉ?”

Lawrence cười khẽ, lẩm bẩm rồi quay lại với công việc.

~~~

Hội đồng làng họp mỗi tháng một lần vào mùa bận rộn như mùa hè và mùa đông, và hai lần vào mùa thấp điểm. Ngoài ra, họ cũng có thể tự triệu tập họp nếu có vấn đề phát sinh.

Mặc dù các buổi họp này thường nhanh chóng biến thành tiệc rượu đối với các ông chủ nhà tắm, nhưng dạo gần đây, khi hội họp, mọi người đều khá nghiêm túc.

“Được rồi, về con đường đến Làng Thánh Selim, mọi chuyện đang tiến triển thuận lợi.”

Vì vợ anh, Holo, là người tham gia vào việc khảo sát đường, Lawrence đã báo cáo lại tình hình. Không ai trong các ông chủ nhà tắm phản đối việc xây một con đường mà một cô gái như Holo có thể dễ dàng đi lại.

Cuối cùng, dường như họ đã thống nhất gọi thị trấn của Aram là Làng Thánh Selim. Họ chẳng còn cách nào khác, vì khi tái hiện phép màu của một vị thánh hóa thành bạc khi an nghỉ trong lòng đất, Selim đã dùng chính tên mình trước mặt tổng giám mục.

Tuy nhiên, không ai nghĩ rằng thánh nữ đó lại chính là Selim đang làm việc tại nhà tắm của Lawrence.

“Hy vọng mọi người không phiền nếu chúng ta để việc phân bổ chi phí xây đường, bán gỗ dọn dẹp, và chi phí dựng nhà nghỉ lại sau.”

“Không phản đối,” các ông chủ nhà tắm khác đồng thanh.

Mặc dù không bận như mùa đông, nhưng nói về tiền nong vào mùa hè, khi người qua lại đông đúc, chỉ khiến thêm rắc rối. Vào mùa cao điểm, chẳng nhà tắm nào rõ ràng là mình kiếm được bao nhiêu.

“Tiếp theo trong chương trình nghị sự…”

Vị chủ tọa ngập ngừng.

“…là vấn đề thiếu tiền lẻ nghiêm trọng đang diễn ra.”

“Đám người đổi tiền ở Svernel nói gì?”

Ai đó hét lên hào hứng.

Svernel là thị trấn được xem là đầu mối thương mại của các khu vực phía bắc này, và Nyohhira phụ thuộc vào đó để phân phối hàng hóa. Mỗi khi dư hoặc thiếu tiền, họ luôn liên hệ với những người đổi tiền ở Svernel trước tiên.

“Có khi họ lại yêu cầu chúng ta giao thêm tiền cho họ chứ không thèm cho ta gì đâu.”

“Dù mùa xuân rồi chúng ta đã mang bao nhiêu tiền đến đó ư?”

Khi mùa đông bận rộn kết thúc, các nhà tắm ở Nyohhira thường mang lượng lớn tiền nhận được đến Svernel. Vì khi xuân đến, mọi công việc bị hoãn mùa đông bắt đầu dồn dập, giá trị đồng tiền cũng tăng, nên mang tiền đi bán vào thời điểm đó có thể sinh lời tốt.

“Còn Công ty Debau thì sao?”

Câu hỏi đó hướng về Lawrence. Công ty Debau, tập đoàn nắm giữ ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế miền bắc và cũng là nơi phát hành những đồng tiền đáng tin cậy nhất, có liên hệ sâu sắc với anh từ thời còn là thương nhân lưu động.

“Tôi đã gửi thư rồi, nhưng họ nói rằng việc đúc tiền vào mùa hè rất khó vì các mỏ đều bị ảnh hưởng bởi băng tan.”

Dù có công cụ đúc tiền, nếu không có nguyên liệu thì cũng chẳng thể làm gì.

Mặc dù Công ty Debau có mỏ riêng, sản lượng chắc không đủ.

“Giờ nơi nào có dụng cụ đúc tiền cũng đang phát điên vì bị tranh giành nguyên liệu thôi. Ai đúc được tiền mới lúc này sẽ giàu to.”

“Ồ, đã lâu lắm rồi tôi chưa thấy đồng bạc sáng loáng nào đây!”

“Thương nhân đến đây dạo này toàn dùng ngân phiếu thôi, rồi cứ than phiền chẳng còn cảm giác hứng thú khi buôn bán gì nữa.”

Ngân phiếu là một loại giấy tờ với số tiền được ghi lên tren đó. Tuy tiện lợi vì không cần mang theo từng đồng nặng nề, nhưng rốt cuộc nó cũng chỉ là một tờ giấy, bất kể giá trị bao nhiêu. Lawrence hiểu cái cảm giác vô giá trị thực đó rất rõ.

“Nếu chúng ta có thể dán ngân phiếu lên các vũ công như tiền thưởng thì tốt nhỉ!”

Cả phòng bật cười trước trò đùa.

“Dù ta nói với họ đây là tiền thay thế thì mấy cô gái cũng chẳng cười nổi đâu…”

Dù tiền bạc có xấu cỡ nào, thì hình dạng của nó đã khiến mọi người mặc định rằng nó có giá trị.

“Vậy thì cách duy nhất là dụ dỗ các vũ công, nhạc công, thương nhân và người buôn bán tiêu hết số tiền họ kiếm được ở đây, rồi chúng ta gom lại vậy.”

Nhưng họ đều rất sắc sảo, nên luôn mang tiền đi đến nơi sinh lời cao nhất.

Tiếc là Nyohhira không nằm trong số đó, thế nên tiền rồi cũng sẽ rời khỏi làng thôi.

“Hay là chính chúng ta nhảy múa hát hò để họ thưởng?”

Trò đùa đó khiến cả phòng lại cười vang.

Nhưng tiếng cười lần này xen lẫn sự bất lực, cho thấy họ đã thật sự bế tắc trước tình trạng thiếu tiền lẻ.

“Có lẽ chúng ta chỉ còn cách cắn răng chịu đựng thôi.”

Chủ tọa nói với vẻ mệt mỏi, và tất cả ông chủ nhà tắm đồng loạt thở dài.

Đúng lúc bầu không khí trùng xuống, có một người lên tiếng:

“Dù chúng ta không thể hát hay nhảy…”

Người vừa nói là chủ nhà tắm nổi tiếng với những bữa ăn ngon nhất Nyohhira.

“Chúng ta có một sự kiện hoàn hảo để gom tiền lẻ rồi còn gì? Không phải vậy sao?”

Cả phòng bắt đầu xì xào: Có à?

Lawrence vẫn đang ngơ ngác thì ông chủ đó quay sang nhìn thẳng anh.

“Là ý tưởng của anh đấy, Lawrence.”

“Hả?”

Tất cả ánh mắt trong phòng dồn về phía anh.

“Cái đám tang giả của anh ấy.”

Máu dồn lên mặt Lawrence không phải vì ngượng mà vì mừng rỡ.

“À, cái chuyện nằm vào quan tài khi còn sống… ý ông là chuyện đó à?”

“Phải rồi, nhớ ra rồi. Ý tưởng đó thú vị mà. Sau đó sao rồi?”

Mọi người thường khó nói những lời thật lòng, ngay cả với người thân, trừ khi đã cận kề cái chết. Vậy nên Lawrence từng nghĩ ra một sự kiện là giả vờ tổ chức tang lễ cho người còn sống, để họ có thể bày tỏ những điều xấu hổ thường không dám nói.

Vì khách thường chỉ tụ về Nyohhira vào mùa đông và hè, anh muốn tổ chức sự kiện này vào mùa xuân và thu để lấp khoảng trống.

Họ đã thử tổ chức một lần và không tốn mấy chi phí, lại được đón nhận khá tích cực, nhưng các ông chủ nhà tắm vốn bảo thủ và ngại rắc rối nên chẳng ai muốn chịu trách nhiệm, thế là kế hoạch lụi tàn.

Lawrence từng nghĩ đến việc tự mình lo hết, nhưng anh là thành viên mới nhất của làng, và nếu quá nổi bật thì có khi lại phản tác dụng.

Rồi trước khi kịp nhận ra, anh đã quên mất nó, để mà bây giờ anh cảm thấy như được hồi sinh.

“Ta có thể bán nến làm đồ cúng, rồi truyền tay thùng quyên góp, ép mấy nhạc công, thương nhân bỏ vào ít tiền lẻ. Nhớ nhấn mạnh là chỉ cần ít thôi vì chỉ cần vui vẻ là được. Tất nhiên, ai bỏ đồng bạc thì càng tốt.”

Mọi người đều gật đầu đồng tình.

Thế rồi vị chủ tọa vỗ tay.

“Quả là một công đôi việc. Nếu hè đã tệ như này, thì đông còn căng hơn nữa cho xem. Nên tuy là giờ thì chưa làm được, nhưng tôi thấy bắt đầu bàn bạc việc tổ chức cho mùa thu thì không phải ý tồi. Thế nào mọi người?”

Thông thường, hội đồng này chẳng bao giờ thống nhất được chuyện gì, nhưng ở một nơi nhỏ như vậy, có những lúc mọi thứ được quyết rất nhanh. “Tán thành,” nhiều người giơ tay, và Lawrence chứng kiến khoảnh khắc ý tưởng của mình được làng chấp nhận.

“Thôi, ta sẽ tạm dừng tại đây. Giờ tập trung vào Làng Thánh Selim trước đã.”

Vẫn còn cả núi việc phải làm.

Khi hội trường rộ lên tiếng bàn tán, Lawrence quay sang nhìn ông chủ nhà tắm đã đưa ra gợi ý.

Người đó cũng nhìn anh và chỉ nhún vai như thể hiểu rõ lý do.

Ông ấy là người luôn nghĩ ra những món ăn sáng tạo để phục vụ khách, nên có lẽ chỉ đơn thuần cảm thấy đây là một ý tưởng hữu ích mà nói ra thôi chứ không phải vì Lawrence.

Dù sao thì Lawrence cũng cảm thấy vui. Điều đó đồng nghĩa với việc anh lại tiến thêm một bước vào vòng tròn của ngôi làng này.

“Thôi, ta kết thúc ở đây và đi ăn mừng nào. Tôi đang tò mò không biết mẻ rượu táo đầu mùa năm nay thế nào đây.”

Các chủ nhà tắm khác vỗ tay tán thành, và nhanh chóng chuẩn bị tiệc.

Tuy không bận bằng mùa đông, nhưng nhiều người trong hội này vẫn mong chờ dịp uống rượu từ giữa ban ngày trong cái hè rộn ràng như thế này.

“Hè này ta hái được nhiều nấm lắm. Này, than củi sao rồi?!”

Mọi người bắt đầu đem đồ ăn và thùng rượu ra.

Thông thường, Lawrence sẽ cẩn thận hơn trong những buổi tiệc, nhưng hôm nay thì có vẻ anh có thể tận hưởng thật sự.

Có thể Holo sẽ giận nếu anh về nhà trong tình trạng mặt đỏ như gấc, nhưng anh nghĩ, chỉ hôm nay thôi, có lẽ cô sẽ bỏ qua.

~~~

Dù vấn đề tiền lẻ vẫn lơ lửng như một đám mây đen, công việc khảo sát con đường dẫn đến làng của Aram lại tiến triển rất thuận lợi.

“Và rồi, mỗi lần em ngồi xuống, họ lại cắt cỏ tươi lót cho em, còn mỗi khi qua đoạn đất cao, mấy người đó lại bế em đi. Có khi còn dựng một cái kiệu đơn sơ bằng cành cây rồi để em ngồi lên đó nữa.”

Holo nằm sấp, đuôi phe phẩy vui vẻ, cất tiếng líu lo trong khi Lawrence đang xoa bóp chân cho cô.

“Thật sự em cảm thấy mình như một công chúa vậy. Đôi khi được cưng chiều như thế cũng không tệ nhỉ.”

Và người đang cặm cụi phục vụ em như công chúa là ai vậy chứ? Lawrence đã định hỏi thế, nhưng rồi lại nuốt lời. Bởi vì Holo có vẻ rất hòa hợp với Aram và các thợ săn đi cùng cô trong chuyến khảo sát đường, nên không có lý do gì để làm cô cụt hứng lúc đang vui vẻ như vậy.

“Ban đầu em còn tưởng cái cậu Aram đó là đứa bé hỗn láo, nhưng cậu ta cũng ra trò đấy. Mũi rất thính trong rừng. Các thợ săn ấy cũng rất khá đối với tiêu chuẩn loài người. Họ biết rõ luật lệ trong rừng. Không có em thì chắc cũng không đến nỗi rắc rối gì.”

Hiếm lắm mới thấy Holo khen người khác. Có lẽ nguyên nhân cho những đánh giá đó là vì hôm nay khi cô về từ chuyến khảo sát, bên hông đeo ba con thỏ, còn trên lưng là một mớ nấm nâu ngon lành to gần bằng khuôn mặt cô.

“Vậy chắc là có thể mở đường được rồi nhỉ?”

“Ừm… Oohh, mạnh nữa đi…”

Holo chắc chắn đã mệt rã rời vì đi bộ suốt, nên khi anh ấn mạnh vào gan bàn chân, lông đuôi cô dựng đứng cả lên, rồi cô khẽ rên một tiếng khoái chí.

Hooh… Thế còn anh? Anh sao rồi?”

Holo vẫn nằm im sấp bụng, ôm cái gối và hỏi.

“Anh sao là sao?”

“Không phải hôm nay có cuộc họp sao?”

Thường thì cô chẳng mấy khi hỏi anh về mấy buổi họp hội đồng. Vì chúng hay kết thúc bằng việc anh uống quá chén. Anh đang tự hỏi liệu mùi rượu còn vương đến mức đó không thì bị đuôi của Holo quất nhẹ vào tay.

“Đồ ngốc. Em biết ngay khi anh có vẻ phấn chấn mà.”

Cứ như thể cô có thể nhìn thấu mọi chuyện, dù mắt vẫn nhắm vậy.

Nhưng vì đúng là cô thật sự nhìn thấu, anh bắt đầu chuyển qua xoa nhẹ bắp chân cô như một lời xin lỗi vì đã xem thường cô.

“Ừ, hôm nay có chuyện rất tuyệt. Em nhớ cái đám tang giả mà cả hai từng lên kế hoạch chứ? Có khi nó sẽ thật sự được tổ chức đấy.”

“Ồ hô.”

Và nó có thể giải quyết vấn đề tiền lẻ của họ.

Nếu anh có thể giải quyết được một trong những rắc rối lớn của làng, thì những người xung quanh sẽ thật sự công nhận anh.

“Nhờ có em giúp, có lẽ anh cuối cùng cũng sẽ trở thành một thành viên thực sự của ngôi làng này rồi.”

“Ừm. Chỗ đó… chỗ đó… tốt… lắm…”

Khi anh vừa sung sướng vừa đổ dồn lòng biết ơn vào đôi chân của Holo, đuôi cô khẽ nghiêng sang bên phải rồi bất động.

Anh ngẩng lên nhìn thì thấy cô đã ngủ mất rồi, tiếng ngáy khe khẽ đang cất lên từ chiếc miệng mở hờ của cô.

Đáng ra lúc này vẫn còn sớm, vẫn là lúc Holo thường nhâm nhi cốc bia và chen mũi vào đống giấy tờ của anh, nhưng hôm nay cô ăn tối no nê mà lại chưa uống mấy. Có lẽ đi dạo quanh núi bằng dáng người thường đã khiến cô thư thái hơn anh tưởng.

Anh nhẹ nhàng vuốt tóc Holo và kéo chăn đắp cho cô. Ban đầu anh còn định làm nốt việc viết lách, nhưng nhìn cô nằm thở đều đặn như thế, anh chẳng còn tâm trí nào nữa.

Anh thổi tắt nến rồi rón rén chui vào giường để không đánh thức Holo, nhưng rồi nhận ra cô đã chiếm luôn cả cái gối.

Thôi nào, anh thầm nghĩ, rồi nhắm mắt lại và cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

~~~

Dù có rất nhiều chuyện xảy ra, nào là thiếu tiền lẻ, nào là khảo sát đường, thì thời gian vẫn trôi khi họ chỉ phải tập trung vào công việc trước mắt. Hình ảnh Holo mỗi sáng khoác túi rời nhà đã trở nên quá quen thuộc, rồi tối về, hai người lại kể cho nhau nghe chuyện ban ngày trong lúc chuẩn bị ngủ.

Về chuyện tang lễ, vì đang trong mùa bận, nên hiện tại đang được tạm gác lại đến đầu mùa thu, nhưng vấn đề tiền lẻ thì ngày càng trầm trọng. Trong các cuộc trò chuyện thường ngày giữa các ông chủ nhà tắm, bắt đầu có người nhắc đến chuyện mời thợ đá đến làm tiền bằng đá, hay thử xuống núi đến các thị trấn gom tiền lẻ.

Dù phương án đầu có vẻ khó khả thi, thì ý sau vẫn mang lại chút hy vọng.

Tuy không bận như mùa đông, nhưng mùa hè cũng không rảnh rỗi, nên vấn đề là ai trong làng sẽ đi gom tiền, nhưng Lawrence linh cảm rằng kiểu công việc này thể nào cũng rơi trúng đầu mình.

Và thế là sáng hôm đó, khi nhìn Holo rời nhà như thường lệ, anh đứng đó, vừa lo lắng nghĩ xem mình có thể làm gì, vì nếu thực sự bị giao nhiệm vụ thì có lẽ anh sẽ phải tạm đóng cửa nhà tắm.

Cô dường như khá thích thú với việc đi dạo quanh núi, do hôm nay cũng mang theo một chiếc túi, chắc để hái nấm hoặc hạt dẻ gì đó. Anh tưởng tượng cảnh cô tham lam nhét đầy túi rồi về nhà với đôi chân run rẩy vì quá nặng. Nghĩ vậy, anh tự hỏi có nên chuẩn bị chút rượu ngon cho cô không, và tiếp tục phơi bột lưu huỳnh từ suối khoáng ở khu đất trống trước nhà tắm.

Gần đến giờ ăn trưa, anh ngẩng lên.

Holo hiện ra từ sau một gốc cây, và trong khoảnh khắc, anh nghi ngờ cả mắt mình.

“…Hử? Gì vậy?”

Sẽ thật dễ thương nếu cô về giữa trưa chỉ vì nhớ anh, nhưng họ đã sống với nhau đủ lâu để anh biết: vẻ mặt cô trông thật u ám.

Holo bước ra khỏi rừng không nói lời nào, đứng trước mặt anh rồi thở dài.

“Chuyện đã trở nên phức tạp rồi.”

Cô càu nhàu, rồi ánh mắt bất ngờ hướng về phía sau lưng anh. Lawrence quay lại, và ở đó Selim đang mang rổ đi thu gom chỗ bột lưu huỳnh đang phơi nắng.

“Aram và mấy người kia vẫn đang canh gác trên núi. Chỉ mình em về để gọi người giúp thôi.”

Mắt Selim mở to khi nghe thấy tên anh trai mình.

Lông mày anh nhíu lại ngay khi nghe từ “canh gác”.

“Có chuyện gì nguy hiểm sao?”

Làng Nyohhira nằm sát vùng biên, nên những kẻ cần tránh ánh mắt con người thường hay trốn trong các khu như thế này.

“Họ nói đó là chuyện bất khả thi.”

“…Hả?”

Phản ứng nước đôi đó càng khiến anh bối rối, và Holo lại thở ra một hơi dài, sâu.

“Ước gì nhóc Col ở đây lúc này…”

Vết nhăn giữa hai chân mày anh càng sâu khi nghe đến cái tên bất ngờ ấy.

“Col?”

Col là người mà anh và Holo gặp hơn mười năm trước khi còn lang bạt buôn bán, và cậu đã hỗ trợ nhà tắm rất lâu.

Anh chỉ có thể nghĩ đến một điều duy nhất nếu Holo nói cần Col giúp. Anh hạ giọng:

“Đừng nói là… di chứng từ mấy trò quái ác của Myuri?”

Con gái duy nhất của họ, Myuri, là một đứa trẻ bướng bỉnh thích chơi khăm. Anh đã không thể đếm xuể những trò nghịch ngợm khiến dân làng ngất xỉu nếu biết ra.

Myuri luôn xem Col là anh trai và quấn lấy cậu, nên nếu có rắc rối gì thì thường là Col phải giải quyết. Đó là điều anh nghĩ đến, nhưng khi thấy nụ cười méo xệch của Holo, anh biết mình đã đoán sai.

“Ý anh là vì Col và Myuri hợp nhau quá hả?”

Anh giật mình khi bị Holo trêu, và có vẻ như Holo cuối cùng cũng đã vượt qua nỗi bối rối ban đầu.

“Không phải thế. Mà là ở thứ nhóc Col có. Mớ kiến thức khó nhằn của thằng bé ấy.”

“Thứ Col có… về Giáo hội sao?”

Holo đã cho rằng chuyện ấy là phức tạp.

Lawrence đặt hai tay lên đôi vai nhỏ bé của vợ mình và hỏi với tư cách chủ nhà tắm.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

Thứ Holo sắp kể, thực sự là một chuyện phức tạp.

~~~

Anh không có thể lực mạnh mẽ, cũng không đủ tiền để giải quyết mọi vấn đề.

Những gì Lawrence có, chính là kiến thức từng tích lũy khi làm thương nhân, cùng rất nhiều mối quan hệ.

“Thành thật xin lỗi vì đã gọi cha gấp thế này.”

“Ôi không, tôi luôn biết ơn những gì anh làm, thưa anh Lawrence.”

Bước đi trên con đường núi, râu và tóc vẫn còn ướt đẫm, phất phơ theo gió là một vị trưởng tu viện có thân hình đầm thấp. May mắn thay, lúc này ông vẫn chưa uống chút rượu nào, nên sau khi được mời vào tắm và thư giãn, họ đã kể cho ông nghe đầu đuôi câu chuyện rồi mời ông đi cùng.

“Và, xin thứ lỗi khi phải nhắc lại cho cha, nhưng…”

Lawrence vừa đi vừa nói, nhưng vị trưởng tu viện giơ tay, ra hiệu rằng anh không cần phải nói tiếp.

“Tôi hiểu rõ mà. Đây là Nyohhira, nơi ánh mắt của Chúa chẳng thể xuyên qua làn hơi nước của nhà tắm. Mà đúng ra, tôi mới là người phải biết ơn anh không ngừng.”

Holo trừng mắt nhìn hai người đàn ông đang trò chuyện một cách công khai như thể chẳng có gì đáng ngại.

Vị trưởng tu viện râu trắng này là người đứng đầu một tu viện lớn tên Harivel và ông đã đến đây vào cuối mùa xuân để nhờ Lawrence một việc lạ lùng.

Nói ngắn gọn thì làn sóng cải cách của Giáo hội đang thổi qua các thị trấn, khiến những nhà thờ và tu viện sở hữu nhiều tài sản bị đem ra làm vật tế. Và vì vậy, ông đã nhờ Lawrence giúp phân phát tài sản của tu viện cho những người thật sự cần thiết.

Tất nhiên, “phân phát cho người cần” thực chất là “bán cho người trả giá cao nhất”.

Với hiểu biết của một thương nhân từng dọc ngang đó đây, với mạng lưới rộng khắp, và trí nhớ sắc bén về luật lệ các giới thương buôn, Lawrence đã quyết định giúp ông này hết sức mình.

Và giờ anh cần nhờ ông một việc.

Đó là chuyện mà Holo và những người khác tình cờ phát hiện khi đi khảo sát đường.

Họ đã nhờ vị trưởng tu viện tới kiểm tra.

“Các người tìm thấy một xác chết trong núi, đeo một huy hiệu khả nghi đúng không?”

Vị trưởng tu viện hỏi trong lúc rảo bước trên đường mòn. Lawrence đáp:

“Có vẻ như thi thể đã ở đó từ lâu rồi. Người ấy chết trong một hang đá rất nhỏ.”

Dù Lawrence không kể hết mọi chi tiết, nhưng ông vẫn hiểu được phần nào câu chuyện.

“Nguyện Chúa thương xót linh hồn ấy,” vị trưởng tu viện thì thầm. “Thực ra, có rất nhiều dị giáo đồ chạy trốn về phương Bắc. Và bởi vì các điều tra viên cũng lần theo dấu vết đến tận đây, nên họ thường cực kỳ cảnh giác ở nơi công cộng. Tôi và các huynh đệ đều tin rằng, nếu Nyohhira bị dính vào chuyện dị giáo và Giáo hội phải can thiệp, thì chúng tôi chẳng còn lý do gì để sống nếu chẳng thể tắm ở đây nữa.”

“Cảm ơn cha.”

Vì nơi đây cách thị trấn gần nhất đến mấy ngày đường, và dân làng xung quanh sẽ phát hiện ngay nếu ai đó đi lạc, nên chắc chắn người kia phải có lý do mới tìm đến vùng núi này.

Hành lý của thi thể có một biểu tượng lạ, nên rõ ràng không phải người đi đường bình thường. Holo và những người khác cũng không thể đưa ra kết luận nào, lại càng không thể đào hố chôn người rồi giả vờ chưa từng thấy. Sau nhiều đắn đo, họ quyết định để Holo quay lại làng tìm người đáng tin cậy.

Họ nghỉ chân dọc đường, và sau một đoạn nữa thì Aram cùng một thợ săn mang cung ra đón họ. Khi đến nơi, một người tiều phu khác đã nhóm lửa bên rìa bụi rậm.

Lawrence ngạc nhiên vì nơi này khá gần làng. Đường vào hang chỉ là một khe hẹp trong vách đá phủ đầy dương xỉ, nếu không được chỉ thì chẳng thể nhận ra.

“Cẩn thận kẻo trượt chân.”

Theo lời dẫn của thợ săn, Lawrence và những người khác luồn qua khe đá, trượt xuống hang.

“Mm-hmm… Ha-ha, cứ như đang xuống địa ngục vậy.”

Vị trưởng tu viện dù thân hình đồ sộ nhưng vẫn xuống được an toàn.

Từ ngoài nhìn vào hang tối om, nhưng bên trong lại khá sáng nhờ ánh sáng len lỏi qua khe đá.

“Đúng là chỗ ẩn náu lý tưởng.”

Bên trong hang rộng cỡ một nhà kho nhỏ, mát mẻ dù đang vào mùa hè. Ngay khi họ ngửi thấy mùi đá ẩm đặc trưng, liền thấy một dòng suối nhỏ chảy len lỏi trong góc.

Nước không sâu, và thi thể hiện ra ngay trước mắt.

Với tư cách là người của Giáo hội, vị trưởng tu viện nắm lấy thánh giá đeo trên cổ và cầu nguyện.

“Nguyện Chúa ban an nghỉ cho linh hồn lang bạt này.”

Thi thể không bị sâu bọ xâm thực, có lẽ chỉ là bị mất nước. Dáng ngồi tựa vào tường, chân xoạc ra, khiến Lawrence liên tưởng đến một ông già đốt than đang uống bia rồi ngủ gục tại chỗ.

Hồi còn là thương nhân lưu động, việc Lawrence gặp xác chết trên đường là không hiếm, nhưng anh hiếm khi thấy cái xác nào nằm trong hoàn cảnh yên bình đến vậy. Có nước, có cả trái cây treo lủng lẳng từ vách đá, nên có thể người này vừa ăn uống vừa dần lìa đời trong giấc ngủ.

Lawrence không biết nên nghĩ rằng người này muốn kéo dài nỗi đau, hay là giữ vững hy vọng đến phút cuối.

Đó chỉ là một cảm giác mơ hồ, nhưng nhìn vào thi thể ấy, anh nghiêng về vế sau nhiều hơn.

“Nhìn người này như chỉ mới chợp mắt cách đây ít phút vậy.”

Lời của vị trưởng tu viện không phải nói quá. Cái xác gần như không bị động đến. Tay trái ôm lấy chiếc túi đặt trên bụng, còn tay phải thì cầm một thứ gì đó giống giấy. Từ xa nhìn lại, cứ như ông lão đang ngủ quên khi đang đọc sách.

“Có vẻ như… ông ấy đang chăm chút dụng cụ, hoặc nhớ lại công việc xưa.”

Lawrence nhận ra điều đó khi vị trưởng tu viện lên tiếng. Có lẽ do thời gian quá dài, những món đồ quanh thi thể bị phủ một lớp rêu đen như mốc—ban đầu có thể khó nhìn ra, nhưng có một hàng công cụ được sắp cạnh bên thi thể. Tất cả đều trong tầm tay nơi thi thể ngồi, như thể ông ấy đang bày ra một cửa hàng nhỏ.

“Búa, đục, giũa… và đây chắc là lưỡi cưa. Trên tay là một bức thư? Không…”

“Đây là…”

Thứ mà vị trưởng tu viện cầm lên không phải tờ giấy mỏng mà là giấy da, thứ có thể bảo quản hàng nghìn năm nếu trong điều kiện tốt. Và vì không bị ẩm, nó vẫn nguyên vẹn.

Nhưng ngay khi họ nhìn thấy nội dung trên đó, cả Lawrence lẫn vị trưởng tu viện đều sững sờ.

Holo siết chặt lấy tay anh đến mức đau nhói, khiến anh liếc nhìn cô.

Gương mặt cô căng thẳng, hơi tái đi.

Không phải cô buồn rầu lúc trở về nhà tắm. Cô đang lo lắng.

Trên tấm giấy da mà thi thể cầm là vô số hình vẽ về sói. Có con nhìn bình thường, có con hai đầu. Con thì nhe nanh, con thì ngậm đồ vật trong miệng—có đủ các thể loại sói phủ kín trang giấy.

“Đức tin vào loài sói à?”

Người ta thường nghĩ dị giáo đồ là những kẻ thờ cóc nhái, nhưng Lawrence biết thế giới có vô vàn tín ngưỡng. Có kẻ thờ đá lớn, cây cổ thụ, thậm chí cả suối nước. Có người tôn thờ đại bàng, gấu, hay cả cá. Sói cũng phổ biến như đại bàng vậy.

Giờ thì anh hiểu vì sao Aram và Holo khi phát hiện thi thể lại giả vờ như chưa thấy gì.

Và vì sao Holo lo lắng chuyện này sẽ rắc rối lớn.

Nếu bị nghi là có dị giáo đồ thờ sói lẻn vào núi, hẳn sẽ gây náo loạn.

“Nhưng chừng này vẫn chưa đủ để kết luận điều gì. Trong túi kia là…”

Sau một lời cầu nguyện ngắn, vị trưởng tu viện cẩn thận mở chiếc túi mà thi thể ôm lấy. Khi dời cánh tay khô quắt như cành cây ra, ông mở túi, và một con rết lớn bò ra từ bên trong.

“Xin lỗi. Ngươi đang ngủ hả?”

Ông không mảy may bận tâm, đợi con vật bò đi rồi mới moi thứ bên trong ra. Là một thanh có vẻ là kim loại nặng trĩu. Nó không bị rêu bao phủ, và cũng chưa mất đi vẻ sáng bóng vốn có. Trông nó có kích thước vừa với một cán rìu cầm tay, và khi vị trưởng tu viện cầm nó lên cao, cái thanh ấy trông giống phần thân của một chân đèn nến cao cấp.

Nhưng Lawrence nhận ra ngay món này là gì, và cả vị trưởng tu viện cũng vậy.

“Hừm…”

Ông thở dài, không phải bối rối, mà là nhẹ nhõm.

“Xem ra chuyện này sẽ không liên quan đến dị giáo đâu.”

Rồi ông đưa vật đó cho Lawrence. Nó lạnh và nặng.

Holo tròn mắt nhìn chằm chằm vào nó.

Đây là lần thứ hai trong đời, anh chạm vào một vật như vậy.

“Đây là… thanh dập nổi tiền xu à?”

“Biểu tượng là hình con sói.”

Vị trưởng tu viện chạm tay lên mặt dây chuyền trên cổ thi thể và đưa tay lau đi.

Bên dưới lớp bụi đã lộ ra hình một con sói.

“Trên áo ông ta cũng có đầy.”

Holo thì thầm, và lúc này Lawrence mới nhận ra. Thứ anh tưởng là vết bẩn trên áo và túi xách thực chất là hình sói đã phai nhạt theo năm tháng.

“Còn cái này… À, đúng rồi. Là con dấu.”

Một mảnh kim loại nhỏ nằm gọn trong lòng bàn tay người ấy, và được khắc trên phần nghỉ tay là những hình ảnh sói.

“Và cái này hẳn là dùng để đóng dấu lên hàng hóa. Sói hai đầu, đúng là thiết kế xa hoa.”

Trên tấm kim loại vuông cỡ bàn tay, là hình một con sói có hai đầu. Holo rùng mình lùi lại trước hình ảnh xa lạ và rợn người đó.

Nhưng phản ứng ấy có lý do chính đáng.

“Một quốc gia bị tiêu diệt trong chiến tranh… có thể chăng?”

“Nếu không, thì là một người từng muốn lập nên một dòng họ mới giữa thời loạn lạc, rồi tan biến giữa giấc mơ dở dang. Nhìn ông ấy đi một mình thế này, chắc là người hầu còn sống sót cuối cùng, lên phương bắc để hoàn thành di nguyện chủ nhân… Chắc là từ thời ông nội tôi. Huy hiệu có thú hai đầu giờ lỗi thời rồi.”

Holo quay sang nhìn Lawrence đầy nghi ngờ, và anh giải thích:

“Đây là phong cách của các huy hiệu từ các đế chế cổ.”

Vị trưởng tu viện cũng tìm thấy một bản sao thánh thư trong túi, và cầu nguyện thành kính để tôn vinh đức tin của thi thể.

“Sói là biểu tượng cho quyền lực và mùa màng bội thu, nên thường được dùng. Anh không rõ là lúc nào, nhưng em còn nhớ khi anh làm một chiếc dây chuyền từ đồng xu khắc sói cho em không?”

Những đồng xu đó được cho là đuổi được sói, nên khách lữ hành rất thích.

“Sói hai đầu quay trái và phải có nghĩa là tầm mắt vươn khắp từ đông sang tây để kiểm soát cả vùng lãnh thổ rộng lớn. Giờ thì khi các vùng bị chia nhỏ, giấc mộng thống nhất đã không còn, kiểu biểu tượng này chỉ còn dùng ở các vương quốc lâu đời mà thôi.”

Holo nhẹ nhàng gật đầu, nhưng Lawrence còn phát hiện điều khác.

Nhìn kỹ, hình khắc không đối xứng, độ sâu nét khắc mỗi bên cũng khác nhau.

“Cái này… Hình cũ đã bị dập bẹp, rồi ông ấy khắc thêm hình mới. Tức là…”

Những hình vẽ đầy trang giấy da kia là tàn dư giấc mơ của một người thợ vô danh, người đã không còn ai để nói chuyện, chỉ âm thầm vẽ trong hang tối này.

Khi Lawrence nói điều đó với Holo, cô nheo mắt buồn bã nhìn người thợ đã khuất. Tay cô siết lấy tay anh mạnh hơn nữa trong nỗi tiếc thương dành cho người có mối liên hệ với sói.

Lúc ấy, vị trưởng tu viện đã cầu nguyện xong và từ từ đứng dậy.

“Hẳn là sự dẫn lối của Chúa mới đưa ông ấy đến đây, và để chúng ta tìm thấy. Hãy tra xem huy hiệu này là của ai, rồi chôn cất ông ấy cho đàng hoàng.”

“Vâng.”

Vị tu viện trưởng thích thịt rượu này, người từng tìm đến Lawrence để né điều tiếng vì tích lũy của cải quá mức, lúc này lại buông lời đầy thành kính:

“Dù sao thì, nơi này lạnh lắm. Hãy đưa ông ấy về nghĩa trang Nyohhira, để sưởi ấm linh hồn đóng băng kia.”

Họ bò ra khỏi hang, giải thích tình hình cho Aram và những người khác, lúc này đang sốt ruột chờ được báo cáo tình hình, rồi kết thúc ngày hôm đó.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận