Tôi đợi đến khi cánh cửa nhôm khép lại sau lưng mình mới khẽ nhắm mắt. Cái bản lề đã có tuổi rít lên, một đường gỉ sét kêu ken két chói tai. Rồi, khi đã gom góp từng mảnh rời rạc trong tâm trí, tôi bắt đầu bước xuống sáu bậc thang sắt dẫn ra sân trước căn hộ. Mắt nhắm chặt, sáu bậc, không hơn không kém. Đầu óc tôi mờ đục do thiếu ngủ, miệng phả ra thứ mùi khét lẹt của thuốc lá.
Nhưng vật vờ đến mức nào, tôi vẫn có thể bước xuống sáu bậc thang nhẹ nhàng như máy móc được lập trình. Thành quả của bao năm bị bào mòn bởi những thói quen vô nghĩa. Mỗi lần cơn buồn ngủ lấn át tới, tôi đều bẻ cổ, thẳng lưng, ngẩng cao đầu hít sâu một luồng khí lạnh buổi sớm giữa khu rừng bê tông. Cuối cùng, tôi mới nhắm mắt và bước đi xuyên qua màn sương nồng nặc mùi khói thuốc.
Trong cái thế giới vỏn vẹn sáu bước chân đó, hàng xóm đặt tôi danh hiệu “Con Gà Sớm”. Một thành tựu chẳng có gì to tát. Tôi đơn giản là chấp nhận sự thật rằng mình dậy rất sớm. Nhưng nó trông giống một lời mỉa mai hơn là một lời khen. Con gà vốn luôn thức dậy trước bất kỳ ai, còn tôi thì là một “con gà sớm”. Không nếu, không lý do, không vòng vo. Chỉ duy nhất một câu: “Hắn không có khái niệm về cuộc sống,” giản đơn và trần trụi. Thế là đủ để tôi trở thành Con Gà Sớm. Kẻ tỉnh dậy đầu tiên, chuyến tàu cập ga cuối cùng.
Một. Dừng lại ở bậc thứ hai, tôi mở mắt và hít một hơi thật sâu. Tiếng ù khe khẽ vẳng lên bên tai, như cơn gió biển đầu xuân đập vào khung kính trầy xước trên chuyến tàu Pacific Central. Giờ ngẫm lại, tôi cũng không nhớ lần cuối mình ra biển là khi nào nữa.
Để xem. Tháng Giêng mùng tám, tầm bảy giờ sáng đúng. Thời điểm lý tưởng trong năm để ra biển, cũng là thời điểm hoàn hảo trong ngày. Bãi biển vẫn còn vắng bóng người, chỉ có dấu chân loài mòng biển vương vãi dọc theo mép sóng như những chiếc lá bạch quả sau cơn gió thu. Và không khí thì yên tĩnh, lạnh thấu xương.
Bãi biển, hừm…
Tôi lại bắt đầu bước đi, cố quên bãi biển - chuyện của một thời xa lắc xa lơ. Nhưng Franz bỗng níu tay áo tôi từ đằng sau, kéo mạnh lại. Ngay trước khi tôi đặt chân xuống bậc thứ ba, không khí xung quanh chợt thay đổi. Tôi khựng lại, mở mắt ra đã thấy rõ bãi biển đang dửng dưng trước mặt mình.
Franz chạm nhẹ vào vai, đẩy người tôi nhướn về trước. Bậc thứ ba, bốn, năm và sáu biến mất, cả cái sân trước nhà cũng không còn. Bên dưới mặt đất đột nhiên hiện ra khúc đường nhựa ngắn không dẫn tới đâu hay đi về đâu. Có một căn nhà trọ nhỏ, nằm đối diện bãi biển duy nhất tôi từng đến. Cả không gian như bị cô lập lẻ loi chỉ mình nó.
Sau một lúc, mọi thứ bỗng tuột khỏi thực tại. Tôi rơi khỏi mép cầu thang, ngã ập lên mặt đường.
“Đây là đâu?” Tôi đứng dậy, phủi bụi trên người. Cơ thể tôi không đau nhức từ cú ngã nhưng quần áo thì vẫn bị bẩn.
“Đây là bậc thang thứ hai.” Cô ấy khẽ cười và đưa tay kéo tôi dậy. “Anh nhìn không quen sao?”
Tôi không đáp lại, nhưng không phải vì tôi không biết. Tôi chỉ đang muốn quên đi.
Cái cầu thang nhỏ dẫn lên bậc thềm trước nhà. Khe cửa chất đầy phong thư và báo sáng của tầm hai ngày đổ lại. Tôi lần mò chiếc chìa khóa giấu sau chậu hoa giả đặt gần đó, cúi người, trán tựa vào cánh cửa sắt lạnh buốt. Từ đâu đó ngay thái dương, một tiếng “cách” vang lên. Giống điếu thuốc âm ỉ cháy rụi, một ly cà phê đen nguội ngắt, đầu óc tôi trở nên mơ hồ với chút kiếm soát của những giác quan lỏng lẻo còn sót lại.
Tệ thật.
Cánh cửa mở hé được chừng hai chục xen. Tôi lách người vào. Franz thì đứng lại bên ngoài. Cô ấy vẫy tay chào, mỉm cười, rồi nhẹ nhàng khép cửa lại. Phòng khách trước mặt im lặng đến bất thường. Yên tĩnh hơn mức nó nên có vào tầm giờ này.
Chính lúc đó, tôi nhận ra chiếc guốc cao gót màu đen dưới chân mình. Nó nằm lăn lóc giữa đôi giày thể thao rách nát bám đầy bùn đất và một đôi dép đi biển rẻ tiền đã đứt quai. Chiếc còn lại văng ra một góc khá xa trên hành lang, gót đã gãy, lớp keo dán bung ra. Tôi đã từng thấy đôi guốc ấy trước đây. Cái logo của nó giống với những mẫu hàng hiệu đắt tiền thường xuất hiện trên quảng cáo. Trông như một món quà kỷ niệm lạc mùa, bị phủ lên bởi lớp bụi mỏng nhẹ nhàng trôi nổi trong không khí.
Ở giữa sảnh. Cô ấy gục đầu về trước, hai cánh tay thả xuôi, những ngón chân không chạm đất và gương mặt trắng bệch khuất sau mái tóc đen duỗi thẳng, dài ngang xương quai xanh. Một mảng da trắng trẻo hãy còn chưa rám nắng, ánh lên chỗ cổ áo qua những sợi tóc đang rũ xuống. Và cả vòng dây thừng thô ráp vẫn đang siết chặt cổ cô ấy. Thân hình người con gái thấp thoáng qua chiếc váy đen một mảnh - chiếc váy tôi chưa từng thấy cô mặc trước đây. Lẩn khuất bên dưới là đoạn dây áo ngực trắng lộ ra, tuột quá bã vai trơ xương. Ánh sáng ban mai dội lên sàn gỗ như tấm màn trắng đục, không chạm tới nổi làn da cô ấy. Dáng hình mảnh khảnh ngày nào giờ đã hao gầy đi nhiều.
Tôi cởi áo khoác, loay hoay móc lên thanh treo, điện thoại rút từ trong túi quần ra rồi vứt xuống kệ bếp cạnh đó. Cô ấy không hề động đậy suốt quãng thời gian ấy. Cũng phải thôi. Nhìn dáng người im lìm của cô, tôi thấy những ký ức cũ trôi về. Những ký ức của quãng đời tôi trước khi người yêu cũ của mình tự sát.
“Vậy.” Tôi cất tiếng, giọng nói vang lên nghe lạ lẫm, như vọng tới từ đầu bên kia của một đường hầm cũ kỹ.
Tôi gục người trên kệ bếp, trán tựa lên cánh tay và nghiêng đầu nhìn sang phía cái bàn ăn ở giữa phòng. Chỗ đó có một con cảnh khuyển - loài Dobermann, dáng ngồi thẳng tắp, khuôn mặt nghiêm nghị mà lặng lẽ trầm ngâm. Nó- ý tôi là anh ta khoác trên người một bộ vest đen, áo sơ mi trắng và thắt chiếc cà vạt màu nâu đỏ gọn ghẽ ở cổ. Trên tay, anh cầm cẩn thận cái nón fedora đen có hai vòng trắng bọc quanh, trông lớn hơn so với cỡ đầu.
“Sao cậu vẫn còn nán lại đây?”
Không phản hồi.
Vậy là tôi đứng dậy, lững thững bước về phía góc phải bếp, chỗ chiếc cối xay cà phê cũ. Tôi đong vừa đủ hạt cho hai tách, rồi từ tốn quay cối. Chỉ khi bột cà phê đã mịn lại dưới đáy lọ, tôi mới chợt nhận ra - loài chó không thể uống cà phê được. Thế rồi tôi mò xuống ngăn bếp bên dưới. Còn lại hai gói ca cao nóng cuối cùng. Nhưng cả cô ấy và anh chàng Dobermann đều không thể uống được sô-cô-la.
Một suy nghĩ đến muộn. Với tôi, chuyện đó chẳng có gì lạ lẫm. Tôi vốn luôn nhận ra khi mọi thứ đã quá muộn.
Đồng hồ điện tử trên chiếc Dream Machine báo thức lúc tám giờ sáng - cái radio bán dẫn yêu thích của cô ấy tự động phát đều đặn những ca khúc pop vô thưởng vô phạt trên kênh FM quen thuộc. Bản nhạc nền hoàn hảo cho những buổi sáng từng rất bình thản. Thế giới dường như chẳng đổi thay là bao sau bốn năm. Chỉ có cô ấy và những bài hát là thay phiên nhau rời đi. Và cả tuổi xuân của tôi.
Ấm nước hú lên như tàu cập ga. Tôi vặn nhỏ lửa, để yên chừng một phút cho nước nguội bớt xong mới rót từng dòng mỏng xuống lớp cà phê mới xay. Bột cà phê thấm nước, bong bóng li ti nổi lên chậm rãi rồi khẽ vỡ ra. Hương thơm ấm nồng, phảng phất mùi hoài niệm bắt đầu lan tỏa, lặng lẽ xâm chiếm căn phòng tĩnh mịch.
“Anh lúc nào cũng luôn tất bật như vậy nhỉ?” Chàng Dobermann lên tiếng. Giọng nghe vừa khô khốc vừa nhẹ bẫng, như thể câu hỏi ấy vốn chẳng cần câu trả lời.
“Cậu có giận tôi không?”
Tôi ngồi xuống phía đối diện anh ta, tay cầm chặt quai ấm. Chiếc bàn ăn trệt hình tròn nằm vừa vặn giữa căn phòng rộng chỉ vỏn vẹn năm bước chân, với chiều ngang thì dài hơn được hai bước. Luồng sáng mong manh của ban mai rọi vào từ khung cửa sổ bên trên, cắt đôi không gian. Tôi trong ánh sáng và anh chàng Dobermann trong bóng tối. Một cái bóng trơ xương và đen mượt tựa lụa.
“Anh không nghĩ nó hơi thô lỗ khi trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác sao?” Anh ta cúi người chào. “Còn cho câu hỏi của anh. Không, tôi không có lý do gì để giận anh cả. Cô ấy cũng vậy.”
Chậu păng-xê tàn úa nằm lặng lẽ trên mặt bàn. Bên ngoài, hệ thống tưới nước tự động trong vườn được hẹn giờ đồng loạt mở. Từng đợt nước văng tung tóe lên mặt đường nhựa xung quanh, vang lên thanh âm lách tách quen thuộc, thoang thoảng mùi than ướt pha với chút nắng.
“Vậy mà tôi cứ nghĩ chuyện đó đã rõ như ban ngày chứ?” Chàng Dobermann nói, ngước lên trần nhà.
Khi tôi dõi theo ánh mắt của anh cảnh khuyển về phía cô ấy - người vừa rồi còn treo lơ lửng ngay trên chiếc bàn ăn, giờ đã biến mất không một dấu vết.
“Có lẽ vậy…” Tôi cầm ấm nước lên. “Cậu ở đây được bao lâu rồi?”
Vẫn chỉ một cái gật đầu rất khẽ.
“Cậu đã chờ ở đây suốt à?”
“Gần như thế.” Chàng Dobermann đáp. “Tôi đã nghĩ anh có thể sẽ ghé qua. Chỉ là linh cảm thôi, nhưng tôi mừng vì nó đúng. Tôi muốn nói lời tạm biệt trước khi đi.”
Căn phòng tờ mờ hư ảo, vừa từ hơi nước ấm sôi bốc lên, vừa từ nắng sáng hắt vào qua ô cửa sổ hé mở. Những hạt bụi nhỏ li ti lơ lửng trong không trung như dải ngân hà. Tôi đứng lên khép cửa lại, bật quạt rồi đặt hai cái ly sứ xuống bàn. Một ly cà phê dành cho tôi, một ly nước ấm cho chàng Dobermann.
“Vậy thì, uống chút nước đi.” Tôi nói, chậm rãi lấy lại giọng. “Ít nhiều cũng sẽ thấy dễ chịu hơn.”
“Đừng bận tâm đến tôi.”
Đó là năm giây trước khi anh khẽ cúi đầu, chậm rãi và đều đều, ánh mắt rỗng tuếch hướng về chậu hoa tàn úa trên bàn. Bọng mắt anh hơi ẩm và nặng trĩu, mang theo một bầu không khí u ám quanh người.
“Tôi không có ý định khóc đâu.”
Tôi đưa anh ta chiếc hộp khăn giấy. Chàng Dobermann lặng lẽ xì mũi, nước mũi chảy ra như dãi. Rồi, anh chỉnh cà vạt, lấy lại vẻ nghiêm trang.
“Chỉ là căn phòng này nhiều bụi quá.”
“Thì, cứ uống chút nước đi.”
Tôi bật tivi, chương trình hoạt hình cho trẻ em là kênh đầu tiên hiện lên. Tay phải, tôi cầm tách cà phê, tay còn lại tôi mở điện thoại và quẹt quẹt màn hình lên xuống vô nghĩa. Một đoạn quảng cáo nội thất gia đình nằm ở ngay trang đầu, mọi thứ giảm mạnh mười lăm phần trăm, đặc biệt là nôi em bé. Ngay bên dưới là những đường dẫn tư vấn sức khỏe cho người chuẩn bị làm mẹ. Những thứ thông tin tôi chẳng muốn nhớ đến, huống gì bấm vào để đọc. Thế rồi tôi vuốt màn hình một lượt xuống, xong thì tắt điện thoại rồi cất nó sang một bên.
Trên bàn còn một dĩa bánh quy còn dư để từ khi nào. Tôi bốc một cái, đưa lên miệng cắn nhẹ và nó liền nát ra thành nhiều mảnh vụn rơi vãi khắp nơi. Trên nếp quần và mép áo, mặt bàn với một vài mảnh nhỏ bị cơn gió từ chiếc quạt máy thổi bay đi, hòa làm một với làn bụi khô trong không khí, rồi chậm rãi đáp xuống bên cạnh chàng Dobermann.
Anh ta khum tay quanh chiếc ly sứ, như thể đang sưởi ấm cơ thể bằng chút hơi nước còn sót. Ánh mắt dán chặt lên tôi, vành môi khẽ tựa lên thành cốc, chạm vào thật nhẹ như một hơi thở dài chưa kịp bật ra.
“Trong tủ lạnh còn ít cơm rang.” Anh ta nói bình thản.
“Cơm rang?”
“Của quán tàu quen thuộc, cô ấy hay đến đó cùng bạn trai cũ. Không còn gì khác. Cơm để lâu rồi nhưng mùi vẫn còn ổn.”
“À…”
Tôi bước đến tủ lạnh, lấy ra dĩa cơm bằng sứ lạnh buốt, mở miếng bao thực phẩm rồi rưới nốt mấy giọt cuối cùng trong chai xì dầu. Mấy viên đậu nành non đã ngã vàng và cà rốt được cắt thành các khối vuông nhỏ vô vị như những cái bóng. Mà thật ra, cả ly cà phê cũng vô vị nốt. Bánh quy cũng y sất. Phải chăng là vì gió biển? Cơn gió biển lạnh nhạt thổi qua ngôi nhà làm mọi thứ trở nên hoen gỉ, mục nát. Tôi bỏ dở ly cà phê, moi từ trong túi quần ra hộp thuốc, vơ đại một điếu bất kỳ rồi châm lửa. Nhưng tôi chợt nhận ra túi áo của mình trống rỗng. Cái hộp quẹt thường dùng không có ở đó.
“Dùng của tôi đi.” Chàng Dobermann như nhận thấy sự lúng túng, lấy từ trong túi áo ra bộ que diêm và đưa tôi.
Tôi quẹt lửa châm điếu thuốc. Đầu điếu “xẹt” lên một tiếng khô khốc, làn khói màu anh đào vẽ từng nét mỏng trong ánh nắng sớm.
“Cảm ơn. Tôi không biết cậu hút thuốc đấy.”
“Con người ai cũng thay đổi mà.”
Con roomba[note85789] không biết từ đâu lững thững lăn tới, kêu lên hai tiếng bíp bíp liên hồi, con mắt nó chớp đỏ, rồi nhẹ nhàng nhảy phốc sang góc khác của căn phòng. Anh chàng Dobermann nhìn nó và khẽ cười.
“Cô ấy có vẻ thích nó lắm. Cái máy hút bụi anh tặng hôm sinh nhật tuổi hai mươi hai.” Anh ta nói. “Chỉ tiếc là chưa dùng được bao nhiêu. Giờ chắc phải tìm chủ mới thôi.”
“Cậu không cần phải giải thích với tôi đâu. Tôi vốn đã không liên can gì từ lâu rồi.”
“Tôi nào có giải thích gì. Chỉ đang khơi chuyện thôi-”
Tôi đưa lại chàng Dobermann hộp diêm. Anh ta từ tốn nhận lấy, quẹt một cây châm thuốc. Làn khói màu oải hương nén lại thành vòng. Anh nhún vai, thở phì một hơi. Một cái vòng khác lơ lửng trôi vào không trung rồi tàn đi. Gương mặt anh mang vẻ hoài niệm, như một bức ảnh chụp khu phố Hoa vắng người đã chìm vào quên lãng.
“Chuyện của một thời xa xưa. Anh biết mà, những câu chuyện về cô ấy.”
“Tôi thà quên đi thì hơn.”
“Chỉ một chút thôi. Dù sao cũng không mấy khi cả hai lại có dịp gặp mặt trực tiếp như thế này” Anh chàng Dobermann mỉm cười, gạt tàn thuốc vô chiếc khay nhỏ trên bàn. Nó chật nít đầu lọc đã cháy cạn, bị nhồi nhét đến cong lên như thun bắn. “Tôi tự hỏi không biết cô ấy có gia đình thật không?”
Dĩ nhiên là cô ấy đã từng có một gia đình.
Hồi ấy, tôi gọi đến sở cảnh sát để tìm địa chỉ và số điện thoại nhà cũ của cô ấy. Sau đó, tôi gọi cho gia đình để hỏi về tang lễ.
Gia đình cô ấy sống ở vùng trung địa xa xôi, trong một góc phố cũ của Westbank. Đường xá không quá chật hẹp. Những ngôi nhà trông đã có tuổi nằm san sát nhau, đường ray tàu hỏa, xe điện và xe buýt vắt chồng chéo, biến cả thành phố thành một mê cung sống.
Ngày đưa tang, tôi bắt chuyến tàu tốc hành tại Pacific Central từ sớm. Tôi xuống ga đến khi mặt trời chỉ mới treo lửng đỉnh đầu. Tấm bản đồ điện tử trên điện thoại cũng trở nên vô dụng. Cứ thế, tôi ghé từng tiệm tạp hóa để hỏi đường. Mỗi chỗ tôi lại mua một gói bim bim, loại mà cô ấy từng thích.
Ngôi nhà gỗ với hàng rào sắt đã hoen gỉ vây quanh. Sân trước có một khu vườn nhỏ, một cái mái hiên bằng gỗ vươn ra từ cửa chính tầm hai mươi xen. Hai bên lối đi trồng những bụi oải hương tím lịm cả không gian. Sau cơn mưa đêm qua khiến cành hoa trĩu xuống. Và mặt đất thì âm ẩm, sẫm màu.
Cô ấy bỏ nhà đi từ năm mười bảy tuổi, khi vừa mới tốt nghiệp cấp ba. Có lẽ vì vậy mà tang lễ diễn ra trầm lặng đến mức buồn rầu. Chỉ có người nhà và ba mẹ cô thì hầu hết đã lớn tuổi. Một người đàn ông đứng chủ lễ, trông già dặn hơn tôi tầm năm, sáu tuổi. Có thể là anh trai, cũng có thể là chú của cô.
Cha cô, một người đàn ông có vóc dáng thấp, đã thấm dầm tuổi sáu mươi. Ông đeo băng tang đen đứng bên cạnh cửa sổ, gần như bất động và khuôn mặt vô hồn. Ông khiến tôi liên tưởng tới con hẻm gần nhà mình sau cơn giông bão bị cuốn sạch phăng.
Khi rời đi, tôi cúi chào trong im lặng. Hai vợ chồng họ cũng cúi đầu lại, không nói gì.
Cũng tầm bảy năm trước khi tôi lần đầu gặp cô ấy. Lúc đó trời vừa chuyển mùa, khí xuân gõ cửa từng nhà, sương sớm ngủ quên trên những cành hoa mận nở trễ. Tôi đã hai mươi mốt, còn cô chỉ mới bước sang tuổi đôi mươi.
Cùng một quán cà phê nhỏ gần trường đại học nơi tôi thường lui tới - nơi có những con mèo hoang và cô ấy. Và các bản nhạc rock chua chát. Cô nàng luôn ngồi cùng một chỗ, khuỷu tay tì lên mặt bàn, cắm cúi đọc sách bên khung cửa kính nhìn ra con phố sáng đông người, đôi khi có những chiếc xe lướt qua như dòng suy nghĩ không thể nắm bắt. Cặp kính trên gương mặt thon nhỏ của cô gợi tôi nhớ tới đôi mắt của loài cú tuyết. Cùng với đôi bàn tay gầy guộc khiến cô trông vừa lạc lõng, vừa dễ gần một cách kỳ lạ.
Suốt quãng thời gian ấy, ly sữa nguội và tên tác giả của những quyển sách cô đọc chưa bao giờ khác đi. Chỉ có tựa đề là luôn thay đổi. Có lần nó là Hóa Thân, hôm thì là Lâu Đài, bữa thì lại Amerika. Không quan trọng đó là cuốn gì, có vẻ chỉ cần là của Franz Kafka là đủ. Tiệm đồ cũ nằm đối diện ở phía bên kia đường là nơi cô thường mượn sách. Cô nàng đọc hết chúng, từ đầu tới cuối rất từ tốn, như không bỏ sót một dòng hay một chữ nào. Có lẽ vì cô tìm thấy những điều bản thân khao khát trong thế giới của Franz.
Hồi đó khi tiệm đồ cũ ấy còn mở cửa, bà chủ thường cho khách mượn sách như một thói quen không cần lời giải thích. Như việc bạn châm thuốc cho người ngồi bên cạnh, hay việc vồ lấy quả bóng chày từ trên khán đài sau một cú homerun. Do vậy, cô chưa bao giờ thiếu thứ để đọc. Đó là cái thời của Fishmans, The Beatles và Rammstein - những cái tên mang theo âm hưởng riêng như thổi sự sống vào những ngày tháng đầu thế kỷ. Bầu không khí luôn sống động, rung lên như có điện từ. Mọi thứ luôn nằm trên bờ vực, chỉ chờ một cú huých nhẹ là đổ sập xuống.
Cô và tôi hay gặp nhau, nói chuyện miên man không hồi kết về những quyển sách, về hoài bảo của những kẻ khi ấy chỉ mới bước vào đời. Thỉnh thoảng lại ngủ với nhau một cách hững hờ, bên làn khói của những điếu thuốc rẻ tiền - loại mà ai cũng có thể mua từ một cái ki-ốt bất kỳ nằm giấu mình trong con hẻm nhỏ. Cô ấy chưa bao giờ thích mùi thuốc tôi hút thời đó. Tôi đoán là vì vị đắng rẻ tiền của nó hơn là thực sự vì mùi khói. Nhưng bạn biết đấy, những việc cứ lặp đi lặp lại không có gì đặc biệt. Mà cũng chính vì vậy nên nó cũng thật khó quên.
Bức màn của vở kịch dài lê thê đang rên rỉ khép lại sau lưng chúng tôi, báo hiệu sự chán chường của những năm lụi tàn tuổi bảy mươi sẽ kéo đến. Kể cả bây giờ, tôi đã không thể quên được cô ấy. Và giả sử mười năm nữa khi tôi lật lại cuốn album cũ, có lẽ cũng sẽ không khác biệt. Cô ấy không còn ở đây. Bốn năm trước hay mười năm sau thì có nghĩa lý gì? Sự thật là tôi vẫn không thể quên được cô ấy.
“Một người quen cũ của anh nhỉ? Vậy nguyên nhân cái chết là gì?” Anh chàng Dobermann khẽ cất tiếng, giọng trầm đặc như ly cà phê đen có chút đăng đắng nghẹn lại ở cổ họng.
“Xương cổ nứt, nghẹt thở dẫn đến chết não. Một vụ tự sát, không rõ nguyên do. Dù tôi nghĩ là mình có thể đoán được.”
“Anh có buồn không?”
“Tôi không nhớ nữa.”
Chương trình hoạt hình lúc tám giờ sáng cùng mấy bản pop nhộn nhạo vừa kết thúc, chiếc radio chuyển sóng sang những bài rock nhẹ. Anh ta đặt ly nước ấm xuống, ngước nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Thật sự là anh không nhớ?”
“Không, hoàn toàn không-” Nhưng tôi biết rõ sau hôm đó mình đã đi uống. Vài đêm liền, tại quán bar gần nhà. Có thể chuyện đó chẳng liên quan gì đến đám tang, ngoại trừ một, hai ly đầu tiên, nếu có thể nói là vậy.
Một ngày mới đang bắt đầu, lại một ngày oi ả nữa. Ba con mòng biển lượn quanh, ngó nghiêng vào trong căn phòng qua tấm rèm cửa sổ để hé nửa.
“Cậu dùng chút nước lạnh cho mát người không?”
Anh ta lắc đầu.
Tôi đứng dậy, lấy ba viên đá tròn trong tủ lạnh rồi thả vào cốc thủy tinh nhỏ. Trên kệ bếp chỉ còn lại chai whiskey đã cạn nửa. Thân chai vuông cạnh, bám một mảng bụi xám xịt che đi cái nhãn tên, có lẽ là loại Kakubin. Tôi rót đầy cốc, nốc cạn trong một ngụm. Nó nhạt như nước lã và mùi thơm nồng đã không còn.
“Cậu biết không? Tôi thực sự đã muốn quên đi.” Một lời thú nhận trớ trêu: càng mong được quên mọi thứ sớm hơn bao nhiêu, ký ức lại càng quay về dữ dội bấy nhiêu. Như tiếng búa gõ mãnh liệt lên chiếc đinh gỉ, còn vang mãi trong đầu, không cách nào dứt ra.
“Thật ra anh không hề muốn, đúng chứ?”
Tôi cũng chẳng rõ. Nhưng tôi không thể mở miệng. Đầu lưỡi còn chan chát vị rát như ngậm dứa.
“Thôi được rồi-” Anh ta tiếp lời chỗ tôi bỏ lửng. “Cô ấy là kiểu phụ nữ có thể làm thân với bất kỳ gã đàn ông nào, phải không?”
“Ừ.”
“Nhưng không phải với anh, đúng chứ?”
Giọng anh ta có chút sắc lạnh. Tôi liếc lên chiếc cốc lowball đã cạn. Bài hát của Fishmans bắt đầu phát trên chiếc radio bán dẫn. Lần này, giai điệu ấy giáng xuống tôi mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tôi cúi gập người, trán vùi sâu vào lòng bàn tay, cố giữ cho cái đầu mình không vỡ toang ra từng mảnh.
“Cậu không… nghĩ, vậy sao?” Giọng tôi chậm rãi rạn nứt.
“Bằng một cách nào đó, không-” Anh chàng Dobermann nghiêng người về trước, rót cho tôi một cốc nước, không nóng cũng chẳng lạnh, chỉ âm ấm. Tôi lập tức dội xuống dạ dày. Anh ta hỏi han, có vẻ như lo lắng rằng tôi đang thấy không khỏe.
“Không.” Tôi đáp. “Chỉ hơi choáng thôi.”
“Anh chắc chứ?”
“Ừ… chắc vậy. Cảm ơn.” Tôi ngồi thẳng dậy, lắc đầu nhè nhẹ rồi tìm lại giọng nói đã trôi tuột khỏi thanh quản.
Bầy mòng biển đã bay đi, để lại một khoảng không trống vắng. Và khi mặt trời chậm rãi bò lên khỏi rặng núi đằng xa, mùi bê tông ướt từ dưới sân dần trở nên đặc quánh.
“Tôi đoán anh không phải kiểu người mà cô ấy thích.”
“Kiều người gì?” Tôi hỏi.
“Tôi không biết nữa. Chúng ta quen nhau đã lâu, nhưng thực ra tôi chưa bao giờ thật sự hiểu anh là một người như thế nào.” Anh ta ngừng lại chút, đôi mắt đảo ngang dọc như đang nhìn vào đâu đó sau lưng tôi. “Giả sử ai đó chuyển vào một căn hộ mới nhưng lại sống trong căn phòng ngủ với mấy kệ tủ xám màu trống trơn, và bốn bức tường trắng đơn sơ. Thì đó là hình ảnh tôi tưởng tượng khi nghĩ về con người của anh.”
“Vậy à?”
Anh ta bụm môi, rồi thả lỏng.
“Như cái ngày cô ấy dọn ra khỏi căn hộ của anh cùng những món đồ còn sót lại. Áo khoác lông mùa đông, mấy chiếc mũ len, cái máy hút bụi tự động mà anh tặng cô ta vào hôm sinh nhật. Những thứ tưởng chừng đã bị bỏ quên, cô ấy đóng tất cả vào hộp, và rời đi trước cả khi ánh ban mai kịp nhìn mặt. Anh còn nhớ chứ?”
Dĩ nhiên.
Từ ngày đó đến nay đã bảy năm trôi qua, nhưng tôi vẫn có thể nhớ lại mọi thứ đến từng chi tiết, về cái đêm hôm ấy khi tôi và cô tranh cãi. Bụi hè như vừa được rửa trôi sau những ngày mưa lâm râm, và thành phố khoác lên mình tấm áo mới - một màu xám u buồn. Gió tháng Mười lay nhẹ những tán liễu, nhành cây rủ san sát đung đưa, va vào nhau những âm thanh xào xạc như tiếng nước chảy. Một vệt mây dài quết ngang vòm trời đông cứng, bay thấp thoáng trên lòng thành phố. Cơn gió nhẹ luồn qua dây phơi đồ trên ban công, lướt qua mái tóc cô rồi biến mất vào khu rừng bê tông. Thứ âm thanh cơ học thật mơ hồ như từ một thế giới khác vọng tới qua khung đường chật kín xe. Buổi tối hôm đó không có một bóng người, chỉ thấy con quạ đen bất ngờ bay vút lên từ sân vườn bên dưới. Tôi đứng ngoài ban công hút thuốc, và cô ấy bắt đầu nói với tôi về những hoài bão.
Cô nói về nhiều điều khi ấy. Chuyện nhà cửa, kế hoạch hôn nhân mà tôi vẽ ra một cách vụng về, hay kinh phí sống và những lo âu sau này. Chúng tôi đã tranh cãi một hồi lâu.
Ký ức là một thứ vô cùng kỳ lạ. Khi còn ở trong khung cảnh, tôi hầu như chẳng để ý đến nó, chẳng hề nghĩ rằng bầu trời đêm không sao hay những tòa kiến trúc thép vẫn sáng đèn khi ấy sẽ để lại chút điểm nhấn nào, càng không thể tưởng tượng được năm năm sau mình lại có thể nhớ về mọi thứ một cách rõ ràng đến thế. Hôm đó, tôi chẳng mảy may bận tâm đến phong cảnh. Tôi chỉ nghĩ về chính mình. Và về cô gái xinh đẹp đứng cạnh tôi trên ban công tầng hai. Ở tuổi hai mươi ba, vào cái thời điểm đó trong đời khi mọi thứ cảm xúc và tâm tư ào tới trong tôi như chiếc đĩa vinyl quay không ngừng trên đầu phát - những bài nhạc blue trầm lắng và mỏi mệt. Cuối cùng là tình yêu. Khi ấy tôi đang yêu, say đắm trong một mối tình đầy rối ren nên cảnh sắc là thứ cuối cùng tôi nghĩ tới.
“Em dọn hết đồ vào thùng rồi, ngày mai sẽ chuyển ra.”
Cô ấy cầm nghiêng cốc cà phê bằng tay phải, khuỷu tay trái tì lên mặt bàn gỗ và gò má nằm gọn trong lòng bàn tay. Bên trong cốc vẫn là sữa ấm như mọi khi. Một làn khói mỏng lững lờ bay lên, để lại thứ hương thơm ngọt nhẹ và dịu dàng, rồi tan dần khi cơn gió thu lành lạnh lướt qua.
“Để anh mang đến chỗ ở mới của em.”
Cô lắc đầu. “Không cần đâu. Em không muốn anh tới. Anh hiểu mà, đúng không?”
Dĩ nhiên là tôi hiểu. Tôi lúc nào cũng vô tình nói quá nhiều, nói mà chẳng hề suy nghĩ trước.
“Anh sẽ ổn chứ?”
“Ừ.”
“Vậy thì chỉ có chừng đó thôi. Xin lỗi vì đã nán lại lâu như vậy, làm phiền buổi tối của anh rồi.”
“Còn giấy tờ nhà… xong hết rồi à?”
“Ừm, xong cả rồi. Em cứ tưởng phải rắc rối hơn nhiều cơ.”
“Lần đầu ai cũng nghĩ vậy, nhưng thật ra khi làm thì nó cũng đơn giản thôi.” Nói rồi, tôi khẽ thở ra một làn khói đặc. Mẫu thuốc trên tay đã cháy lụi tới gần đầu điếu. Cô ấy hơi nghiêng người nhích xa tôi một chút như mọi lần, hai tay khum quanh chiếc cốc bằng sứ. “Chuyển nhà một vài lần là em thành dân lão làng liền.”
Con chó Shiba từ ngôi nhà bên cạnh đột nhiên sủa phá lên, vang đến tận trên đây và khuếch đại giữa màn đêm tĩnh lặng của khu ngoại thành. Nó mơ hồ như vọng tới từ một thế giới khác, dù chúng tôi cũng chẳng còn lạ lẫm gì với thứ tiếng ồn đó nữa. Cô ấy chậm rãi nhướn người qua ban công, ngó nhìn sang sân vườn bên dưới, nơi tiếng sủa dai dẳng vẫn còn tiếp tục mà không có dấu hiệu ngừng lại.
Tôi gom cốc cà phê của mình và cái gạt tàn đầy nhóc đầu lọc quăng vào bồn rửa trong bếp, rồi dùng một mảnh giấy xé ra từ tờ báo sáng để hốt những vụn thuốc vô tình rơi vãi ra trên bàn. Mắt tôi nhức nhối vì thứ ánh sáng vàng lim dim, tờ mờ tỏ từ cái bóng đèn cũ rích ở ban công rọi xuống.
“Anh có lên danh sách những thứ cần lưu ý. Tệp giấy tờ để gửi đi, ngày lấy rác và phân loại, đăng ký dịch vụ hay mấy chuyện lặt vặt như vậy. Có gì không rõ cứ gọi, bất cứ lúc nào cũng được.”
“Cảm ơn.” Cô ấy đặt cốc cà phê lên bàn, bên trong đã cạn sạch, rồi từ tốn kéo ghế ngồi xuống phía đối diện tôi. “Em sẽ nhớ những buổi tối như hôm nay.”
Cô ngoái cổ ra sau về phía khu vườn bên dưới. Tiếng sủa inh ỏi cũng vừa ngừng, mọi thứ lại trở về với sự yên tĩnh.
“...Và con chó Shiba nhà hàng xóm nữa.”
“Anh tưởng em bảo nó ồn ào? Loài Dobermann có khi lại tốt hơn.”
“Vậy anh tặng em một con đi.” Cô ấy nhìn tôi đăm chiêu, ngón tay trườn nhẹ trên vành cốc. Nhưng trước khi tôi kịp cất tiếng, cô đã gửi tôi một nụ cười mỉm, hai hàng mi duỗi cong không lay động. “Em giỡn thôi.”
Nói rồi, cô ngồi gục xuống bàn, trán tựa lên cánh tay, mái tóc đen thẳng mượt buông xõa che khuất nửa khuôn mặt.
“Anh có từng nghĩ mình sẽ sống trọn vẹn cuộc đời bên người mình yêu không?” Cô ấy đột ngột hỏi.
“Không hẳn. Anh chưa từng nghĩ tới bao giờ. Có lẽ là không.”
“Em cũng từng suy nghĩ về chuyện đó một thời gian. Nhưng với cách mà mọi thứ kết thúc như này, có lẽ tốt hơn là nên như anh nói. Hoặc biết đâu, nếu khi trước chúng ta cưới hỏi, mọi chuyện đã không thành ra như vậy. Anh nghĩ sao?”
Tôi ngẫm nghĩ về thời điểm mà cô ấy nhắc tới. Một thời chúng tôi yêu điên dại, yêu trong từng cử chỉ, yêu trong từng hơi thở, yêu mà không có mục đích hay bất cứ chuẩn bị nào cho sau này. Khi ấy, chúng tôi vẫn chỉ là những đứa con nít ranh đang chơi trò người lớn.
“Không thay đổi gì đâu.” Tôi bật hột quẹt, châm thêm điếu thuốc và đưa lên miệng rít một hơi sâu rồi phả ra. Đường khói mỏng vẽ lên những ký ức mơ hồ trong không trung. Cô ấy đưa mắt dõi theo làn khói trắng ấy biến mất dần vào ánh đèn vàng mập mờ.
“Vậy tức là với anh thì thế nào cũng được, phải không?” Giọng cô chậm, từng lời rơi vãi vào luồng gió đêm nhẹ thổi qua.
“Không, chẳng có gì là thế nào cũng được cả.” Tôi nói. “Anh chỉ nghĩ, quyết định nên nằm ở em thôi.”
Một lúc sau, cô mới khẽ nói. “Sự thật thì… Em không muốn rời xa anh.”
“Vậy hãy ở lại đây.”
“Nhưng như vậy thì chúng ta sẽ chẳng đi tới đâu cả.”
Cô ấy không nói gì thêm, nhưng tôi hiểu. Chúng tôi chỉ vừa mới bước vào đời, tôi hai mươi ba còn cô thì sắp đón tuổi hai mươi hai trong vài ngày nữa. Nếu nhìn vào quãng đường đời còn dài phía trước, thì những gì chúng tôi đã gây dựng cùng nhau chỉ như một cái đinh gỉ trong nền móng của tòa tháp chọc trời. Suốt hai năm bên nhau, tất cả những gì chúng tôi làm là chơi trò gia đình, ăn mòn số tiền tiết kiệm nhỏ nhoi, và điên cuồng quấn lấy nhau trong những đêm làm tình hững hờ.
Có lẽ đa phần là lỗi của tôi. Lẽ ra tôi nên nghĩ kỹ hơn về trình độ học vấn hay kinh tế của bản thân khi ấy. Nhưng tôi không hối hận, bây giờ vẫn vậy.
“Anh nghĩ… em nói không sai.” Tôi mở lời.
“Em vẫn còn yêu anh. Nhưng lúc này thì chuyện đó không còn quan trọng nữa, phải không? Bản thân em hiểu rõ điều đó.”
Cô là một người sống theo bản năng. Tôi thì hoạt động theo lý trí. Một người không thể cảm nhận được sự tồn tại của bản thân trong xã hội, và một kẻ sống chỉ đề hòa tan vô dòng người ấy. Tôi là điểm tựa không vững chắc, còn cô là cơn bão của những sự đổi mới. Trong vai trò mà mỗi người tự khoác lên cho chính mình, tôi cứ ngỡ như thế là đủ để đi cùng nhau đến lâu dài. Nhưng với cô, tôi vốn đã lạc lối từ lâu. Dù trong lòng cô ấy vẫn còn yêu tôi đi chăng nữa, điều đó cũng chẳng thay đổi được gì. Cô hiểu điều ấy theo bản năng, còn tôi thì biết nó bằng kinh nghiệm. Không còn chút hy vọng nào nữa cả.
Và thế là, cô ấy rời đi cùng chiếc váy ngủ màu đen mỏng manh của mình. Không để lại một dấu vết nào trong đêm. Có những ký ức sẽ bị lãng quên. Có những cảm xúc sẽ biến mất. Có người sẽ rời đi mãi mãi. Nhưng nếu phải đặt cho nó một cái tên, có lẽ tất cả những gì xảy ra cũng chưa đến mức để gọi là một bi kịch.
Ngày 30 tháng 10, ba giờ sáng.
Tôi nhìn con số trên màn hình điện thoại, nhắm chặt mắt, rồi quay trở lại giấc ngủ.
Sáng hôm sau, khi bình minh còn chưa tỉnh giấc, tôi đã tu hết một bình Bacardi mình để giành cho những dịp quan trọng, rồi vào phòng tắm và xã nước nóng lên người. Chẳng còn gì trong đó ngoài một chai dầu gội nam đã cạn sạch.
Tôi bước ra khỏi phòng tắm, lau khô tóc, quấn chiếc khăn quanh hông đi xuống phòng bếp. Trên kệ tủ có lẽ còn hai chai rượu nặng chưa khui, thứ tôi đang cần lúc này để dội trôi hết những suy nghĩ trong đầu mình xuống dạ dày. Ở ngay chiếc bàn ăn, tôi mới chợt nhận ra không còn ai ngồi ở phía đối diện nữa. Nhìn chằm chằm vào chiếc ghế trống gợi tôi nhớ tới một bức tranh sơn dầu mình vô tình xem qua khi đi mua sắm cùng cô ấy. Cảm giác như một đứa trẻ lạc lõng trong thế giới của Caroline Bathurst vẽ nên - buổi sáng đầu ở xứ tha hương. Dĩ nhiên, tôi cũng chẳng phải là đứa con nít. Tôi quyết định không nghĩ thêm đến nó nữa, cứ thong thả nốc vài lít rượu và châm thuốc hút đến khi bất tỉnh.
Dù đêm qua chỉ ngủ có hai tiếng nhưng tôi lại thấy tỉnh táo đến kỳ lạ. Cơ thể và những thứa cơ như cỗ máy xuống cấp lâu năm bị hết dầu nhớt, còn đầu óc tôi vẫn quay mòng như cơn sóng ngầm ngoài đại dương. Tôi ngồi xuống ghế, ngắm nhìn khoảng trống trước mặt. Căn phòng ăn bỗng trở nên rộng lớn. Chiếc cốc cà phê yêu thích của cô không còn trên bàn. Hình ảnh của người con gái thường hay đọc sách ở đây vào mỗi buỗi sáng khiến cơ thể tôi run lên không yên nên đã quyết định rời đi.
Tôi vào phòng ngủ, mở từng ngăn kéo, hộc tủ, xem trên từng kệ trưng bày - tất cả đều trống trơn. Chỉ một mảng màu trắng vô định của bốn bức tường, một phần tư số sách trên những kệ tủ xám màu đã không còn. Bàn chải, máy sấy tóc, lược, vài chai lọ mỹ phẩm, vali kéo lớn nhỏ có đủ và các thứ giày dép, thuốc men. Tất cả đều đã biến mất cùng cô trong đêm. Không còn chút dấu hiệu nào chứng minh rằng người phụ nữ ấy từng sống trong căn nhà này.
Những bức hình chụp chung là thứ duy nhất tôi còn lưu trên điện thoại. Giờ đây, nó cũng đã không còn. Dù sao khi ấy tôi đã quyết định sẽ quên đi. Và cứ như vậy, năm năm ròng trôi qua, tôi vẫn chẳng thể nào quên được một thứ gì.
“Vậy thì, tôi xin phép đi đây.”
Chàng Dobermann đứng dậy, đội lại chiếc mũ fedora lên đầu một cách ngay ngắn. Tôi vẫn luôn cảm thấy kinh ngạc vì đôi tai nhọn kia có thể khéo léo tránh được vành mũ như thế.
“Anh định đi đâu?” Tôi hỏi, cũng đứng dậy, phủi bụi trên ống quần, rồi gom những chiếc cốc rỗng, ly thấp, và cả cái đĩa cơm chiên mang vào bồn rửa.
“Không đâu cả, tôi nghĩ vậy. Bất kỳ nơi nào cậu sẽ tới, tôi sẽ theo sau.”
Dobermann nhẹ nhàng mang găng tay trắng vào, rồi cầm chiếc cốc rỗng bước về phía bồn rửa. Đồng hồ điện tử của chiếc Dream Machine đã chỉ gần trưa. Những bản nhạc rock nhẹ cuối cùng cũng dứt hẳn khỏi sóng radio, nhường chỗ cho sự im lặng. Tôi tắt TV, chẳng có gì đặc biệt, vẫn là cái bản tin cũ mèm về thị trường chứng khoán sụp đổ và tin tức về cái chết của cô ấy cứ lặp đi lặp lại.
“Nếu vậy thì…” Tôi quay sang anh ta, nhìn thẳng vào mắt.
Mặt trời đã leo lên cao, vượt qua dãy núi phía xa, chiếu những tia nắng gay gắt xuyên qua rèm cửa còn hé mở. Dobermann lúc này đã bước ra khỏi bóng tối, khuôn mặt anh ta hiện rõ dưới ánh sáng. Khuôn mặt tôi từng thấy từ rất lâu về trước, và bằng một cách nào đó, nó khiến tôi nhớ tới gương mặt của chính mình.
“Anh có muốn đi cùng bọn tôi không?” Tôi chậm rãi buông lời.
“Đi đâu?”
“Đi dã ngoại.” Tôi đáp. “Một buổi dã ngoại vào chiều thứ Năm. Anh có muốn đi cùng không?”
Anh ta ngừng lại. Như thường lệ, hơi nghiêng đầu sang một bên.
“Tất nhiên rồi. Nếu còn chỗ.”
0 Bình luận