Dưới bầu trời lộng gió của thành phố cổ Renoncer ở phía Nam lục địa, vùng đất được vị thần của gió và mùa màng phù hộ, những cánh đồng lúa mì vàng ươm trải đều trên khắp đất Renoncer, những cành cây cổ thụ lớn và một thành phố hòa hợp với thiên nhiên. Con đường đá có cỏ xum xuê chen chúc nhau cùng hàng cây xanh tươi trên từng nơi của con phố.
Bỗng gió thổi mạnh. Cơn gió làm mũ của cô gái ấy bay đi, mái tóc đen của cô tung bay phấp phới. Một bàn tay bắt lấy chiếc nón và đội lại lên đầu của cô. Cả hai cùng đi từng bước lên trên con đường mòn để đến ngọn núi phía sau thành phố.
Đó là ngọn núi lớn và cũng là khu rừng lớn của đất Renoncer. Người dân gọi nó là rừng Bạch Kim. Được gọi tên như vậy cũng bởi những tán lá của cây Sulvie vào ban ngày giống như những lăng kính phản lại ánh sáng mặt trời, vừa có thể tạo ra bóng mát nhưng cũng tạo ra một khung cảnh lộng lẫy. Nhờ điều này nên rừng Bạch Kim mới tạo ra được khung cảnh khu rừng luôn lấp lánh vào ban ngày, đẹp như bạch kim toả sáng dưới nắng mai.
Ở đó có hai người đi cùng nhau, và khi lên đến đỉnh của ngọn núi, họ thấy một khu đất trống rộng lớn. Những cây lớn xung quanh bao bọc nơi này thành một vòng tròn. Ở giữa vòng tròn được tạo bởi vòm cây xanh là một nhà thờ lớn bằng đá - một nhà thờ nguy nga nhưng mang theo nhiều phần của sự cổ kính.
"Thưa thầy, đến nơi rồi ạ, đây là nhà của em."
Cô gái tóc đen đó tên là Angel Enafiz, và người đàn ông đi bên cạnh cô là William Avon. Cả hai đều là những người thuộc Hội Thánh của Đế quốc, và chuyến đi lần này là ngày Angel trở về nhà, nơi cô đã lớn lên.
Angel có mái tóc đen tuyền, dài không quá vai. Cô có hai ngọn tóc màu đen ở phía trước trán và phần mái khá dài. Điều đặc biệt nhất ở cô là đôi mắt có hai màu. Bên trái là màu vàng tựa như thái dương, còn bên phải là màu đen tuyền, dường như không phản chiếu ánh sáng. Cô mặc một bộ đầm màu trắng dài, mang đôi bốt trắng cao cùng tất đen kéo đến đầu gối. Trông cô vẫn còn rất trẻ, dường như chỉ mới khoảng mười ba tuổi.
Người bên cạnh Angel lại trông hoàn toàn khác với cô. William cũng có mái tóc đen, nhưng dài và trông luộm thuộm hơn rất nhiều. Anh mặc một chiếc áo chùng thâm, nhưng các nếp vải đã nhăn nheo. Gương mặt của William mang nhiều nét mệt mỏi, với quầng thâm và bộ râu lởm chởm trông vô cùng thiếu thẩm mỹ. Những nếp nhăn trên gương mặt cũng cho thấy tuổi đời của người đàn ông này.
"Thầy ơi, đi thăm mẹ em nào."
"Ừ." Giọng của William rất trầm, thậm chí mang theo chút nặng nề của sự mệt mỏi.
Cả hai người đi ra sân sau của nhà thờ. Dưới cơn gió nhẹ cùng bóng lá đung đưa, ánh nắng rực rỡ soi xuống mảnh đất trước mặt. Ở đó, nột bia mộ đá được khắc tên như thể được làm vội vàng, nhưng với khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh đã khiến nơi này trở nên yên bình đến lạ.
Helena Arminius. - Đó là tên của người được ghi trên bia mộ.
Angel tung tăng từng bước đến trước nơi an nghỉ của mẹ mình, người mẹ đã nuôi nấng cô năm xưa, người đã dành trọn cả cuộc đời để nuôi dạy cô lớn lên. Nhưng, nằm ngay cạnh Helena lại có thêm một ngôi mộ khác, một ngôi mộ không tên.
William trong lòng nặng trĩu, bước chân muốn tiến lên của anh cũng vô thức dừng lại. Nhưng tại sao? Có lẽ là do chính bản thân anh cảm thấy có lỗi, vì dù sao, người đã đưa Helena đến nơi này… cũng là anh.
Mười ba năm trước.
Một người con gái xinh đẹp đến mức không thể tả bằng lời văn. Bóng dáng của nàng vừa mảnh khảnh, lại vừa đầy đặn. Nàng mặc bộ áo dòng đen quen thuộc mà các linh mục thường mang. Nàng có một mái tóc xám dài, đôi mắt cùng màu và một nụ cười thân thiện. Người con gái rực rỡ như vầng thái dương ấy chính là Helena Arminius.
"Sao cơ? Thầy kêu em đến Renoncer truyền đạo ạ?" Helena ngơ ngác, gấp luôn cuốn sách trên tay lại và chăm chú nhìn người thầy của mình.
Khi đó, William trông thực sự điển trai, hoàn toàn không luộm thuộm như hiện tại. Ngoài ra, anh còn đeo cả một cặp kính tròn, tuy toát lên vẻ vừa tri thức nhưng gương mặt anh ta vẫn toát lên phong thái đáng sợ.
William cất giọng như muốn khuyên cô học trò:
"Thôi mà, đừng thái độ thế chứ. Tới chính Đức Giám mục cũng yêu cầu em làm việc này mà."
"Hả? Nhưng tại sao lại là em?" Giọng cô cao vút lên.
William mỉm cười. Bàn tay thô ráp của anh xoa nhẹ lên đầu Helena, giọng anh đầy trìu mến và trả lời:
"Bởi vì em là người đặc biệt."
Đúng vậy, Helena là người rất đặc biệt. Sự đặc biệt đó là bởi vì cô là người duy nhất của Giáo hội được ban Ân sủng của Đức Thánh - một ấn ký đặc biệt được khắc lên thân thể cô như một sự ban phước mà thần linh đã trao tặng. Con đường mà cô đi sẽ luôn thuận lợi, và sẽ không có khó khăn nào có thể đến với cô. Nó giống như một lời ban phước của vận may, đến cả nhiều Đức Giám mục hay Đức Hồng y cũng không được ban Thánh ấn.
Nhưng Helena không thấy như vậy. Thánh ấn dường như không thay đổi bất cứ điều gì trong cuộc sống của cô, ngoại trừ việc ngày càng có nhiều người muốn lợi dụng cô để đạt được mục đích riêng. Chính bản thân Helena cũng không thể hiểu được ý nghĩa của Thánh ấn. Đúng hơn là, cả những người cầm quyền cũng không thể hiểu được ý nghĩa thực sự của nó. Họ chỉ đơn thuần biết đó là dấu ấn cho việc Đức Thánh đã lựa chọn ai đó trở thành sứ giả của Ngài, còn việc nó có quyền năng hay thánh lực hay không thì không ai rõ.
Helena là người thuộc trường phái Học Sĩ. Cô không thích va chạm hay chiến đấu, dù đúng là năm xưa cô đã từng theo mẹ nuôi ở Dòng Chiến suốt mười năm. Thế nhưng cô chưa từng thực sự ra tay với bất kỳ ai và cô cũng không bao giờ tham gia vào các nhiệm vụ trên chiến trường. Do đó cô cũng chưa từng hiểu được ý nghĩa hay quyền năng của Thánh ấn.
Giờ đây, khi nghe William lại nhắc đến việc đó, Helena chỉ thấy một đống rắc rối dồn hết lên người mình. Cô đưa tay đỡ trán rồi xoa xoa huyệt thái dương.
“Thầy đùa em à? Bộ cứ là người có Ấn Thánh thì em phải gánh hết mọi trách nhiệm hay sao? Với cả thầy có chức cao hơn em đấy, thầy đi mà làm đi."
“Nếu thầy đi được thì thầy đã đi rồi. Nhưng Đức Giám mục yêu cầu đó phải là em.”
Helena mặt mày tối sầm. Cô chán nản tìm chỗ ngồi, dựa lưng vào chiếc ghế gỗ của thư viện, lật lại những trang sách đang đọc dở, tay chống cằm tiếp tục đọc như muốn vờ như không nghe thấy mọi thứ ban nãy. William thấy dáng vẻ của cô, trông cô chán nản đến mức khó chịu. Hết cách, anh cũng đành ngồi xuống đối diện cô để an ủi.
“Không sao đâu mà Helena. Chỉ cần truyền đạo xong là em có thể trở về rồi.”
“Vậy là thời gian ở lại đó không cố định?”
“Ừ thì... đúng là thế.”
Helena rời mắt khỏi cuốn sách, cô nhướng mày nhìn William, hỏi:
“Thầy biết rất rõ Renoncer là vùng đất như thế nào mà, đúng không?”
Renoncer là vùng đất nằm giữa biên giới của hai quốc gia: Đế quốc Thần Thánh và Đế quốc Maucules. Sự khác biệt lớn nhất giữa hai vương quốc này nằm ở chế độ cai trị. Đế quốc Thần Thánh là một vương quốc đa chủng tộc và đa tôn giáo, nơi tồn tại nhiều hệ tư tưởng thần học khác nhau, và hầu hết cư dân đều tôn thờ một vị thần hoặc một tín ngưỡng riêng. Đế quốc này được lãnh đạo bởi hội đồng các Giáo hoàng. Đây cũng là vùng đất duy nhất mà các chủng tộc khác biệt có thể chung sống hòa bình ở những khu vực riêng biệt.
Và dĩ nhiên cũng có ngoại lệ, đó chính là Đế quốc Maucules. Maucules thì hoàn toàn khác hẳn, trái ngược hoàn toàn với Đế quốc Thần Thánh. Ở Maucules không tồn tại tôn giáo, không tồn tại thánh thần, không tồn tại bất cứ thế lực siêu nhiên nào cả. Tất cả người dân và những ai sinh sống tại Maucules đều chỉ tôn thờ một người duy nhất: Hoàng đế. Vị vua mang danh xưng "Hoàng đế của Máu và Thép" chính là tín ngưỡng duy nhất của người dân. Họ tôn sùng ngài, họ thờ phượng ngài. Đất Maucules vốn không có thần, bởi chính Hoàng đế là vị thần duy nhất của họ.
Hai vương quốc luôn xung đột với nhau. Tuy cách cai trị độc tài của Hoàng đế là điều khiến nhiều chủng tộc khác bất mãn, nhưng cũng không ai có thể làm gì được hắn. Một trong các chính sách của Hoàng đế là bài trừ tất cả dị tộc và những kẻ chống đối vương vị của ngài. Bằng tài thao lược và bộ óc thiên tài trong nhiều lĩnh vực, Hoàng đế đã một tay xâm lược và mở rộng lãnh thổ. Phương Bắc của đại lục ngày nay chính là lãnh thổ thuộc về Đế quốc Maucules.
Renoncer chính là vùng đất nằm giữa lãnh thổ của cả hai vương quốc, trở thành nơi giao lộ và giao thương của hai đế quốc. Bề ngoài, cả hai đều giữ mối quan hệ hòa hoãn, nhưng thực chất ai cũng hiểu rằng cả hai chẳng ưa gì nhau. Ở Renoncer tồn tại cả hai loại người và hai hệ tư tưởng trái ngược: một bên tin vào thánh thần, bên còn lại bài trừ đức tin.
Việc Helena không muốn đến Renoncer truyền đạo cũng là vì điều này, sự phức tạp trong các tranh chấp chính trị của hai vương quốc là điều mà cô không hề muốn dính dáng vào. Nhưng ý mình khó qua được ý trời, và ở giáo hội, những người có chức quyền cao hơn chính là trời. William nhìn học trò của mình, ngoài mẹ của cô bé ra thì anh là người hiểu rõ tính tình của Helena nhất. Tuy Helena không hoàn toàn thuần khiết như vẻ ngoài xinh đẹp của cô nhưng cô thực sự có trái tim vô cùng lương thiện.
“Được rồi, sao cũng được, em sẽ đi. Nhưng con yêu cầu nếu nhiệm vụ thất bại thì em sẽ được trở về. Được không?”
“Tất nhiên là được.”
Sáng ngày hôm sau, Helena lên chuyến xe lửa để đi đến Renoncer. Các nhà ga được xây dựng cách đây không lâu nhưng đã trông vô cùng hoàn thiện. Ở khắp Đế Quốc Thần Thánh đều đã được xây dựng các hệ thống nhà ga. Nếu xác định chính xác thì thời kỳ này giống với thời kỳ cận đại. Khi đoàn tàu bắt đầu khởi hành, Helena ngồi lên ghế của mình, cất hành lý sang một bên, cô ngắm nhìn khung cảnh đang dần vụt qua trước mắt.
Đây là một chuyến đi dài. Cô chợp mắt một lát rồi không biết từ lúc nào đã chìm vào giấc ngủ sâu.
"Cầu cho những con người khốn khổ có thể tìm được hạnh phúc. Cầu cho người dân không phải chịu cảnh lầm than. Cầu cho những đứa trẻ có được những điều đẹp nhất trong cuộc đời. Và cầu cho thế giới không còn đau thương."
Rất nhanh, chuyến tàu đã dừng lại tại ga Renoncer. Nơi này cách nhà thờ nơi cô ở khá xa, nhưng với cô thì cũng không phải vấn đề lớn. Gương mặt thanh tú của cô chưa hề hiện ra một chút mệt mỏi nào suốt chuyến đi. Cô xuống ga tàu và lục lọi trong túi áo khoác, lấy ra một cái la bàn bằng bạc được chạm khắc tinh xảo ở mặt sau, tạo thành hình ảnh của một bông hoa hồng.
“Hướng Bắc… Đường này.”
Cô đi theo bản đồ và chỉ dẫn của la bàn. Cô đi bộ suốt cả chuyến hành trình dài dằng dặc đó. Băng qua con suối trong veo, đi qua những hàng cây xanh mướt, tiếng róc rách của con suối cùng tiếng gió khiến cô cảm thấy có lẽ chuyến đi này cũng xứng đáng.
Cô đi suốt hai tiếng đồng hồ. Nhà thờ đó đã dần hiện ra trước mắt của cô.
Nhà thờ Ysmael, nó đã được xây dựng từ đại kỷ nguyên đầu tiên, cũng là kỷ nguyên được truyền thuyết kể lại như sau:
“Đại kỷ nguyên đầu tiên cũng là những ngày loài rồng vẫn còn thống trị mảnh đất này. Chúng cai trị muôn loài, muôn dân bằng sức mạnh của bản thân chúng. Và rồi các vị thần giáng lâm. Họ đập tan ách cai trị của loài rồng, xây dựng lên những khái niệm đầu tiên, những viên gạch đầu tiên, những con người đầu tiên.”
Nhà thờ Ysmael cũng là một trong số những nơi được xây dựng bởi loài người đầu tiên. Helena đi đến kiểm tra xung quanh. Những bãi cỏ mọc xum xuê trên mặt đất đã cao đến đầu gối. Những lớp rêu đã đâm sâu qua các bức tường đá, cắm rễ đâm chồi qua những khe nứt, phủ kín nhà thờ ấy trong một màu xanh lục tuyệt đẹp.
Đẩy cánh cửa gỗ lớn đã phủ đầy bụi để tiến vào trong, không gian tối tăm và bụi bặm hiện ra trước mắt của Helena. Bụi phủ trên ô cửa sổ, phủ trên những hàng ghế dài bên dưới, phủ trên bức tượng của một vị thần.
Cô nhìn sàn nhà và cũng chẳng biết trước đó nó có màu gì nữa. Bụi đã che đi gần như tất cả. Cô ho khù khụ khi cơn gió thổi chúng bay xung quanh. Bụi đã bám lên chiếc áo chùng đen và mái tóc xám của cô từ bao giờ. Helena phủi chúng đi, lấy tay che miệng rồi mới dám thở dài một hơi.
“Bộ người của Hội Thánh không bao giờ vác mặt ra đây để dọn dẹp nơi này à?”
Cô đi sâu vào trong kho và thấy một cánh cửa gỗ đã ngả màu, trông cũng khá mục nát. Cô vừa mở ra thì một đống đồ đạc ồ ạt trào ra, đè thẳng lên người của cô. Hoảng loạn không kịp trở tay, cô bị đống đồ đó đè thành một đống bên dưới.
“Trời đất ơi, mình muốn về nhà…”
Sau một hồi dọn dẹp đống đồ đạc đổ ra này, cô mới biết đây là nhà kho. Tìm được trong đống hỗn độn một cây chổi lớn và một vài xô nước đầy bụi, cô mang chúng ra ngoài rửa sạch hết rồi mới đem vào dọn dẹp bên trong.
Helena phủi những lớp bụi dày cộm trên những hàng ghế bên dưới, bức tường được lau dọn đàng hoàng. Dáng cô hơi thấp nên làm việc cũng có hơi khó khăn. Cô bắt mấy cái ghế lại thành một chồng rồi leo lên, phủi đi mái nhà phủ đầy mạng nhện. Một con nhện rơi xuống đầu của Helena. Cô nhè nhẹ đưa tay lên để nó bò lên tay mình.
“Xin lỗi, lỡ làm mất nhà của ngươi mất rồi. Để lát nữa ta sẽ tìm chỗ khác cho ngươi nhé.”
Con nhện đó như nghe hiểu những gì cô nói, nó bò lên vai cô và ngồi ở đó. Helena mỉm cười tủm tỉm rồi tiếp tục công việc. Dọn dẹp đến khi cả người rã rời, nhà thờ cổ quá cũng không tốt chút nào.
Đến khi mọi thứ đã dọn dẹp xong thì trời cũng đã chập tối. Trời trở lạnh và mùi của mưa cũng vất vưởng đâu đây. Helena dọn dẹp xong, cô đi vào bên trong nhà thờ, đến bên những kệ gắn đèn cầy, cô thắp lên những cây nến đầu tiên. Ánh sáng ấm áp dần lan tỏa khắp không gian nhà thờ cổ.
Cô đem con nhện con đi vào trong nhà kho và để nó xuống. Nhện nhỏ nhìn cô rồi đưa hai chân lên như vô cùng đồng ý với nơi này.
Phòng ngủ của Helena nằm ở tầng hai của nhà thờ, nơi đó là nơi nghỉ ngơi riêng của các tu nữ. Cô lên giường nằm nghỉ ngơi.
“Mình muốn đi tắm, nhưng mà giờ mà xuống suối thì lạnh lắm, khó chịu quá.”
Cô lăn lộn trên chiếc giường đơn khiến nó phát ra những âm thanh cọt kẹt. Helena đã tự sửa lại chiếc giường, nhưng do tay nghề có hạn nên những gì cô làm được là một chiếc giường trông vừa cũ kỹ vừa như sẽ gãy bất cứ lúc nào.
Uỳnh! Tiếng sấm vang lên xé toạc bầu trời đêm tĩnh mịch. Âm thanh đó rít lên một tiếng giống như tiếng gió mạnh. Ngay sau đó là những tiếng lá cây xào xạc cọ vào nhau một lúc rồi một hồi mạnh hơn. Gió thổi mạnh vào từ cửa sổ khiến cánh cửa run lên bần bật. Helena nhanh chóng đi đến và chốt chặt cửa sổ lại, sau đó cô nhìn ra bầu trời đen ngoài kia.
Những giọt mưa đã bắt đầu đổ xuống từ bầu trời đêm ấy, từng hạt mưa rơi một lúc một nặng hạt hơn, và cuối cùng bên ngoài chỉ còn mỗi tiếng mưa rơi ào ạt của một cơn bão lớn.
“Mình có nói muốn tắm, nhưng không có nghĩa là trời nên cho luôn nước xuống kiểu này. Mưa lớn cỡ này sao ra ngoài đây?”
Cô cười nhạt rồi đi xuống lầu để xuống bếp xem mấy món đồ ăn cô mang theo có ích gì lúc này hay không. Nhưng khi đi xuống cầu thang, cô bỗng nghe thấy một thứ âm thanh lạ.
Một tiếng khóc. Tiếng khóc của một đứa trẻ vang lên từ bên ngoài cửa nhà thờ, những tiếng ấy hòa cùng tiếng mưa bên ngoài tạo ra một âm thanh giống như tiếng gào thét, cùng tiếng gió ù ù khiến âm thanh phát ra như tiếng ai oán của quỷ dữ đang mời gọi kẻ ngu muội đến mở cánh cửa.
“Cái... gì vậy, tiếng khóc?”
Chân cô hơi run rẩy, cả người lạnh toát, rợn cả sống lưng. Helena bất động tại chỗ, không dám di chuyển. Dù có là ai đi nữa thì trong trường hợp thế này có lẽ cũng sẽ cảm thấy sợ hãi giống cô thôi. Một đêm khuya khoắt, giữa một trời giông bão lại có tiếng khóc của một đứa trẻ vang lên trước cửa nhà thờ, được bao quanh là cánh rừng xanh sâu thẳm nằm ở trên núi cao — những thứ đó đủ để dọa sợ bất kỳ ai rồi.
“Tại sao lại có tiếng trẻ con khóc? Có ai đó đã để nó ở ngoài sao?”
“Nhưng lỡ đâu ngoài đó là quỷ?”
“Nhưng nếu mình không ra ngoài, nếu đó thực sự là một đứa bé thì sao đây?”
Có vô số câu hỏi trong đầu khiến Helena rối bời. Cô không hiểu được vì sao lại xảy ra chuyện này. Tiếng khóc đó cứ càng ngày càng lớn dần, cứ như tiếng khóc đau đớn của một đứa trẻ vẫn còn trong nôi. Nếu cô không ra, đứa trẻ đó có thể chết mất. Helena tự dằn vặt để cố gắng đưa ra quyết định cô phải làm gì.
Nỗi sợ đang kéo chân cô lại, nhưng trái tim thì muốn cô tiếp tục tiến lên để cứu đứa trẻ, còn lý trí lại đang cố gắng để không đưa ra những hành động bồng bột có thể gây nguy hiểm cho chính bản thân cô.
“Không, không được do dự nữa!”
Trái tim đã chiến thắng lý trí. Helena liều mình lao đến cửa và mở toang cánh cửa ra. Gió mạnh lùa vào cùng nước mưa khiến cả người của cô bị ướt. Cái lạnh thấu xương khiến Helena run nhẹ. Trước mặt cô là một chiếc giỏ lớn bằng gỗ, trùm lên bên trên một lớp vải trắng mỏng. Sau lớp vải đó là tiếng khóc của đứa trẻ.
Cô nhanh chóng mang cả cái giỏ vào, sau đó đóng mạnh cửa. Cả người của cô giờ đã ướt nhem, nhưng cô không suy nghĩ nhiều đến vậy. Những gì cô chú ý là chiếc giỏ cùng đứa bé đang khóc.
Cô chạy đến bên bếp lửa, thắp lên một ngọn lửa và mang giỏ vào trong. Cô lại chạy lên lầu để lấy khăn tắm của mình mang xuống, sau đó vạch tấm vải trắng ra.
Bên trong là hai đứa trẻ, một bé gái đang khóc và một bé trai nằm yên. Một nỗi sợ lại bùng lên trong cô. Cô lấy khăn lau cho cả hai đứa bé. Bé gái, khi được lau khô bên bếp sưởi ấm áp, sắc mặt dần dịu đi và tiếng khóc cũng dần lặng xuống. Nhưng bé trai thì khác… Cả người nó lạnh ngắt, không còn hơi thở, đôi mắt nhắm nghiền lại cùng miệng hơi hé mở. Helena cố đưa đứa bé lại gần bếp lửa để sưởi ấm, nhưng đứa trẻ hoàn toàn không động đậy.
Không thể thốt lên được lời nào, tay cô ôm đứa bé bắt đầu run lên.
“Không…”
Cô run sợ mà nói. Cô không muốn tin những gì đang xảy ra. Giọng cô thét lên, cô ôm chặt lấy đứa bé, cô giữ ấm cho nó bên bếp lửa. Bóng cô hắt lên sau bức tường bởi ngọn lửa hồng.
Liệu đó có phải là do cô? Là do chính sự sợ hãi khi đó đã khiến đứa trẻ không qua khỏi? Cô tự trách, tự trách chính mình trước cái chết của đứa bé, dù sự thật là đứa bé đã chết từ trước đó và chính nhiệt độ cơ thể của nó đã chứng minh điều đó. Nhưng Helena không thể ngừng dằn vặt, bởi cô cho rằng chính mình là nguyên nhân khiến đứa bé qua đời.
Cô cứ đung đưa đứa bé trên tay mình, nhưng tiếng khóc nấc của đứa trẻ còn lại làm cô bừng tỉnh khỏi nỗi sợ. Cô lưu luyến, trong mắt mang đầy vẻ tuyệt vọng. Cô đặt đứa trẻ xuống, quấn khăn quanh nó rồi ôm bé gái lên.
“Lạy Đức Thánh Linh, ngài là Đấng cứu rỗi và là Đấng sẽ tha thứ cho những tội lỗi của con người, xin ngài hãy cho linh hồn đứa trẻ ấy được lên thiên đàng.”
Helena nâng niu bé gái trên tay mình, ngồi bên bếp lửa. Cô nhẹ nhàng cất lên một khúc hát, bài hát dành cho ngày cô bé đến với cô, cũng là khúc tiễn biệt dành cho cậu bé không thể ở lại. Cô đặt tên cho bài hát đó là “Cecilia.”
...
Angel nâng niu bó hoa Cecilia trên tay. Đó là một loài hoa tuyệt đẹp mà mẹ cô rất thích. Bông hoa xám giống như hoa hồng nhưng lại mang dáng vẻ sắc nét hơn, với các viền cánh hoa như những ngọn lửa đang cháy rực.
“Mẹ từng nói, hoa Cecilia tượng trưng cho sự bình an và cuộc sống rực rỡ, giống như ngọn lửa bùng lên từ tro tàn.”
"Helena yêu thích những bông hoa ấy từ khi còn nhỏ. Khi con bé đang ở trên chiến trường, nơi khói bụi mịt mù, nơi xác người chất thành núi, nơi cái chết là thứ mà mỗi ngày con bé phải đối mặt. Cecilia là bông hoa duy nhất có thể nở rộ trên biển máu, không cần gió, cũng không cần mặt trời. Nó giống như sự bất tử trong mọi khoảnh khắc, như thể ngọn lửa sự sống sẽ mãi bùng lên từ đống tro tàn."
Đặt xong bó hoa trước mộ của Helena, Angel nhìn sang mộ của người anh trai mà cô chưa từng gặp mặt, người đã mất vào ngày cả hai được nhận nuôi. Cô cũng đặt thêm một bó hoa trước mộ của anh, thầm thì:
“Mong anh yên nghỉ.”
Cô nhìn sang người thầy của mình. William vẫn đang đứng yên tại chỗ, ánh mắt anh đượm buồn khi những ký ức chìm sâu trong quá khứ trỗi dậy. Angel gọi lớn:
“Thầy! Thầy không đến thăm mộ học trò của thầy luôn hả?”
Giật mình thoát khỏi những suy tư, vị linh mục gật đầu rồi chậm rãi bước đến.
“Thầy đến đây.”
Khi cả hai đã thăm mộ xong, Angel xách hành lý chuẩn bị rời đi. Nhưng như sực nhớ ra điều gì đó, cô hỏi William:
“Thầy này, hình như điểm đến tiếp theo của chúng ta, thành phố Cosotto, đã bị Đế quốc Maucules phá huỷ rồi mà, phải không? Sao chúng ta phải đến đó vậy?”
William châm điếu thuốc, thái độ uể oải đáp lời:
“Chúng ta giờ không còn thuộc phái Học Thuật nữa rồi, Angel. Giờ chúng ta là những thầy trừ tà. Để chắc chắn rằng những người chết ở Cosotto sẽ không trở thành quỷ dữ sau khi bị Đế quốc sát hại, thì chúng ta phải đến đó để thực hiện lễ gột rửa.”
Vị linh mục cùng Angel rời đi. Tuy nhiên, anh lại trông nghiêm trọng đến lạ. Anh nhắc nhở:
“Ta có nghe nói rằng bầu trời ở đó đang dần chuyển đỏ. Nếu không nhanh đến thì nơi đó sẽ thành một Quỷ Vực, không khác nào vụ thảm sát Ballion.”


0 Bình luận