Tôi phát hiện ra âm thanh đó vào lúc đêm khuya.
Giữa sự tĩnh lặng ấm áp của cặp tai nghe, một câu bass trầm nặng cứ thế tiếp diễn.
Nó tựa như những ngón tay đang lần theo từng đốt xương của chính tôi, một cách trần trụi và xác thực.
Âm thanh ấy không hề vương chút máu thịt, vừa cứng rắn quyết đoán, lại vừa có một sự mềm mại đủ để cào xước tâm can.
Chỉ có tiếng bass đang vang lên.
Hoàn toàn đúng theo nghĩa đen, ngoài tiếng bass ra thì không thể nghe thấy bất kỳ âm thanh nào khác.
Chết (dead).
Rốt cuộc đây là thứ gì? Dù thoáng nghi ngờ rằng đây là âm sắc bass được tạo ra từ synthesizer, nhưng từ sự chi tiết và cách chuyển biến trong âm thanh, tôi có thể nghe ra những khoảng ngắt tinh vi chỉ xuất hiện khi có ngón tay con người gảy đàn.
Một âm thanh cô độc đến nhường này, liệu có thật sự tồn tại không?
Đúng, là cô độc. Tôi không thể nghĩ ra một từ nào khác để miêu tả nó.
Bên ngoài âm thanh ấy chẳng có gì cả. Không màu sắc, ánh sáng hay mùi vị, không một vệt bóng, thậm chí không có cả không khí.
Một âm thanh vốn dĩ sẽ tan biến hoàn toàn trước khi kịp đến được nơi nào đó, giờ đây lại được niêm phong trong dữ liệu ghi âm và truyền đến tai tôi.
Tôi tháo tai nghe, vò rối mái tóc và thở dài. Đồng hồ đã điểm quá nửa đêm.
Đã ba ngày kể từ khi đợt tập huấn kết thúc.
Nhịp sinh hoạt bị đảo lộn vẫn chưa hề quay lại quỹ đạo.
Sáng sớm đã thức giấc, sau bữa trưa thì buồn ngủ rũ rượi nên phải ngủ một giấc dài, đến đêm lại chẳng tài nào chợp mắt được, đó chính là hiện trạng của tôi.
Nhưng nghỉ hè vẫn còn hơn nửa tháng nữa, bây giờ không cần quá để tâm, cứ tiếp tục thức khuya cũng được.
Quan trọng hơn là, việc biên khúc vẫn chưa xong.
Đây là bản demo mà chúng tôi định đăng lên trang giới thiệu cho chiến dịch gây quỹ cộng đồng.
Ca khúc đã được quyết định rất suôn sẻ trong đợt tập huấn.
Chính bản nhạc này sau khi đăng tải lên trang web video đã có lượt xem tăng vọt, giúp danh tiếng của chúng tôi được đẩy lên cao trong một cú hích, và cũng vì thế mà trở thành cơ duyên thành lập PNO.
Nó là ca khúc debut trên thực tế của chúng tôi, nên nếu nói bài nào nổi tiếng nhất thì chắc chắn là nó rồi.
Hơn nữa, so với các ca khúc sau này, cấu trúc của nó khá đơn giản, giúp việc thu âm nhanh và tiết kiệm hơn.
Chính vì yếu tố quan trọng này mà cả năm chúng tôi đã nhất trí lựa chọn.
Thế nhưng, khi thử thu âm tại phòng tập trong biệt thự, tôi lại cảm thấy tiếng bass lạc lõng đến kỳ lạ.
Tôi đã tưởng là do mình chơi tệ, nhưng ngay cả khi để Kaya chơi, cảm giác lạc lõng ấy vẫn chẳng thể biến mất.
Ngược lại, vì tôi có thể chuyên tâm vào việc thu âm nên lại càng ghi lại rõ hơn, khiến cảm giác đó càng trở nên rõ rệt.
Thứ chúng tôi cần… là một âm thanh lạnh lẽo hơn, vô cảm hơn.
“Tớ lại thấy cả Makoto-kun và Kaya-chan chơi đều hoàn toàn không có vấn đề gì.”
“Ể, a, em chơi không đúng sao ạ…? Có lẽ không nên bắt chước hoàn toàn cách chơi của senpai thì tốt hơn…?”
“Cậu không nói rõ ràng hơn thì bọn tôi không hiểu được. Tôi nghe thấy rất hợp mà.”
“Có phải tiếng kick drum của tớ mạnh quá không? Tớ đánh trống như vậy có được không? Ừm…”
Ngoài tôi ra, bốn người còn lại đều không hiểu được vấn đề nằm ở đâu.
Nhìn chung, đợt tập huấn rất trọn vẹn và vui vẻ, nhưng tôi đã trở về Tokyo với một cục tức không tên kỳ lạ trong lòng.
Chuyện gây quỹ cộng đồng tiến triển vô cùng thuận lợi.
Sau khi nói với Kurokawa-san, chị ấy liền bảo “Để công ty làm sẽ tốt hơn”, rồi đứng ra lo liệu hầu hết các thủ tục cho chúng tôi.
Không cần bố mẹ chuẩn bị tài khoản ngân hàng và giấy đồng ý, thật sự cảm ơn chị ấy rất nhiều.
Về phía phòng thu, cũng được Kyoko-san giúp giới thiệu, chúng tôi đã đặt được phòng thu số hai của “Victoria Fall” trong hai ngày vào cuối tháng Tám, phần mix nhạc cũng sẽ nhờ Inamori-san đảm nhiệm.
Việc còn lại chỉ là cố gắng hết sức để hoàn thiện ca khúc trước khi thu âm chính thức—
Vào đúng lúc này, tôi lại gặp phải một nút thắt tuyệt vọng trong việc điều chỉnh âm bass.
Để tìm kiếm bất kỳ manh mối nào, tôi đã nghe lại từ đầu đến cuối kho nhạc ở nhà.
Từ những album từng yêu thích, những bài hát mới của những nghệ sĩ mà tôi còn chẳng biết tên xuất hiện trong mục đề xuất của dịch vụ nghe nhạc trực tuyến, cho đến những đĩa nhạc rock cũ từ mấy chục năm trước mượn của bố.
Trong số đó, tôi đã tìm thấy chiếc USB ấy.
Lúc đầu, tôi không thể nhớ ra đây là nguồn nhạc gì, vì tên tệp hoặc là một dãy số đơn giản trông như ngày tháng, hoặc là hai ba chữ cái tiếng Anh mà tôi cũng không biết là viết tắt của cái gì.
Nhưng, khi chọn một tệp và mở lên nghe, ký ức liền lập tức ùa về.
Là Shida Shun.
Mùa đông năm ngoái, tôi và Kuboi Takuto-san đã từng cùng nhau sản xuất một ca khúc, và Shida Shun chính là một tác giả khác của bài hát đó.
Chiếc USB này đã qua bao trắc trở mới được giao đến tay tôi, bên trong chứa đầy những dữ liệu thu âm và ghi chú hỗn tạp.
Một nỗi buồn day dứt như thiêu đốt lồng ngực trào lên trong miệng cùng với vị nước bọt đắng chát, tôi lần lượt mở từng tệp—
Và rồi, tôi đã nghe thấy âm thanh đó.
Tôi lập tức cảm thấy, mình đã tìm thấy rồi. Thứ tôi muốn chính là nó.
Nhưng, đây rốt cuộc là nguồn nhạc gì?
Vô số dữ liệu mà Shida Shun để lại hoàn toàn chưa được sắp xếp, cũng không có dòng giải thích rõ ràng nào.
Có lẽ những tệp này chỉ có mình anh ta dùng, nên cũng không cần người khác phải hiểu.
Bên trong máy tính của tôi cũng gần như vậy, nên tôi không thể phàn nàn gì anh ta được.
Tuy nhiên, thế này thì phiền rồi.
Lấy âm thanh bass này làm sample sao?
Không— làm vậy không được.
Thứ tôi muốn không phải là bản thân âm thanh này, mà là muốn tái hiện lại cảm giác cô độc như bị đày ải vào một không gian chân không thông qua bàn tay của tôi hoặc Kaya.
Nếu không quan tâm đến việc nhịp điệu biến mất, thì vốn chẳng cần tham khảo nguồn nhạc này, dùng synthesizer cũng có thể dễ dàng tạo ra âm thanh tương tự.
Đúng vậy, nhịp điệu vẫn sống động. Âm thanh này thật sự kỳ diệu, giống như một sinh mệnh lạ kỳ, tồn tại trong một không gian vũ trụ không có ánh sáng, nước và không khí.
Hay là thử hỏi bố mẹ của Shida Shun xem sao?
Xem họ có biết gì về nguồn nhạc này không.
Không, chắc là vô vọng. Dù chính bố của Shida Shun đã đưa chiếc USB này cho tôi, nhưng ông ấy có vẻ hoàn toàn không rành về âm nhạc, cũng như công việc của con trai mình.
Còn mẹ anh ta, tuy chưa từng gặp mặt, nhưng chắc cũng tương tự.
Tôi dùng điện thoại kiểm tra lịch trình, rồi tự nhắc nhở bản thân: không còn nhiều thời gian cho đến ngày thu âm chính thức nữa rồi.
Khác với việc được chơi tùy thích trong phòng thu số 2 của “Victoria Fall” nhờ lòng tốt của Kyoko-san, lần này là chúng tôi tự bỏ tiền ra thuê, đến phòng thu rồi thì không có thời gian để chỉnh tới sửa lui phần biên khúc nữa.
Đã đến nước này mà còn nói “âm bass chưa quyết định được” thì thật quá thiếu ý thức về sự cấp bách.
Tôi hiểu. Dù hiểu là vậy…
Nếu không có bất kỳ manh mối nào, có lẽ tôi sẽ thỏa hiệp, dẹp bỏ ý nghĩ này và đón chờ ngày thu âm.
Thế nhưng, tôi đã tìm thấy nó. Giờ tôi đã không thể coi như nó không tồn tại được nữa.
Kiểm tra nhóm LINE của ban nhạc, tôi thấy đã có không ít tin nhắn chưa đọc.
“Không sắp xếp lịch tập à?”
“Em đã thu vài bản bass khác nhau, không biết có phải là âm thanh mà senpai muốn không.”
“Phiền não là một phần công việc của Murase-kun, bọn tôi không có gì để nói, nhưng nói trước là cậu định phiền não trong bao lâu.”
“Luyện tập riêng với em theo nhóm nhịp điệu thì sao ạ!”
Quả nhiên mọi người đều đang sốt ruột. Cũng phải thôi.
“Trước cuối tuần này tôi sẽ tìm cách giải quyết—” tôi viết ra một lời hứa vô căn cứ.
Sau đó, tôi tải đoạn âm thanh solo bass kỳ diệu đó lên, chia sẻ cho các thành viên trong ban nhạc.
“Cái này, mọi người thấy sao? Tôi không biết âm thanh này được tạo ra như thế nào, nhưng tôi muốn dùng một âm thanh như vậy.”
Chỉ ba mươi giây ngắn ngủi sau, tôi đã nhận được hồi âm đầu tiên, là của Rinko.
Cô ấy có vẻ vẫn còn thức khuya.
“Biết tìm bọn tôi bàn bạc đàng hoàng về chuyện âm nhạc, Murase-kun cũng xem như có chút trưởng thành rồi.”
Xin lỗi, tôi thầm nghĩ rồi cúi rạp người trong phòng tạ lỗi.
Cứ tiếp tục tùy hứng thế này, có lẽ chẳng cần đợi tôi ruồng bỏ ban nhạc, mà tôi đã bị mọi người ruồng bỏ trước rồi.
Mà trong lòng lại cảm thấy như thế có thể giảm bớt đi một chút cảm giác tội lỗi, tôi thật hết thuốc chữa.
Đừng vướng bận vào những vọng tưởng vô vị này nữa.
Việc cần làm bây giờ là tìm ra lai lịch của âm thanh này.
Liệu có ai biết gì không…
Lúc này, người mà tôi có thể nghĩ đến chỉ có một.
Dù không cam tâm cho lắm, nhưng tôi vẫn mở hộp thư, nhấp vào địa chỉ của “Kuboi Takuto” và viết một email.
“Mùa hè ở Nhật đúng là một cơn ác mộng, tôi hối hận vì đã chuyển đến đây rồi.”
Takt-san đã lâu không gặp vừa mới chạm mặt tôi đã không ngừng than vãn.
“Không phải anh là người Nhật sao?”
“Hồi nhỏ tôi chỉ sống ở đây một thời gian ngắn thôi. Rất nhanh đã bị ông già đưa sang Canada, rồi từ đó lại chuyển đến London, sau đó thì sống luôn ở đấy. Khoảng mười năm trước từng có một lần định chuyển cứ điểm về Nhật, nhưng lúc đó trời đâu có nóng đến chết người như bây giờ.”
“Đúng vậy ạ, hình như vì hiệu ứng nhà kính nên thời tiết ngày càng nóng hơn… À, anh nói chuyển đến, tức là anh lại đặt cứ điểm ở Nhật rồi ạ.”
“Dù sao thì cũng phải debut ở bên này. Đợi đến lúc bắt đầu lên sân khấu biểu diễn rồi thì không thể chạy qua chạy lại giữa hai đầu Trái Đất được.”
Cuối cùng cũng debut rồi sao, tôi vô cùng xúc động.
Sau khi gửi email đó, ngay ngày hôm sau tôi đã gặp được Takt-san.
Anh ấy gọi tôi đến Minami-Aoyama, địa điểm là một phòng tập nhảy thuộc một công ty quản lý.
Takt-san đã lâu không gặp cắt tóc ngắn đi một chút, càng toát lên vẻ sắc bén.
Anh ấy mặc áo ba lỗ và quần lửng rộng thùng thình, từ đầu đến chân kể cả giày đều là một màu trắng tinh, nhưng hoàn toàn không mang lại ấn tượng sảng khoái, gọn gàng hay năng động.
Ngược lại, điều đầu tiên khiến tôi nghĩ đến là “giống như một sát thủ”, thật là một nhân vật có khí chất đặc biệt.
“Thế giải quyết chuyện của cậu trước đã. Nguồn nhạc của Shida-san ấy.”
Takt-san cầm điện thoại của mình lên nói.
“Thứ cậu tải lên tôi đã nghe rồi, nhưng không có ấn tượng. Vả lại tôi với người đó cũng không qua lại nhiều, không rõ lắm về các hoạt động khác của anh ta.”
“Ồ…”
Tôi đã lờ mờ nghĩ sẽ là như vậy, lúc liên lạc với anh ấy cũng không ôm hy vọng quá lớn, nhưng đã đặc biệt gọi tôi đến đây, chẳng phải sẽ khiến tôi cảm thấy anh ấy có thông tin gì sao?
Nếu chỉ kết thúc bằng một câu “không biết”, thì cớ gì còn gọi tôi đến Aoyama làm gì…
“Với lại, tôi không hiểu tại sao cậu lại cố chấp với cái này. Cảm giác của âm thanh đúng là có chút đặc biệt, nhưng cũng chỉ là một đoạn solo bass bình thường thôi mà?”
Tôi cúi đầu.
Sáng nay xem những gì các thành viên ban nhạc viết cũng là những phản ứng tương tự.
Nghe thì nghe rồi nhưng không hiểu hay ở chỗ nào, không thể dùng effector tái hiện được sao, không thấy có điểm gì đáng để cố chấp, không rành kỹ thuật thu âm nên không nói được gì, vân vân…
“Dù cảm thấy tôi nói câu này cũng không thích hợp cho lắm,”
Anh ấy, người thường ngày luôn nói năng không chút kiêng dè, lại hiếm hoi mở lời một cách dè dặt.
“Cậu không phải là bị Shida-san ám rồi đấy chứ.”
“Bị ám…”
“Người ta dù sao cũng đã chết rồi. Cậu không thể hỏi chuyện, cũng chẳng thể hợp tấu, nên muốn tưởng tượng ra tiếng đàn kỳ quái đến đâu mà chẳng được. Chẳng phải đó là những gì cậu đang làm sao? Trước đây tôi đã cảm thấy, cậu và Shida-san có một chút tương đồng, nên có lẽ càng dễ bị thu hút hơn.”
Tôi ngồi lún sâu xuống chiếc ghế ống thép, chìm vào suy tư.
Có lẽ Takt-san nói không sai.
Đánh giá quá cao người đã khuất. Nếu ở trong một thế giới chỉ được tạo nên bởi trí tưởng tượng, thì cảnh giới của âm nhạc muốn cao đến đâu cũng được.
Nhưng, tôi thầm nghĩ.
Nguồn nhạc đó là có thật.
Tôi đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần, và lần nào cũng có cùng một ấn tượng.
Âm thanh đó rất đặc biệt, không phải là vọng tưởng của tôi.
“Thôi kệ, ban nhạc của các cậu gặp vấn đề lớn đến đâu cũng chẳng liên quan đến tôi. Ca khúc tôi nhờ cậu viết cũng nhận được rồi, các cậu muốn phiền não thế nào thì tùy.”
Tôi ngẩng đầu lên.
“…À à, cái đó, hôm nay cũng phải nói về chuyện đó ạ. …Ca khúc đó có được không ạ?”
Vào mùa xuân, tôi đã nhận lời ủy thác sáng tác của Takt-san.
Sau khi giao bản hoàn chỉnh đầu tiên, tôi nhận được hồi âm là “bài hát không tệ nhưng hoàn toàn không phải thứ tôi muốn” và bị loại bỏ.
Tôi đã dốc hết tâm huyết để viết bài thứ hai, sau khi giao cho anh ấy thì không có tin tức gì nữa.
Hôm nay được gọi đến quả nhiên là để tiện nói về chuyện này.
“Tôi sẽ dùng nó làm single debut.”
Giọng anh ấy quá đỗi bình thản, có một thoáng tôi còn tưởng anh ấy nói là “làm lại đi”.
“…Hả, à, …vâng ạ. …Cảm ơn anh rất nhiều.”
Thật là một vinh hạnh lớn. Dù tôi mong là anh ấy có thể nói một cách vui vẻ hơn.
“Mấy lão già đó nói muốn dùng một bài hát tươi vui hơn làm single, thuyết phục họ tốn không ít công sức, kéo dài đến tận bây giờ mới quyết định được.”
Tôi có thể hiểu được cảm giác đó. Dù chính tôi là người sáng tác cũng tự tin về ca khúc đó, nhưng hoàn toàn không thể tưởng tượng được việc dùng nó trong quảng cáo TV, cũng không thể hình dung được nó sẽ ra sao khi kết hợp với một bộ phim truyền hình, nó chính là một ca khúc như vậy.
Takt-san đứng dậy khỏi chiếc ghế ống thép, thao tác trên điện thoại rồi đặt nó lên ghế, sau đó bước đến trước gương, cúi đầu vào tư thế.
Nhịp điệu bắt đầu chạy.
Dù chỉ là âm lượng mỏng manh từ điện thoại, nhưng chỉ cần nghe đoạn dạo đầu là tôi lập tức nhận ra, đó là ca khúc tôi đã viết cho Takt-san.
Nhịp điệu phức hợp bất ổn vang lên— rõ ràng là đang chạy lên những bậc thang trong một màn đêm đen kịt, nhưng lại bị mắc kẹt trong cảm giác rơi xuống không hồi kết.
Tứ chi được giải phóng khỏi thân thể của Takt-san.
Tôi đã từng đọc ở đâu đó rằng, vũ đạo là “âm nhạc hữu hình”.
Giờ đây sự thật này đang bày ra trước mắt tôi với một sức thuyết phục không thể chối cãi.
Một cái vung tay, một chuỗi bước nhảy của Takt-san, những ngón tay xuyên qua hư không và ánh mắt cắt ngang tầm nhìn, tất cả đều khiến cho âm lượng yếu ớt truyền vào tai tôi được tăng lên gấp ngàn lần ánh sáng, hóa thành một trận hồng thủy nhấn chìm tôi.
Takt-san bắt đầu cất tiếng hát. Giọng hát của tôi trong bản demo bị anh ấy nghiền nát, xay thành bột, hóa thành tro.
Trong lúc bị giọng hát đánh gục, trong lòng tôi vẫn nghĩ về chuyện của Shida Shun.
Đối với người mà tôi chưa từng gặp mặt, cũng chưa từng trò chuyện này, tôi cảm thấy mình có thể hiểu được tâm trạng của anh.
Trong ca khúc chưa được công bố mà anh để lại, ẩn chứa một lời nguyện cầu và sự nôn nóng mãnh liệt— mặc dù biết rằng con mãnh thú hung bạo quá đỗi xinh đẹp trước mắt không thể thuộc về bất kỳ sự tồn tại nào, nhưng vẫn muốn tìm mọi cách để kết nối nó với lãnh địa của đời sống con người— cả ca khúc tràn ngập một tâm trạng cấp bách đến vậy, khiến người ta không sao kiềm chế được thôi thúc cào cấu lồng ngực.
Nhưng, anh đã thất bại.
Mất đi giọng hát này, đã không còn cơ hội nào nữa—
Khi tôi hoàn hồn, điệu nhảy của Takt-san đã dừng lại.
Chiếc điện thoại cũng im bặt.
“…Cậu hiểu rồi chứ?”
Anh ấy cầm lấy chai nhựa, uống một ngụm nước rồi nói.
“…Ể? Ờm,”
Takt-san nhíu mày.
“Cậu xem là hiểu rồi chứ, ngoài việc làm single debut ra thì không còn lựa chọn nào khác.”
“…Ồ, ờm, cái đó,”
“Sao thế, ngẩn ra cái gì, cậu có xem nghiêm túc không đấy?”
“Xin lỗi anh, dù có xem, …nhưng mà, tôi đã nghĩ một chút về chuyện của Shida Shun-san.”
Biểu cảm của Takt-san càng trở nên méo mó.
“Nghĩ gì?”
“Không phải, ý tôi là… Thực ra đáng lẽ Shida-san phải là người phụ trách sản xuất ca khúc debut của anh, mà ca khúc đó lại bị tôi tự ý thay đổi, bây giờ tôi lại viết cho anh một ca khúc debut khác, nên nói là lo lắng… không biết Shida-san sẽ nghĩ gì ạ…”
“Anh ta có gì mà nghĩ. Người chết rồi.”
Takt-san nói một cách đanh thép.
“Tôi không muốn nghe người ta nói nhảm về việc người chết vui vẻ trên thiên đường hay khóc lóc dưới suối vàng đâu. Chết là hết. Không suy nghĩ cũng không nói chuyện được. Bị người chết ám, là nói những người như cậu đấy.”
Tôi lại chán nản cúi đầu.
“…Vâng ạ. Xin lỗi anh.”
Takt-san lẩm bẩm với khuôn mặt nghiêng của mình phản chiếu trong gương:
“Bất kể Shida-san dưới lòng đất có ra sao, giá trị âm nhạc của tôi và của cậu cũng không thể nào thay đổi. Tôi quyết định sẽ dùng ca khúc này làm single debut. Nó không liên quan đến bất cứ thứ gì, phát hành sau bất kỳ ca khúc nào cũng sẽ bị cô lập vì lạc lõng. Là một ca khúc đã đi đến tận cùng. Nếu đã vậy, chỉ có thể đặt nó ở điểm khởi đầu.”
“…Ồ. Xin lỗi anh, đã viết cho anh một ca khúc kỳ lạ.”
“Xin lỗi cái gì, tôi đang khen cậu đấy.”
Lời khen của người này vẫn khó hiểu như mọi khi.
“Lấy cái này làm ca khúc debut cậu cũng không có ý kiến gì chứ?”
“Ể? Ồ, đó là đương nhiên ạ. Tôi rất vui.”
Lúc này nói như vậy nghe có vẻ hời hợt, nhưng đó cũng là suy nghĩ thật của tôi.
Dù sao thì tác phẩm của mình cũng có thể đồng hành cùng một người tài năng như vậy ra mắt trong thế giới âm nhạc.
“Mấy chuyện hợp đồng lằng nhằng, sau này Niijima-san sẽ liên lạc với cậu qua email.”
Niijima-san, là nói đến người đại diện tài năng chăm lo cho Takt-san.
“Tên người sáng tác dùng gì? Vẫn dùng tên thật như trước được không?”
“Ừm, không sao ạ.”
“Tốt nhất là cậu nên nghĩ ngay một cái tên dễ dùng ở nước ngoài đi. Như tôi đây, họ ‘Kuboi’ bị người ta đọc thành kỳ quặc, may mà ‘Takuto’ ở khu vực ngôn ngữ nào cũng dễ đọc, nên tôi vẫn luôn dùng tên này.”
“Tôi vẫn chưa nghĩ đến chuyện hoạt động ở nước ngoài…”
“Dù cậu không nghĩ, người khác cũng sẽ xem video trên mạng, nên cậu đã bước ra nước ngoài rồi đấy. Nếu không muốn bị người ta đặt cho biệt danh kỳ quặc, thì tự mình suy nghĩ cho kỹ đi. Đặc biệt là fan ở nước ngoài của cậu đều tưởng cậu là con gái.”
Ể? Đây là lần đầu tiên tôi nghe chuyện này đó?
Mà nói mới nhớ, tôi có fan ở nước ngoài à?
“Thế còn PNX thì sao? Không phải là tên lúc cậu hoạt động solo à?”
Bị hỏi đột ngột, tôi chớp mắt.
“PNX là gì ạ?”
Chính tôi còn chưa từng nghe qua.
“Thời gian trước, lúc cậu tổ chức live solo ở nhà thi đấu không phải đã dùng cái tên đó sao?”
Nghe đến đây tôi vẫn chưa hiểu ra, vò đầu suy nghĩ một lúc mới nhớ lại được.
“À— là Paradise Noise eXtra ạ. Đó là cái tên công ty giải trí tự ý đặt.”
“Hừ. Cứ tưởng sau này hoạt động solo cậu sẽ dùng cái tên đó.”
“Hiện tại tôi không có dự định đó…”
“Nhưng sớm muộn gì cũng rời ban nhạc thôi.”
Tôi không nói một lời, chỉ nhìn chằm chằm vào miệng của Takt-san.
Đôi môi ấy mang một sắc màu chẳng lành, như thể nhỏ mực đen, tím và xám lên bảng pha màu, rồi dùng bút khuấy đi khuấy lại một lần duy nhất.
Anh ấy đột nhiên nói gì vậy?
Tôi đâu có định rời nhóm.
Ban nhạc là do tôi bắt đầu, hơn nữa còn tìm được những thành viên lý tưởng như vậy.
Những lời trống rỗng chỉ vang vọng bên trong tôi, không chịu thoát ra thế giới bên ngoài.
Hơn ai hết, tôi biết rõ đây là một lời nói dối vô vị, nên mới không thể cất lời.
Tôi nuốt lời nói dối xuống, thốt ra một sự thật phủ đầy gai nhọn:
“Trong thời gian tới tôi sẽ không rời nhóm.”
“Vào cái thời điểm quyết định sẽ rời đi, thì cũng chẳng khác gì đã rời đi rồi, đúng không?”
Có lẽ là không sai. Trên tấm kính đã xuất hiện một vết nứt vô hình, có lẽ sau đó chỉ còn chờ đến khoảnh khắc nó vỡ tan.
“…Tại sao tôi lại rời nhóm chứ? Rõ ràng không cần phải làm vậy. Mọi người hòa thuận, buổi diễn bán hết vé, mà đánh giá cũng rất tốt.”
Takt-san hé miệng nhìn tôi chằm chằm, vẻ mặt như thể vừa vô tình nuốt sống phải một con chuột.
“…Hả? Cậu nói gì thế? Cậu còn không biết thì làm sao tôi biết được. Tự mình định rời nhóm mà lại không biết tại sao? Còn có chuyện ngu ngốc như vậy sao?”
Cũng phải thôi, phản ứng của anh ấy là đương nhiên. Tôi đảo mắt nhìn lung tung rồi nói:
“Cũng không phải là đã quyết định rồi, chỉ là trong lòng cảm thấy sau này có lẽ sẽ rời nhóm. Nhưng đó không giống như dự cảm, mà gần với sự chắc chắn hơn… dù tôi không biết lý do…”
“Thật khó hiểu. Tội nghiệp cho những người trong ban nhạc của cậu quá, vậy mà họ cũng chịu được việc lập ban nhạc cùng một kẻ khó hiểu thế này.”
Lời nói sắc bén của Takt-san đã vượt qua cả gai nhọn và dao kiếm, nó giống như một lưỡi cưa máy.
“Tôi nói trước những lời khó nghe đây. Sau này sáng tác hay thu âm tôi vẫn sẽ tìm cậu, có thể còn muốn cậu tham gia hợp tác làm gì đó, thậm chí là cùng biểu diễn, nhưng cậu tuyệt đối đừng có nhắc đến chuyện lập thành một nhóm gì cả. Đừng lôi tôi vào mấy chuyện khó hiểu của cậu.”
*
Hôm sau, tôi ghé qua “Victoria Fall”.
Tôi đến đây vừa để chào hỏi Kyoko-san và Inamori-san, vừa để được tận mắt chứng kiến những người chuyên nghiệp làm việc trong phòng thu.
Giai đoạn tháng trước, khi còn chưa chọn xong bài hát, Kyoko-san và mọi người vẫn còn có thể thảnh thơi cho tôi mượn phòng thu đã thuê trọn cả tháng, nhưng buổi sáng hôm nay, chị ấy lại tỏ ra một sự tập trung đáng kinh ngạc, khiến kẻ ngoài cuộc như tôi chỉ có thể thu mình vào một góc phòng điều khiển, cố gắng không gây thêm phiền phức.
Tại đây, tôi một lần nữa cảm nhận sâu sắc được giới nhạc sĩ chuyên nghiệp cừ khôi đến mức nào.
Thực lực của Kyoko-san và Chigusa-san, tôi đã từng nghe qua đĩa và xem trong các buổi biểu diễn trực tiếp nên rất hiểu, nhưng lần này người khiến tôi kinh ngạc lại là những nhạc công hỗ trợ chơi guitar, keyboard, bass… E rằng họ đều là những nhạc công phòng thu, chuyên làm những công việc không mấy khi lộ diện.
Một kẻ kiến thức nông cạn như tôi hoàn toàn không biết mặt cũng chẳng biết tên họ, nhưng màn trình diễn của họ khiến tôi phải sững sờ thán phục.
Ngay cả khi chỉ trao đổi ngắn gọn với Kyoko-san và nhà sản xuất, nghe những yêu cầu mơ hồ, họ vẫn có thể bước vào phòng thu và ngay lập tức trình diễn một cách khiến mọi người hài lòng chỉ trong một lần.
“Nhạc công phòng thu ấy à, nếu nói về trình độ thì ai cũng điêu luyện gần như nhau cả.”
Trong lúc nghỉ giải lao, Inamori-san nói với tôi.
“Dù vậy, số tiền mỗi người kiếm được lại hoàn toàn khác nhau. Có người khiến nhà tuyển dụng lần sau cũng muốn tìm đến, có người lại không, sự khác biệt giữa hai bên rất rõ ràng. Nếu hỏi một nhạc công hàng đầu mạnh ở điểm nào ư—”
Qua lớp kính cách âm dày, Inamori-san vừa nhìn tay bass và keyboard trong phòng thu vừa khẽ nói:
“Nằm ở khả năng phản hồi và sức tưởng tượng, phải xem họ có đủ hai yếu tố đó không. Ví dụ như xe hơi, nếu chạy trên đường thẳng, chỉ cần nhấn ga là xe nào cũng đạt được một tốc độ nhất định, đúng chứ. Điều quan trọng không nằm ở tốc độ tối đa, mà là hiệu suất tăng tốc, phanh, sự linh hoạt khi vào cua, và quan trọng nhất là ngồi trên xe có cảm thấy phấn khích hay không.”
Tiếp đó, ông hơi hạ giọng, cười một cách ranh mãnh rồi nói thêm:
“Ngoài ra, nếu không thể thu xong trong một lần thì thời hạn và ngân sách đều sẽ bị ảnh hưởng. Về phía nhà tuyển dụng, họ cũng muốn tìm những người có thể đáp ứng ngay lập tức khi được yêu cầu, cũng là chuyện dễ hiểu thôi.”
U wa. Đây đúng là một vấn đề thực tế.
“…Nếu là tôi thì tuyệt đối không làm được…”
Nghe tôi bất giác nói ra lời thật lòng, Inamori-san bật cười.
“A ha ha, phải đấy. Nói thật là tôi cũng thấy Murase-kun không làm được. Theo đuổi thứ âm nhạc mình muốn lại là một kỹ năng khác rồi. Nếu nói vậy thì Kyoko-san cũng không làm được đâu. Chigusa-san thì có thể, và quả thực chị ấy cũng thường được những nơi khác mời đến trình diễn.”
Tôi nhìn chằm chằm vào phòng thu bên kia tấm kính và thầm nghĩ, âm nhạc quả thực cần sự tham gia của rất nhiều người khác nhau mới có thể thành hình.
Đến giờ nghỉ, tôi cẩn trọng lên tiếng.
“À, có một bản thu âm cháu muốn mọi người nghe thử…”
Tôi cắm chiếc USB của Shida Shun vào máy tính, dùng dàn âm thanh trong phòng nghỉ để phát cho tất cả mọi người có mặt ở đó cùng nghe đoạn độc tấu bass kỳ diệu kia.
Ngoài ra, tôi cũng kể sơ qua đầu đuôi câu chuyện.
Rằng âm bass mãi không chốt được, trong lúc tìm kiếm khắp nơi thì phát hiện ra âm thanh này.
Dù rất muốn biết nó được tạo ra như thế nào nhưng mãi vẫn không thể tìm ra.
Tôi đã không nói ra cái tên Shida Shun. Vì rất khó để giải thích mối quan hệ giữa tôi và anh ấy, nếu kể chi tiết thì giờ nghỉ cũng hết mất.
“Âm thanh đúng là lạ thật.”
Inamori-san là người lên tiếng đầu tiên.
“Thu hoàn toàn không có tiếng vọng, thậm chí còn hơi quá đà. Làm thế nào mà ra được thế này nhỉ.”
“Không phải là âm sắc tạo ra từ synthesizer sao?”
“Không phải, là tiếng gảy đàn. Liệu có phải vì khử nhiễu triệt để nên mới thành ra thế này không?”
Tay bass và keyboard bắt đầu thảo luận.
“Nghe mà thấy nổi cả da gà.” Chigusa-san ôm lấy đôi vai trần lộ ra ngoài chiếc áo ba lỗ như thể sợ lạnh.
“Cái này, cảm giác trống đánh kiểu gì cũng không hợp.”
Kyoko-san từ đầu đến cuối không nói một lời.
Khoảng tám giờ tối, phần thu âm nhạc đệm kết thúc, họ quyết định sẽ thu âm giọng hát sau bữa tối.
Dù rất muốn xem tiếp nhưng tôi không thể ở lại đến khuya nên đành bỏ cuộc và chào tạm biệt mọi người.
“Thiếu niên, đi ăn tối cùng nhau nhé?”
Kyoko-san nói rồi dẫn tôi rời khỏi phòng thu. Chigusa-san nói muốn ở lại để kiểm tra bản thu trống, thế là chỉ còn tôi và Kyoko-san.
Đến quán cà phê trước nhà ga, tôi gọi sandwich và trà đá.
Kyoko-san nói “tôi không có khẩu vị lắm” nên chỉ gọi cà phê.
Thế thì tại sao chị ấy lại rủ đi ăn tối cùng nhỉ.
“…Cái đó, có chuyện gì không ạ…?”
Chẳng lẽ—có chuyện gì muốn nói với tôi sao?
Tôi nắm lấy một đầu chiếc sandwich French toast nhưng không nhấc lên nổi, chờ đợi câu trả lời của chị.
“Có mùi của người chết đấy.”
Tim tôi giật thót. Ánh mắt Kyoko-san thoáng nét bi ai.
“Chính là bản thu âm mà cậu mang đến. Nếu tôi nói sai thì xin lỗi nhé.”
Tôi đưa miếng sandwich lên miệng, rồi lại dừng tay, đặt nó xuống đĩa.
Sau khi lặp lại hành động vô nghĩa đó hai lần, tôi thở dài, dùng trà làm ướt môi.
“…Shida Shun, chị có biết không ạ? Là một nhạc công phòng thu, hình như cũng làm cả sản xuất nữa.”
“Cảm giác đã nghe tên này ở đâu đó rồi. …Nhớ không lầm thì đã qua đời rồi thì phải.”
Đó là một người gần như vô danh trên thế gian này, việc Kyoko-san biết anh ấy khiến tôi vừa vui mừng lại vừa cảm thấy nặng trĩu trong lòng.
“Bài hát em hợp tác với Kubo Takt-san, chị có biết không ạ?”
“Ừm. Tôi nghe rồi.”
“Bài đó, ban đầu là do Shida Shun-san sản xuất cho Kubo-san, sau này bị xếp xó, trải qua quá trình làm lại mới có được bản đó.”
Nhìn biểu cảm của Kyoko-san, có vẻ chị ấy không biết chi tiết đến vậy.
Dĩ nhiên cái tên Shida Shun chắc chị ấy có để ý, nhưng không quan tâm đến những chi tiết nhỏ nhặt như thế.
“Trong quá trình làm lại, em đã nhận được từ người nhà của Shida-san một chiếc USB chứa đầy các bản thu âm, bản mà hôm nay em cho mọi người nghe cũng được tìm thấy trong đó.”
Kyoko-san gật đầu, từ từ uống cạn ly cà phê đá.
“Tôi cũng có một thời gian không thể buông bỏ người đã khuất.”
Những viên đá đọng lại dưới đáy ly, khoảng trống giữa chúng được lấp đầy bởi thứ chất lỏng màu hổ phách, trông như những mạch máu nhìn qua da.
Ngón tay Kyoko-san trượt trên bề mặt ly, lau đi những giọt nước, mạng lưới màu hổ phách càng hiện ra rõ nét hơn.
“Chỉ là tôi đã không còn biết, rốt cuộc đó là chuyện tốt hay xấu nữa rồi. …Suy cho cùng, dù là cuộc đời không gặp anh ấy, hay cuộc đời không mất đi anh ấy, tôi đều không thể trải nghiệm được.”
Tôi không thể nói được gì, cảm thấy mình không có tư cách để nói bất cứ điều gì.
Tôi không mất đi ai cả, chỉ là nhận lấy âm thanh từ một người đã ra đi mà thôi.
“Tôi từng nghĩ đó là người đàn ông tôi yêu nhất đời này, cũng là tay bass tôi ưng ý nhất đời này. Thế nên khi anh ấy chết, tôi đã nghĩ rằng có lẽ mình sẽ không bao giờ lập ban nhạc nữa. …Vậy mà chỉ ba năm ngắn ngủi sau đó, tôi đã gặp một người đàn ông dễ dàng thay thế vị trí ấy và lập một ban nhạc, thế nên nỗi sầu muộn của thiếu nữ kể cũng thật nông cạn làm sao.”
Kyoko-san “fufufu” mà cười. Tôi thầm thở phào nhẹ nhõm, không muốn bị chị phát hiện.
Chị có thể lái câu chuyện sang hướng nửa đùa nửa thật khiến tôi vô cùng biết ơn, nếu không chắc tôi đã bị không khí nặng nề này đè đến ngạt thở mất rồi.
“Nhưng rốt cuộc ban nhạc đó cũng không thể đi tiếp. Thật chẳng hiểu đâu là tốt đâu là xấu nữa. Tóm lại, sự thật là, tôi có thể cảm nhận được ở cậu lúc này một bầu không khí rất giống với người đã khuất, vô cùng nguy hiểm. Sự nguy hiểm này cũng mang theo cả sức hấp dẫn. Nhưng, suy cho cùng âm nhạc chỉ có người sống mới nghe được, thế nên vẫn phải quay về bên này thôi.”
Tôi khẽ gật đầu.
Lời của chị ấy, tôi có khoảng một nửa là không hiểu—đây cũng là điều hiển nhiên, vì tôi còn chưa hiểu được tình cảnh hiện tại của chính mình—và cũng không thể dùng những lời qua loa để đáp lại.
Nhưng, tôi cảm thấy mình phải hỏi điều gì đó.
Có lẽ, người này đã nhìn thấu rồi, rằng sớm muộn gì tôi cũng sẽ ruồng bỏ ban nhạc thân yêu của mình.
Sau một hồi do dự, cuối cùng tôi cũng lên tiếng:
“…Ban nhạc, tại sao lại tan rã… em có thể hỏi được không ạ?”
Kyoko-san bất động nhìn chằm chằm vào mặt tôi, rồi ngón tay chị nhẹ nhàng vươn tới vũng nước tròn dưới chân ly, viết gì đó lên mặt bàn.
Là một chuỗi ký tự.
Đó là tên ban nhạc của chị.
“Nói chính xác thì ban nhạc không tan rã, vẫn đang dùng tên cũ. Thời trung học có hai người rời đi, hai người còn lại vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.”
“À… ra là vậy ạ. Xin lỗi chị.”
Kyoko-san, và tay trống Chigusa-san. Hai người, đội hình tối thiểu của một ban nhạc rock.
Tôi quả thực có nghe nói họ từng tổ chức những buổi diễn chỉ có hai người.
“Nếu tan rã có lẽ sẽ nhẹ nhõm hơn. Đặt một cái tên mới, tìm những người đồng đội mới. Nhưng chúng tôi không muốn làm vậy, chúng tôi muốn tiếp tục bay chỉ bằng một bên cánh.”
Đến lúc này tôi mới nhận ra, người này là bên bị bỏ lại.
Có lẽ câu hỏi của tôi đã quá thiếu cân nhắc.
Thế nhưng, Kyoko-san vẫn mỉm cười đầy hoài niệm và nói tiếp:
“Hai người đó tại sao lại rời ban nhạc, nếu không hỏi chính họ thì sẽ không biết được lý do thực sự. Không, có lẽ chính họ cũng không biết nữa. Chúng tôi không hề rạn nứt đâu nhé, bây giờ quan hệ vẫn rất tốt.”
“A, vâng. Chuyện này em biết.”
Trong hai người rời đi, một người là nghệ sĩ dương cầm cổ điển, đồng thời cũng là một tay guitar siêu hạng, thỉnh thoảng sẽ tham gia biểu diễn cùng Kyoko-san với tư cách khách mời, họ còn cùng nhau ra một album nữa.
Người còn lại thì hoạt động solo, cũng là một nhà sản xuất nổi tiếng, nhớ không lầm thì đã từng viết nhạc cho Kyoko-san và sản xuất cho họ một album.
Mọi người đều tài năng ngời ngời, kiếm được tiền, quan hệ cũng tốt, và vẫn tiếp tục bước đi trên con đường âm nhạc—
Dù vậy, họ lại không thể tiếp tục với tư cách một ban nhạc.
“Về chuyện này, tôi quyết định sẽ nghĩ như thế này: đó là ban nhạc tuyệt vời nhất. Bốn con người tuyệt vời nhất gặp nhau và cuộc đời họ có một giao điểm ngắn ngủi. Việc bốn người đó tụ họp lại với nhau bản thân nó đã là bất thường, là một trạng thái không tự nhiên. Cho nên, bây giờ họ đã trở về với dáng vẻ tự nhiên, chỉ vậy mà thôi.”
Đây cũng là một cách suy nghĩ đấy, Kyoko-san cười và nói thêm.
Dù biết là tàn nhẫn, tôi vẫn hỏi câu cuối cùng:
“Nếu có thể, chị vẫn mong ban nhạc sẽ tiếp tục với bốn người, phải không ạ?”
“Đương nhiên rồi.” Kyoko-san đáp ngay lập tức. “Trong mơ, tôi thực sự mong nó có thể tiếp tục mãi mãi. Chỉ là bây giờ đã tỉnh mộng rồi, nên không cảm thấy muốn quay lại nữa.”
*
“…Hay là cứ giao cho Kaya cũng được nhỉ…”
Lâu lắm mới đến “Moon Echo” tập luyện, tôi chán nản nói.
Chính Kaya đang dừng tay chỉnh dây bass, mắt tròn xoe nhìn tôi.
“…Giao gì cho em ấy?”
Akane đang chỉnh micro quay đầu lại hỏi.
“Là âm sắc của bass ấy. Dù gì lúc thu âm cũng là Kaya chơi, nên tôi nghĩ có lẽ mình không cần phải câu nệ chuyện âm sắc nữa.”
Trong phút chốc, một sự im lặng nặng nề và căng thẳng bao trùm phòng tập, thật khó chịu.
Rinko đã chuẩn bị xong keyboard, lạnh lùng nói:
“Nếu Murase-kun đã quyết định vậy thì cũng được thôi.”
Giọng nói pha lẫn sự thất vọng.
“Haiz, dù gì cũng không còn thời gian nữa mà…”
Akane cũng bất lực nhún vai.
Shizuki bối rối nhìn tôi, dáng vẻ như muốn nói gì đó mấy lần rồi lại thôi, sau nhiều lần như vậy cuối cùng vẫn im lặng, chỉ không ngừng điều chỉnh góc độ của cymbal vốn đã được chỉnh xong từ lâu.
Thế nên, người bùng nổ là Kaya.
Cô bé tắt công tắc ampli bass, rút dây cáp ra, uể oải ngồi phịch xuống chiếc ghế đẩu, cúi gằm mặt.
“…Kaya?”
Tôi dè dặt lên tiếng.
“…Như vậy em không chơi được.”
Kaya thì thầm, giọng nói rơi lách tách xuống nền nhà chằng chịt những sợi dây cáp.
“Dù gì cũng là em chơi—nghe những lời như vậy… em không thể chơi được gì cả. Em cũng không phải thành viên chính thức, mà người nói lại là senpai. Khi senpai có một âm thanh mà anh nhất định muốn có, và âm thanh đó chỉ có em mới chơi được, lúc đó anh mới tùy hứng mà dùng đến em, không phải sao. Bây giờ anh lại dẹp bỏ sự tùy hứng đó và đẩy em ra phía trước, như vậy thì—”
Đối mặt trực diện với sự bùng nổ trong tĩnh lặng đó, tôi cũng bị chấn động đến tan nát bởi một sự tĩnh lặng tương tự.
“Như vậy… đâu còn là senpai nữa. Một senpai thật sự phải là người sẽ nói ‘vì không tìm được âm thanh mình muốn nên sẽ không thu âm nữa’ mới phải. Anh của bây giờ… không phải là senpai mà em biết. Em không thể chơi được.”
Sự im lặng bao trùm phòng tập trở nên đặc quánh như đất sét, tôi cũng ngồi bất động trên ghế.
Bên tai truyền đến một âm thanh khô khốc, như thể những thùng carton cứng cọ xát vào nhau.
Ai đó khẽ thở dài. Là Rinko. Cô ấy cũng tắt công tắc keyboard, kéo ghế ra giữa phòng rồi ngồi xuống.
Akane cũng đẩy công tắc ampli guitar sang OFF, đặt nhạc cụ yêu quý của mình lên giá đàn.
Shizuki thu mình sau bộ trống jazz.
“Tập luyện trong tình trạng này cũng vô nghĩa. Buổi tập hôm nay hủy, mọi người cùng nhau giúp Murase-kun tìm thứ cậu ấy muốn đi.”
Tôi ngây người nhìn Rinko, rồi lại nhìn xuống đôi tay hoàn toàn mất hết sức lực của mình.
“Phải đó, thứ mà có thể chơi theo tiềm thức thì luyện tập cũng vô dụng thôi.”
Akane cũng nói rồi ngồi phịch xuống sàn, duỗi thẳng hai chân.
“Nói là giúp, nhưng phải làm thế nào?”
“Chỉ còn cách mọi người cùng nghe lại bản thu âm lúc trước thôi. Biết đâu lại phát hiện ra điều gì đó.”
Rinko chỉ tay về phía chiếc laptop của tôi đang đặt trên ghế đẩu, phát ra thứ ánh sáng mỏi mệt.
Tôi một lần nữa nhìn quanh gương mặt của bốn cô gái.
Trên đó không có một chút thương hại, thương xót, tức giận hay bực bội.
Đó cũng không phải là sự từ bỏ, mà là một biểu cảm tha thiết hơn, không thể giải tỏa, và trong suốt như pha lê, tựa như đang chờ đợi một ngôi sao băng.
Tôi đứng dậy, tiến lại gần máy tính.
“Xin lỗi, đã làm mất thời gian của mọi người.”
Lúc này, nhìn thấy nụ cười hoàn toàn được chống đỡ bởi sự bao dung trên mặt Shizuki là điều khiến tôi khó chịu nhất.
“Xin đừng xin lỗi. Cuộc đời của chúng tôi đã hoàn toàn giao phó cho Makoto-kun rồi.”
Nặng nề quá. Với tâm trạng như sắp bị đè bẹp, tôi khuỵu gối, ghé sát vào màn hình máy tính và nhấp vào file âm thanh.
Đoạn độc tấu bass gở gở đó tôi đã nghe hàng trăm lần, giờ đây nó lại một lần nữa vang lên từ chiếc loa lớn trong phòng tập.
Lặp lại.
Lặp lại.
Và lặp lại.
Sau một khoảng thời gian trống rỗng, Kaya lại cắm cây Jazz Bass của mình vào ampli và bật điện, chơi lại y nguyên đoạn nhạc vừa nghe.
Chỉ nghe tiếng bass thì không biết là bài gì.
Có lẽ cũng không phải bài hát nào cả, chỉ là đang thử chơi lại những câu bass thường gặp.
Tôi dựng micro trước ampli bass, chuẩn bị thu âm.
Thu một lần, rồi mọi người lại cùng nhau nghe, một vòng lặp trống rỗng khác lại bắt đầu.
Trải một tấm chăn sau micro như rèm cửa để hấp thụ tiếng vọng, đổi sang loại micro có định hướng mạnh hơn, thu trực tiếp qua line-in rồi thêm giả lập cabinet... chúng tôi đã thử đủ mọi cách, nhưng hoàn toàn không thể đến gần được thứ âm thanh khó tin trong chiếc USB.
Tôi chợt nghĩ, chuyện này giống như việc xác nhận tử thi.
Không có mạch, không có nhịp tim, đồng tử hoàn toàn giãn ra.
Nhưng lại không biết danh tính người đã khuất.
Niềm an ủi duy nhất của tôi là bốn người còn lại hoàn toàn không tỏ ra từ bỏ hay mệt mỏi.
Mọi người chỉ chuyên tâm làm việc cần làm.
Sau khi đã thử hết tất cả những gì có thể, Rinko nói:
“Trong các file khác không có file nào tương tự sao? Biết đâu có thể tìm thêm manh mối.”
Cô ấy chỉ vào chiếc USB đang cắm bên hông laptop.
“Không, tôi không biết. Dù gì cũng quá nhiều file, mà tên file lại toàn là chữ cái và số, chắc chỉ có Shida-san mới hiểu được thôi—”
“Đã kiểm tra thời gian cập nhật của file chưa? Những file có thời gian gần nhau có thể có liên quan đấy.”
Nghe vậy, tôi chợt bừng tỉnh. Trước đây tôi chưa từng nghĩ đến điều này.
Tôi sắp xếp các file theo thời gian cập nhật.
Chỉ có một file duy nhất có thời gian cập nhật trùng với ngày của đoạn độc tấu bass kia.
Tôi run rẩy nhấp chuột.
Ban đầu—không có âm thanh nào, chỉ có thanh tiến trình từ từ nuốt chửng thời gian.
Có lẽ là file rỗng, hoặc mức âm lượng thu âm quá thấp?
Tôi vừa nghĩ vừa định đưa tay ra thao tác máy tính thì bốn tiếng đếm ngược khẽ vang lên.
Tiếp theo đó là tiếng arpeggio của guitar clean, tiếng hi-hat được dậm nhịp 2 & 4 ở phía xa, và cả giọng hát.
Là giọng nữ, tựa như chính ánh dương ngưng đọng thành những khối vàng óng giữa nơi chan hòa nắng ấm.
Đẹp đẽ, chói lọi, không có tình người, chỉ có cảm giác của ma thuật.
Tôi vặn âm lượng lên mức tối đa.
Không thể tin được. Tôi đã từng nghe giọng hát này.
Ngẩng đầu lên khỏi màn hình, trên gương mặt các cô gái cũng hiện lên vẻ kinh ngạc và say đắm.
Mọi người đều biết âm thanh này.
Nhưng, tại sao nó lại ở trong USB của Shida Shun?
Giọng hát yếu ớt cuối cùng biến thành tiếng cười, rồi thu lại, tan biến vào không trung.
Phần phát đã kết thúc.
File âm thanh chỉ dài hơn một phút. Chúng tôi lại nghe lại từ đầu.
Không thể nhầm được.
“…Đây là Umino Rikako mà, phải không?”
Sau khi nghe lần thứ hai, Akane là người lên tiếng đầu tiên.
Nghe vậy, trước tiên là Kaya gật đầu lia lịa.
Shizuki không biết đã lại gần từ lúc nào, gần như sắp dán mặt vào loa.
Rinko nhắm mắt, ý thức vẫn còn tập trung vào dư âm sau khi giọng hát đã kết thúc.
“…Là Umino Rikako phải không. Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Giọng hát độc đáo như vậy không thể có ở khắp nơi được. Tôi nghĩ không sai đâu.”
Ngay cả Rinko, người không mấy rành về nhạc pop, cũng nói một cách chắc chắn.
“Shida-san đó, có quan hệ gì với Umino Rikako không ạ. Ví dụ như đã từng làm việc cùng nhau chẳng hạn…?”
Nghe câu hỏi của Shizuki, tôi chỉ có thể khẽ lắc đầu. Không biết.
Bây giờ tôi vẫn biết rất ít về Shida Shun.
Umino Rikako—nữ ca sĩ nhạc soul đại diện cho Nhật Bản, một siêu sao có album bán chạy kỷ lục tại Nhật.
Chắc hẳn ai cũng đã từng nghe qua vài bài hát tiêu biểu của cô ấy.
Shida Shun là một nhân vật lớn có thể làm việc cùng một nghệ sĩ nổi tiếng như vậy sao?
Hay là họ có quan hệ riêng tư?
Tôi lấy điện thoại ra, tìm kiếm trên mạng.
Nhưng Shida Shun vốn dĩ là một nhạc công phòng thu chủ yếu làm việc hậu trường, gần như không để lại thông tin gì.
Ngược lại, Umino Rikako lại có hoạt động âm nhạc và đời tư vô cùng rực rỡ, tìm kiếm tên cô ấy cho ra hơn mười triệu kết quả.
Chỉ bằng một lượt tìm kiếm đơn giản, xem ra không thể tìm thấy mối liên hệ giữa hai người này.
Akane đến bên cạnh tôi, chen vào phía bên kia của máy tính và ngồi xổm xuống, nhìn chằm chằm vào vẻ mặt của tôi.
“…Vậy, phải làm sao đây? Tiếp theo sẽ đi hỏi Umino Rikako à?”
Giọng điệu của cậu ấy không giống như đang nói đùa hay chế nhạo, mà chỉ đơn thuần là xác nhận sự thật.
Đối phương là một nữ danh ca xa tận mây xanh, tôi và cô ấy đừng nói là quen biết, ngay cả một chút giao điểm cũng không có, vậy mà lại chạy đến hỏi cô ấy “cô có biết gì về bản thu âm này không”—
Akane tin chắc rằng, nếu là tôi thì tôi sẽ làm được.
“…Cảm giác cũng không còn manh mối nào khác rồi ạ…”
Kaya cũng vậy.
“Mà đây có thật là Umino Rikako không? Tuy lúc nãy nói rất chắc chắn, nhưng bây giờ em lại hơi thiếu tự tin rồi. Dù gì em cũng chưa nghe trọn vẹn bài hát nào của cô ấy cả.”
“Tôi nghĩ không sai đâu. Nhưng bản thu âm ở rất xa, âm thanh cũng lạ phải không. Biết đâu chỉ là đang phát bài hát của Umino Rikako rồi chơi nhạc đệm theo thôi.”
“Giữa chừng đã biến thành tiếng cười mà, không phải đã nghe thấy âm thanh giống như đối thoại sao? Còn thu được một chút giọng nói của đàn ông nữa. Có khi nào thật sự là thu âm cùng Umino Rikako không nhỉ.”
“A, đúng thật…”
“Giá như em có mối quan hệ thì tốt, nhưng âm nhạc của bố và anh trai em hoàn toàn khác thể loại với cô ấy, cảm giác sẽ không có liên quan…”
Vì sự cố chấp mà ngay cả bản thân tôi cũng không hiểu rõ, mọi người đang nghiêm túc thảo luận về các con đường khác nhau.
Sự kỳ vọng này thật nặng nề. Không—nói là kỳ vọng cũng không đúng.
Là gì nhỉ, cảm giác nghĩa vụ? Cũng không phải.
Là thứ gì đó gần với bản năng hơn, cảm giác đó tựa như không ngoi lên mặt nước thì không thể thở, phải không ngừng vùng vẫy trong nước.
Thế nên mới nặng nề đến ngạt thở.
Nhưng, tôi cũng vậy, không ngừng lướt trên màn hình điện thoại để tìm manh mối, ngoài ra không còn cách nào khác.
Và rồi, tôi đã tìm thấy—sợi chỉ mỏng manh nối liền tôi và nữ danh ca thiên giới.
*
Nhà sản xuất Kunimoto-san đã lâu không gặp gầy đi rất nhiều.
Rõ ràng là vào mùa xuân, bụng ông vẫn còn căng phồng chiếc áo polo một cách oai vệ, vậy mà hôm nay đường eo của chiếc áo thun mỏng lại có phần lỏng lẻo.
Chắc hẳn là do lao tâm khổ tứ. Mà việc tôi cứ lần lữa mãi không giao bài hát cũng là một trong những nguyên nhân khiến ông lao tâm khổ tứ, thật sự cảm thấy áy náy.
“Lâu rồi không gặp Murase-kun. Cậu có vẻ rám nắng hơn nhỉ? Đi biển à?”
“Ơ, à, vâng. Lúc ban nhạc đi tập huấn ạ.”
“Thích nhỉ. Ồ phải rồi, đến nghỉ hè rồi. Tôi nghe nói ban nhạc của cậu cuối cùng cũng quyết định làm album rồi à? Chà, thật đáng mong đợi. Đợt tập huấn cũng là để chọn bài các kiểu? Ồ? Chỗ ở có cả phòng tập à? Thế thì tuyệt quá.”
Kunimoto-san hôm nay nói nhiều hơn thường lệ. Ngay cả nhân viên quán cà phê đến nhận order cũng không chen vào được, đành phải đứng chờ bên bàn một lúc.
Có lẽ—
Ông ấy đang dùng khoảng thời gian này để chuẩn bị tâm lý trước khi vào vấn đề chính.
“A a, phải rồi, bốn cô bé nhận được bài hát của Murase-kun ấy, đã chốt được thời điểm ra mắt rồi. Vào tháng một năm sau. Tên nhóm cũng đã quyết định rồi, gọi là ‘QUADream’, nghĩa là giấc mơ nhân bốn.”
“À, vâng, cháu rất mong chờ.”
“Khoảng từ tháng mười một sẽ bắt đầu tăng tần suất xuất hiện. Vì là nhóm nhảy nên hiệu ứng video vẫn tốt hơn. Ban đầu sẽ dùng các bản cover và remake để thu hút sự chú ý của công chúng, dựa vào truyền miệng để lan tỏa một cách tự nhiên—”
Nhà sản xuất âm nhạc giàu kinh nghiệm Kunimoto-san đã ủy thác tôi sáng tác khoảng nửa năm trước.
Ông có vẻ rất tâm huyết với việc sản xuất và quảng bá cho nhóm nhạc bốn thành viên này, mỗi khi nhắc đến họ, giọng điệu của ông lại mang theo sự nhiệt thành của một thiếu niên.
Hôm nay có lẽ cũng là để trì hoãn việc vào vấn đề chính, ông đã hào hứng nói về chiến lược quảng bá của nhóm nhạc trong khoảng mười lăm phút.
Khi những viên đá trong hai ly cà phê đã tan đi kha khá, Kunimoto-san cuối cùng cũng thở ra một hơi, câu chuyện tạm thời kết thúc.
Tôi dùng ống hút hút một ngụm cà phê gần như đã biến thành nước, cẩn trọng lên tiếng:
“Vậy thì, chuyện về Shida Shun-san mà cháu đã viết trong mail…”
“…Ồ ồ, phải rồi, là nói về chuyện này nhỉ.”
Ông cười một cách không tự nhiên.
Tôi vừa suy nghĩ lại xem nên bắt đầu từ đâu, vừa dò xét vẻ mặt của Kunimoto-san.
Trông ông không có vẻ khó xử, nhưng dĩ nhiên cũng không tỏ ra vui vẻ gì với chủ đề này.
Có lẽ nói “khó nói” thì đúng hơn. Còn việc bối rối thì chắc chắn không sai.
“Duyên phận này nói ra cũng thật kỳ diệu, cháu đã cùng Kubo Takt làm một bài hát, mà đó lại là bản làm lại từ một bài hát do Shida-san sản xuất trong quá khứ.”
Đầu đuôi câu chuyện thật sự chỉ có thể hình dung bằng “duyên phận kỳ diệu”, thế nên giải thích cũng khá vất vả.
Kunimoto-san cười khổ xua tay.
“A a, phải, tôi biết. Hôm qua đã tra rồi. Tôi cũng thấy duyên phận thật kỳ diệu, thật sự đấy.”
Ông dừng lại một chút, dùng cà phê làm ướt đôi môi khô.
“…Về Kubo Takt, tôi đã cố tình né tránh. Dù có nghe đồn cậu ta làm lại bài hát đó và phát hành, nhưng tôi đã quyết định không nghe. Dù thế nào đi nữa cũng thấy làm vậy thật trẻ con. Người nhờ Shida-san sản xuất bài hát ra mắt cho Kubo Takt chính là tôi, thế nên cứ cảm thấy không thể bình tĩnh mà nghe được, những tin tức về chuyện này tôi đều cố tình không xem.”
“Ra là vậy ạ… Xin lỗi bác, cháu hoàn toàn không biết. Ờm, vậy thì, chuyện này có lẽ bác không muốn nghe đến…?”
Đâu có đâu có, Kunimoto-san cười một cách ngại ngùng.
“Chuyện cũng đã qua lâu rồi, mà cứ mãi bận tâm chuyện này cũng thật vô vị. Biết người làm lại là Murase-kun tôi đã rất ngạc nhiên. Hôm qua lần đầu tiên nghe, quả nhiên là một bài hát rất hay. Cậu có thể hoàn thành nó như vậy, tôi thật sự rất cảm kích.”
Tôi rụt cổ lại. Chẳng lẽ đã khiến ông phải bận tâm đến cảm xúc của mình rồi sao.
Kunimoto-san nhìn về phía xa và nói tiếp:
“Tuy có thể nói là duyên phận kỳ diệu, nhưng việc tôi bị Murase-kun thu hút, biết đâu cũng là vì cảm nhận được ở cậu một điểm gì đó tương đồng với Shida Shun. …Tài năng của cậu ấy thật sự rất quý giá, thật đáng tiếc, khi còn trẻ như vậy.”
“…Vâng. Cháu cũng vô cùng đồng ý. …A, xin lỗi, cháu chỉ mới nghe hai album, cộng thêm một vài bản thu chưa phát hành thôi, không thể nói như thể mình rất hiểu được.”
“Đâu có đâu có, tôi nghĩ bây giờ trên toàn thế giới, người hiểu âm nhạc của Shida Shun nhất chính là Murase-kun đấy. Cậu đã nhận hết tất cả dữ liệu âm thanh rồi phải không?”
“Vâng. Là do cha của Shida-san giao cho cháu.”
“…Âm nhạc sẽ còn ở lại. …Thật tốt.”
Giọng của Kunimoto-san như thể đã xa dần về phía bên kia của một màn sáng mỏng.
Nhưng, ông là một nhà sản xuất âm nhạc, một người đàn ông đã chiến đấu đến tận bây giờ ở nơi gần nhất giữa âm nhạc và hiện thực, thế nên ông đã quay trở lại bên cạnh tôi, không bị cuốn vào vòng xoáy của sự đa cảm.
“…Và rồi, về hai file âm thanh mà cậu đã gửi,”
“…À, vâng.”
Rõ ràng là chủ đề do chính mình khơi lên, nhưng một khi ông thật sự nhắc đến, tôi mới phát hiện ngay cả bản thân cũng chưa chuẩn bị tâm lý.
“Tôi đã nghe rồi. Bản độc tấu bass—đúng là như vậy, quả thực thu âm một cách chết chóc lạ thường. Cảm giác như đã dùng một phương pháp thu âm hiếm thấy nào đó, nhưng tình hình cụ thể thì tôi không rõ, không giúp được gì. Nhưng bản còn lại—”
Ông lại hắng giọng một lần nữa, giọng nói càng trầm hơn.
“Đúng là Umino Rikako.”
Tôi gật đầu, ngước mắt nhìn Kunimoto-san.
“Cháu đã tra trên mạng và thấy rằng, lúc đó Kunimoto-san đã từng sản xuất cho Umino Rikako vài lần, thế nên—cháu nghĩ có lẽ bác sẽ biết chút gì đó…”
“Phải. Tôi đã sản xuất cho Kako-chan hai bài hát. Kết quả độ tương hợp không được tốt lắm, nên không bàn đến việc sản xuất cả album nữa.”
Kako-chan, từ cách gọi này có thể thấy hai người đã quen biết từ rất lâu.
“Shida-san—cũng từng làm việc cùng Umino Rikako ạ?”
“Không, họ không có quan hệ công việc. Kako-chan xem Shida-chan là đối thủ, cô ấy nói không thể làm việc cùng đối thủ cạnh tranh được.”
Cách gọi Shida Shun có thêm chữ “chan”, gương mặt của Kunimoto-san cũng trở nên trẻ trung một cách lạ thường.
“Thật khó tin phải không. Nữ danh ca hàng đầu Nhật Bản lại xem một nhạc công phòng thu còn chưa thể tự đứng vững, việc vặt gì cũng nhận, là đối thủ. Nhưng trên người cậu ấy quả thực có lý do gì đó khiến người ta phải làm vậy. Người đầu tiên phát hiện ra tài năng của cậu ấy, có lẽ chính là Kako-chan… Trong giới lúc đó, mối quan hệ khó tin của hai người họ rất nổi tiếng. Nhìn thế nào cũng thấy là đang hẹn hò, nhưng lại có người nói họ không phải loại quan hệ đó, những chuyện đời thường thế này cũng không tiện hỏi thẳng mặt. Mà cho dù nghe họ nói thật ra không hẹn hò, cũng không khiến người ta thấy lạ, vì quả thực có những phần rất hợp lý. Hai người rất giống nhau, lại có những điểm hoàn toàn trái ngược, có lúc như một cặp trời sinh, có lúc lại như một cặp tình nhân tồi tệ.”
Kunimoto-san nói một cách lan man, cảm giác như thể đang mặc kệ vết thương thấm đẫm máu trên áo.
“Cho nên, bản thu âm đó cũng vậy.”
Chủ đề đột ngột quay về hướng ban đầu khiến tôi cảm thấy một cơn chóng mặt dữ dội.
“Trong đó có tiếng nói chuyện phải không. Có thể là do hai người cùng thu. Chỉ là giọng của Kako-chan nghe rất xa, âm bass cũng rất mờ, có khi nào là vừa gọi điện trực tuyến vừa thu không nhỉ. Tóm lại Kako-chan chắc chắn sẽ biết điều gì đó.”
Tôi buông thõng vai, thở dài.
“…Ra là vậy. …Cảm ơn bác nhiều.”
Cảm thấy lời cảm ơn nghe có vẻ quá khách sáo.
Thực tế, tôi quả thực đang chán nản vì cảm giác trống rỗng dâng lên trong lòng.
Mình rốt cuộc đang làm gì thế này…
Đi khắp nơi đuổi theo âm thanh của một người đã chết từ lâu, bò trườn trên con đường lầy lội dẫn đến nghĩa địa, bò trườn, và vật lộn tiến về phía trước.
Ở nơi cuối cùng đến được, phần lớn những gì thấy được đều là những thứ đã biết từ trước.
Nơi này không có chút ánh sáng nào.
“Có muốn gặp Kako-chan hỏi thử không?”
Tôi từ từ ngước mắt, nhìn vào gương mặt của Kunimoto-san.
Từ biểu cảm có thể thấy, ông nói câu này không phải vì nhiệt tình hay nghĩa khí, mà là muốn hoàn thành sứ mệnh mà mình phải hoàn thành.
Giống như con gà trên chong chóng gió nhất định phải hướng về phía gió thổi, ngọn hải đăng luôn có thể chiếu ra ánh sáng xuyên qua sương mù dày đặc.
“Tuy cô ấy rất bận, nhưng nếu do tôi giải thích đầu đuôi, chắc cô ấy sẽ đồng ý gặp mặt.”
Tôi cúi mắt, nhìn xuống ly nước trên tay. Đá đã tan hết, biến thành thứ nước bùn đục ngầu.
Lúc này tôi thầm nghĩ… chuyện này, cứ như một cuộc hành hương.
Ôm lấy mảnh tro tàn của Shida Shun, du hành qua những vùng đất cổ xưa, không phải để tìm kiếm hay tìm thấy điều gì, mà chỉ để cầu nguyện và rải tro.
“…Vâng. Làm phiền bác rồi.”
Nghe câu trả lời của tôi, trên gương mặt Kunimoto-san dường như lộ ra vẻ nhẹ nhõm.


1 Bình luận