CHƯƠNG 30
Vừa dứt lời, chị quay lưng lại với tôi. Và đứng nhìn vô con ngỏ cụt. Như là chẳng thà nhìn vô ngỏ cụt còn hơn là nhìn tôi.
Tôi mau chóng vòng qua phía bên kia, reo:
– Sao thế, chị Zoe? Sao thế? – Tôi huơ huơ tay trước mặt chị.
Nếu cánh tay trắng tôi là con ngỗng xấc láo thì chị Zoe chụp mạnh vô cổ nó, không cho nó tác oai tác quái nữa.
Xong, túm cổ tay, chị kéo dài cánh tay tôi, chĩa vào trong hẻm, như nòng pháo xe tăng, hướng tôi dõi mắt theo vô đó.
Ở đầu ngõ là căn nhà màu cam bên tay trái và căn nhà màu quýt bên tay phải. Còn ở trong, cuối ngõ chìa ra lá cờ trắng, in hình con cóc màu nâu.
Buông tay tôi ra và, cũng bàn tay đó, rờ lên vai tròn của tôi, như rờ một trái cam, chị bảo:
– Sherry chờ chị một chút nha!
Tôi theo chị vào trong hẻm, ghé vào cửa hiệu giặt là. Chị nói chờ là chờ một chút nói tiếp, chứ có phải là chờ ngoài đường cái này, chị vào trong một chút đâu? Nhưng thực ra thì tôi có vào theo hay không cũng không ảnh hưởng gì.
Mặt đường lát đá, đen màu bóng râm, từ các mái hiên, từ các tán cây lạ lùng trồng không giấy phép trong nhà.
Vào sâu trong hẻm thì nhà vẫn còn gỗ. Đi đến cuối là một tiệm giặt là cổ truyền.
Trong hiệu giặt, tiếng máy giặt uỳnh uỳnh cãi nhau. Bọn nó im bặt khi chị kéo dây chuông nhà. Ông bác ú nu như con cóc vén rèm Noren chui ra. Ông tiến đón hai tôi với đôi mắt híp niềm nở:
– Làn gió nào đưa hai tiểu thư đến đây?
Tiểu thư Zoe liền híp mắt cười. Bằng giọng líu ríu vui tai, như chim hót, tiểu thư biếu ông bác mặc áo thun trắng mấy câu chào hỏi (bác Frederick ơi, bác đã xơi cơm chưa? Bác Frederick ơi, tối nay là tối Chúa Nhật, bác Frederick có đi chơi với cháu? Sao, lát hồi bác dẫn cháu gái ra ngoài bãi thả diều? Lát hồi cháu cũng ra đó nè! Đi với ai hở bác? Cháu tháp tùng bé Charlotte ra ngoài đó chơi…)
Chị Zoe hỏi han thân tình quá trời, bác Frederick nghe không mến sao được? Bác khà khà đáp. Tôi khà khà đứng nghe. Đến cuối, tiểu thư Zoe thỉnh cầu bác Frederick giúp mình với mớ chăn mền lữ quán nha.
Bác Frederick ô kê cái rụp, còn hài lòng, vui sướng là đằng khác. Chăn mền đã qua sử dụng mà tiểu thư gấp gọn ghẽ ghê! Đã thế còn gấp sao cho mặt còn sạch thì lộn ra bên ngoài. Cứ để đó cho bác!
Bác còn bảo chị đáp xe trước nhà bác cho rảnh tay. Có gì mai qua lấy luôn.
Tỏ lòng thành và cáo từ bác Frederick xong, hai tôi rời khỏi con hẻm đầy sự phải phép, ra ngoài đường cái thênh thang nỗi tự do.
Nhiệm vụ lữ quán hôm nay coi như xong sạch. Tiếng uỳnh uỳnh vang lên tiễn hai tôi ra khỏi hẻm.
Vừa đi từ trong hẻm ra ngoài đại lộ là khung cảnh tươi mới, tân thời, chói quá chói cào vô mặt tôi. Tôi bỗng hiểu ra cảm giác của chị Zoe. Trong kia dễ thở hơn một cách khó hiểu.
Dù là ngoài này rộng rãi, trẻ trung hơn, hiện đại hơn và thân quen với tôi hơn – con bé đô thành – nhưng nếu đem ra so sánh thì trong kia thích hơn thật, dễ chịu hơn thấy rõ!
Ban nãy cũng thế. Vừa qua con đường này là chị Zoe thoáng cau mày khó chịu. Còn con khỉ Sherry thì không. Thì không? Con khỉ này đã quá quen sục sạo trong cái sở thú thị thành nên chẳng hề cảm thấy khó chịu chút nào. Quá quen, quá lờn! Không thấy màu sao mà gắt, kiến trúc sao mà khuôn thước, cảm xúc sao mà mất tự nhiên!
Không những thế mà vì quá quen cảnh huyên náo phố thị và chưa bao giờ được hưởng cảm xúc yên ả miền xa xôi nên thuở mới đáp xuống đây, tôi còn cảm thấy có hơi khó chịu.
Vì vậy mà lúc vừa mới chui vô Paul Gauguin Av., được hít thở không khí quá đỗi quen thuộc, tâm trạng tôi thành ra thoải mái và dễ chịu hơn thấy rõ. Tuy nhiên phải nói là cái cảm giác dễ chịu đó chẳng kéo dài lâu đâu, tôi biết!
Mới đi vô khu nhà gỗ trở ra (bao lâu? chưa tới năm phút!) mà các cảm giác dễ chịu trong người tôi đã phân chia thành hai phe đối lập: phe dễ chịu do gần gũi với tự nhiên và phe dễ chịu do gần gũi với cái mình quen.
Gỗ, thì ra là gỗ! Và bóng râm, rõ là bóng râm!
Đi giữa khu nhà gỗ, chìm trong bóng râm, giữa thứ kiến trúc kỳ ảo lấy gỗ và bóng râm làm chủ đạo, thì cảm giác như đi dạo giữa khu rừng toàn các cây hình hộp chữ nhật. Và đi dạo trong rừng bao giờ cũng đem tới cho một con khỉ các sự dễ chịu, dễ dãi riêng: sự dễ chịu khi được gần gũi với tự nhiên.
Vẫn chưa quen với thị trấn này nên một khi được hưởng cảm giác dễ chịu này, tôi phải từ giã cảm giác dễ chịu còn lại. Vào trong kia, được hưởng cảm giác dễ chịu do gần gũi với tự nhiên, tôi lại phải rời xa vòng tay dễ chịu của cái thân thuộc. Và ngược lại, trở ra ngoài đây, được trở về với phong cảnh nhái thành phố thân thuộc, thì thành ra xa cách với tự nhiên.
Tôi không thể có cả hai, nhưng chị Zoe thì có. Thì có? Tôi cũng thấy ghen tị với niềm sung sướng của chị đó chứ. Bây giờ có lẽ chị đang lâng lâng trong hai cảm giác dễ chịu cùng lúc luôn, cả trong kia lẫn ngoài này. Những vách nhà gỗ đối với chị cũng trở nên thân thuộc, cái này thì dễ hiểu. Đó là vì chị ở đã lâu, đã biết quen mùi gỗ. Nhưng phố xá đối với chị cũng thành ra tự nhiên, vì sao cơ chứ?
Vì tự do! Vì tự do chứ còn sao? Còn cái gì tự nhiên hơn là tự do? Bên trong kia ngạt ngào mùi các thứ lễ giáo ấm cúng, ám vào nhà cửa, tâm trí như là khói nhan. Còn ngoài này là các làn gió tự do lạnh giá. Ban nãy đây chị còn thấy lạnh. Ban nãy lúc chuyển cảnh sang đại lộ Paul Gauguin, chị còn thoáng cau mày. Nhưng bây giờ thì không. Khi nãy, chị thấy toàn các thứ hiện đại lạnh lẽo. Bây giờ, đó là cái lạnh của tự do. Là tự do lạnh lẽo, đắng nghét. Là tự do chát như là rượu, cay như là thuốc lá. Là tự do có hại cho sức khỏe. Là tự do của nông nỗi và của tuổi trẻ. Nhưng tự do, cũng vì lẽ đó mới hết sức đáng yêu!
Chị đi bên tôi và chị nghĩ đến tự do. Vì tôi là xuân trẻ, là tự do. Là chị thời trước. Kìa, miếng thịt tự do xèo xèo trong lửa hoài niệm! Thèm nhỉ? Ai thèm, là tôi thèm. Miếng thịt này chỉ ngon trong trí nhớ mà thôi. Tự do của tôi, nhưng vàng son là trong quá khứ của chị, nên mỗi chị thấy ngon, chỉ thấy ngon được bằng mắt, bằng ký ức, bằng cái cảm giác cả thèm, đau đáu nhìn những đôi chân tung tăng trong dôi sneaker, các ngón út còn chưa biết đến nhu cầu đeo nhẫn, cả bằng cái cảm giác hả hê, chán ngán khi nhớ lại ngày xưa, cũng mình đó, cũng từng có cái khối phô mát tự do mà ăn, từng có chiếc ô tự do mà che, và cũng từng ăn đến phát ngán, đến mất thèm. Vậy nên kẻ thèm khát ở đây là tôi mới phải. Là tôi, tự do nhưng thiếu cái cặp cảm xúc cả thèm – chóng chán kia. Như là sashimi ăn không lạt nhách và thấy thiếu mù tạt.
Sau này, trong một cuộc trò chuyện khác, chị chỉ ra phép so sánh cho tôi thấy là tự do thì cũng như hôn nhân, cũng có nguồn gốc từ tự nhiên như hôn nhân: đều là vách kính văn phòng màu xanh ngọc bích, mà ai bên trong thì ngó ra bên ngoài còn ai bên ngoài thì nhìn vào bên trong.
“Vậy nên Sherry chớ mà lo lắng nha!”
Cũng vì lẽ đó mà vừa nhờ có đào tơ Sherry, vừa nhờ có khung trời tây, phố tân thời, và vừa từ trong văn phòng công chứng mền gối trở ra, chị được sống lại thời trẻ trong chốc lát. Và ôi trời, thật là chẳng mường tượng nổi rằng khi đó, thôi thúc phải hành động sao cho tự nhiên có thể dữ dội đến nhường nào, khó cưỡng đến nhường nào, và tuân phục theo các thôi thúc ấy tiêm vào bản thân các cảm giác vừa thỏa mãn, vừa hợp tình hợp lý, vừa đích đáng, đến nhường nào, khó cưỡng như là cú hắt xì. Và cũng vô nghĩa như là cú hắt xì.
Vâng lời các xúc cảm nhất thời thì đúng là hành động theo tự nhiên. Và chị nhớ là khi vâng lời như thế, trong chén chè cảm xúc, mà trước đây chị là người phương xa, chưa phân biệt được các loại hạt, thì bây giờ thấy các cọng xanh đậm, là cảm giác gần gũi với tự nhiên, tạo hóa, và các viên táo đỏ là tự do.
Hóa ra hành động theo lẽ tự nhiên cũng mang đến cho mình cảm giác tự do, và tất nhiên là mang đến cho mình cảm giác gần gũi với tự nhiên đó chớ.
Thứ cảnh quan nửa Pop nửa deluxe của Paul Gauguin St. có sức ảnh hưởng lén lút lên trái tim chị hơn là chị nghĩ. Nó khiến mình thèm thích một phương cách sống, các vũ điệu, vừa hoang dã vừa quý tộc. Mình muốn tiêu tiền sao cho ngấu nghiến. Nó nhấn chìm mình trong nỗi chán chường lạt miệng và thèm các ấn tượng mạnh có vị a–xít. Nó xúi mình xay tiền tươi ra thành kỷ niệm. Càng đảo lộn, ngông cuồng, càng dễ nhớ, càng ngon! Mà bây giờ thì mình e dè, mình kiêng, mình né không còn sống theo lối đó. Và vì muốn né nên vừa vào Paul Gauguin St. là mình thấy bứt rứt khó tả. Nhưng tất nhiên là, một khi lại làm quen, và cũng không khó làm quen, mình lại thấy, và lại hiểu ra, vì sao khi đó nó quyến rũ mình đến nhường đó. Vì sao mình ưa sống kiểu đó. Ở cái lối kiến trúc lấy Roman làm khung xương, nhưng là Roman sắp sụp, khoác Tokyo lên làm da thịt, nhưng là Tokyo không một bóng người, này thì còn nào là phù hợp, là tự nhiên hơn nếu không là thái độ sống gấp rút, hoang toàng, vung tiền đón ngày tận thế?
Tâm tình mình cứ như cái cây muốn rũ hết lá đi mà đón mùa đông. Nó kẹt trong cái tư thế mong ngóng cái kết nào đó sắp sửa đến, mà rõ ràng nhất là cái kết của thời trẻ mà ở tôi với ở chị thì đặc trưng nhất là mất đi các nét tinh khôi trong nhan sắc, và xung quanh luôn luôn nhắc mình nhớ là các thứ tươi mới, sang đẹp, các bức tường láng mịn thì được phô ra ngoài đại lộ này, ngoài sáng, trong khi các thứ già nua, lâu đời, các bức tường gỗ nâu nâu, hoa văn vân gỗ ngoằn ngoèo thì đem cất vào trong bóng tối, trong các con hẻm trong kia. Đó là cái ngày kết đã điểm mà toàn thể thiếu nữ sinh cùng con giáp với mình bỗng nhiên chết hết sắc đẹp. Một thiên tai không sao tránh, một án tử đã được vô tình ấn định. Trước ngày kết tuyệt đỉnh kia, mình còn ôm tiền làm gì? Dại gì mà không xài cho hết?
Còn cái gì tự do tột bậc nếu chẳng là sống phung phí, hoang toàng?
Cũng vì thế, cuối cùng, có thể leo đến kết luận như sau: xa hoa là vương niệm của tự do, và tự do là bà hoàng của tuổi xuân, và tuổi xuân là kinh đô của thiên nhiên, tạo hóa.
Đến khi này, có tuổi hơn, nhìn về mấy thứ này với ánh mắt dịu dàng và ít e dè hơn, có lẽ chị thấy khác. Chị thấy khác chị lúc trước, và chị lúc trước khác chị lúc trước nữa. Và hình như không có chị nào là giống tôi cả.
Tôi bao giờ cũng là kẻ không biết cảm thông. Tôi thấy nhà cửa sao mà mất tự nhiên, ngố – một thứ kiến trúc nhất thời, dùng rồi bỏ. Còn chị thì thấy nhất thời cũng có nét đẹp riêng đó chứ. Nhất thời đối với tôi là đứa con ngỗ nghịch của tự nhiên, vì tự nhiên thì phải lâu dài cơ chứ. Còn chị thì thấy sống theo cảm xúc nhất thời là sống theo lẽ tự nhiên, nghe lời tự nhiên mách bảo. Vì thế còn chả là sống đúng, sống bảnh? Đâm ra, chị thấy cái kiến trúc tôn sùng thói sống nhất thời, tạo cảm hứng sống nhất thời này… mới đáng yêu làm sao. Còn gì đáng yêu hơn là mình sống cho hôm nay, cho mấy chục phút đi bên nhau này, tôi đi bên chị và chị đi bên tôi, hơn là lo nghĩ là sau đó, sau sau đó, ngày mai… Ngày mai có đến không? Bố có về không? Đó là hai câu hỏi tương đương nhau, đối với tôi. Tôi đã chờ, và ngày mai không bao giờ đến. Có lẽ chị Zoe, một câu hỏi tương tự. Một nhát dao tương tự. Nhất thời… thôi thì quên đi các thứ lâu dài viễn vông. Nhất thời, dùng rồi bỏ. Đến rồi đi. Sống rồi chết. Ngày hôm nay, rồi thôi. Vì thế mà đơn thân, ngạo mạn, ngang tàng. Cái ngang tàng đô thị. Nhưng cũng vì ngang tàng như thế mà tự do!
Đã có một thời, cái chủ nghĩa ngang tàng này thôi thúc chị buông mình vào các thứ cảm xúc nhất thời, phiến diện, đắt đỏ, vào thứ đèn sách chẳng thèm đếm xỉa đến con người, và vào các đêm dài không biết đến ngày mai – một thời xa hoa như thế. Sống theo cảm xúc thì đúng là xa hoa như thế. Nhưng bây giờ thì chị thấy cái xa hoa ấy mới tự nhiên làm sao. Có cái gì tự nhiên làm sao, giản dị làm sao ở cái thời mà, bằng trực giác và nghi ngờ, mình cứ ngỡ là chả có gì là giản dị. Nhưng hóa ra là có. Thời đó, mình cứ việc mua một quyển tiểu thuyết diễm tình, thế thôi, mặc dù quyển tiểu thuyết đó cuỗm hết ba tuần lương của mình. Mình cứ ngang nhiên sắm một cây trâm cài, thế thôi, mặc dù cây trâm đáng ra hai mươi bảy ngày làm việc khổ sở. Mình cứ ghé vào và mình thấy thích và mình cứ mua, tự nhiên làm sao, như là con khỉ hái một trái táo từ trên cây, chẳng cần sợ, chẳng cần suy nghĩ. Chà, sao dạo đó mình vô tư được đến thế? Cái dạo mà mình còn răm rắp nghe theo tiếng lòng sôi nổi mình như là nghe lời tiếng chuông báo cháy. Ước gì quay được về cái thời như kia… dù rằng bây giờ có mơ mình có còn dám sống kiểu đó đâu?
Chị đã sống còn cách nào tự nhiên hơn? Chị đã ở bên nature trong một mối tình mặn nồng nhưng ngắn ngủi. Chị đã đốt cho cháy hết không còn sót một giọt nuối tiếc nào. Vì nuối tiếc là chất kịch độc đối với tự nhiên. Một khi đã hít phải sẽ sống gượng gạo, lủi thủi, không bao giờ sống tự nhiên được nữa! Chị đã trung thành với tự nhiên bằng cách diệt trừ mối đe dọa lớn nhất trong cuộc đời mình là sau này nuối tiếc. Có lẽ là sự hào hoa thì chỉ tự nhiên trong ký ức, trong hoài nhớ, trong khi đem ra so sánh với các thói sống khác. Nó là thói sống duy nhất mà hóa vàng. Nó hút kiệt thứ mật nuối tiếc từ các bông hoa sự sống. Chỉ có tuổi trẻ xa hoa là tiệt sạch nuối tiếc. Là thứ vắc xin của nuối tiếc, chứ còn gì?
Chính vì thế mà, cũng như vắc xin chỉ phát huy tác dụng khi sau này, người ta nhiễm vi khuẩn, ở đây là con vi khuẩn nuối tiếc, dường như ai cũng nhiễm, mà một khi phát huy tác dụng thì sẽ chẳng có gì xảy ra. Chỉ là chẳng bệnh thôi, chứ không có gì to tát xảy ra. Một sự không xảy ra vô cùng dễ nhẫm lẫn là vô tác dụng, và thế là mình cho rằng thời gian sống xa hoa đó là vô bổ, vô tác dụng. Có thật thế không? Sống xa hoa, dù chỉ trong quãng thời gian ngắn, mang tính thí nghiệm, một cuộc sống thử, chẳng cũng tạo cho đối tượng các kháng thể mạnh mẽ đối với một số loài vi khuẩn, dù rằng cụ thể là các loài vi khuẩn nào thì cũng chưa khám phá hết, trong đó có loài vi khuẩn đặc biệt chết chóc đối với khả năng sống một cách tự nhiên là Tiếc Nuối, đó hay sao? Thành thử, kết cục của các cuộc chơi bời nào đó của chị, các cuộc chơi bời thỏa thê và với thái độ say mê thuần khiết, chỉ đơn thuần là chị không còn sa vào các sự đổ đốn khi về già.
Chị đã sống hết sức tự nhiên trên phố thành, sống hòa hợp với hư vô, với tuổi trẻ. Chị đã sống hết sức dung dăng nơi Eve thành hoa lệ, chan hòa với hoa và với lệ, và thế là tự nhiên. Sherry tất nhiên sẽ không bao giờ sống được như thế, tiếc.
Thế là có thể yên tâm là từ giờ đến chết, chị sẽ chẳng bao giờ phải khóc vì buồn vì nuối tiếc nữa.
Và, vì lẽ đó mà giờ đây, đi trên Paul Gauguin St., thánh đường của các thứ xa hoa đương đại, là Eve thu nhỏ đó chớ, nhìn vào cái thành quả vô hình này, cái sự miễn dịch này, và nỗi hãnh diện nhỏ là thì ra mình có miễn dịch đó chớ, cái niềm vui lạt lẽo này, giờ đây, đi kế bên tôi, ngang các thứ lộng lẫy, cũng thích mắt đó chớ, nhưng chẳng còn tí ham thú nào, cũng chẳng còn nỗi e dè, và cũng không có sự thanh thản vì có cái gì tội lỗi, đáng xấu hổ đâu mà cần phải thanh thản, cái sự chẳng có gì xảy ra mà bây giờ, ngỡ ngàng, chị mới nghiệm ra là đạt được nào có dễ?
Tự nhiên chị thấy nó đẹp.
À còn quen thuộc thì sao? Là quen làm sao? Để Sherry mau mau sủa hết nghe chơi, trong lúc chị còn làm thinh, mỉm cười, nhâm nhi những làn gió ngọt. Chẳng là chị quen cái cảnh này đó giờ, chứ sao không? Quê chị ở trên thành phố mà. Quen chứ!
Sống dưới Lamb này lâu ngày, chị mất quen. Cảnh phố xá ngày một xa lạ. Thứ xa hoa, phù phiếm ngày càng thành ra không tài nào hiểu nổi. Cái gai trong mắt. Nhà thay liền liền, xe thay liền liền. Những bức màn thay liền liền như là quần áo mới. Sao họ không vứt quách cái khu mô đen này cho rồi? Cho toàn vẹn Lamb hoàn toàn cổ kính hết? hoàn toàn linh thiêng, trường cửu hết? hoàn toàn Lamb hết?
Có lẽ bây giờ, vừa lôi ra cái ăng gô thời gian, mở ra cái hộp pandora kỷ niệm, đã nhớ đường về quá khứ, vừa nhìn thấy chân dung mình thời xuân gián tiếp qua dáng hình tôi, con chim non vẫy vùng đôi cánh nhỏ trên thành phố, thì các hoài niệm đột nhiên bay tọt ra, bung bét ra hết, tràn ngập ra hết. Như là mở ra trang sách, cánh bướm khô héo ép bên trong bỗng nhiên đập cánh trở lại, vút lên cao. Bây giờ, đã đồng nhất với các dang dở thời trước, cái thời còn phải đứng chờ đèn đỏ, mà hồi này mình quên bẵng, vì lẽ này hay lẽ khác, và đột ngột thấy không khí này nó cũng gần gũi với mình chứ lại, cũng thân mến với mình chứ sao? Chẳng là hoa viên xi măng mình vẫn hay nhàn du đó hay sao?
Thế nên, trở về không khí phố đô thị, chị không còn mảy may thấy xa cách, khó chịu nữa. Là con đường nhựa thơ ấu, âu yếm và thương quen gần chết! Từ bao giờ thành ra xa cách? Và vì sao mà xa cách? Vì mình trói mình trong cuộc đời cổ kính, phục tòng, dè sẻn, chẳng còn còn nghênh ngang như dạo trước, chứ sao! Mà không nghênh ngang thì làm sao thấy được là thành phố đẹp…
Chà, tôi nhìn chị càng lúc càng hí hửng, càng sung sướng trong hoài niệm tự do mà thèm. Tôi thèm nên tôi mới phân tích và phân tích có hơi chảy nước miếng, dài dòng.
Kỳ thực thì ngay lúc đó thì không có sự phân giải rành mạch cỡ đó đâu. Chúng còn là hàng chục các mảnh ghép nằm lẫn lộn trên bàn mà tôi biết chắc sẽ ghép thành bức hình nào đó. Và trong khi tâm trí vẫn còn đang loay hoay tìm cách xếp thì tôi đã được cho biết luôn đáp án. Đó là các mệnh đề mà ông trời gõ vào đầu tôi: chị đang được hưởng cả hai thứ cảm giác dễ chịu là dễ chịu do được ở bên tự nhiên và dễ chịu do được gần gũi với cái quen thuộc, cùng lúc, cả trong kia lẫn ngoài này.
Tâm trạng dễ chịu và phấn chấn hơn bao giờ hết, chị Zoe kể hết trơn luôn.
CHƯƠNG 31
– Chuyện xảy ra vào tháng trước. Hôm đó là ngày trong tuần nên lữ quán vắng hoe. Chị đang quét lá ngoài đường thì nghe con bé Neta bên trong làu bàu gì đó. Con bé than vãn với chị là thấy ngứa, châm chích đầu mấy ngón tay. Con bé sợ không biết mình bị gì. Tự nhiên mặt con bé tái xanh. Con bé hỏi là có khi nào nó mắc chứng đái tháo đường? Chết! Dạo này con bé chén đồ ngọt nhiều quá, có khi nào là mắc bệnh đái tháo đường?
– Đái tháo đường? – Tôi phì cười.
– Ừa… – Chị Zoe nhoẻn miệng, cố nhái lại nụ cười của chị trong câu chuyện, nhưng không thành. – Gì chứ lúc đó chị cũng cười con bé y chang vậy. Con bé… vô tri quá! Nên chị bảo đùa là chờ anh Juozas đi ngang qua, hỏi thử. Anh Juozas dù gì cũng là lang băm trong thị trấn, có gì hỏi nhất định có lời giải đáp cho mà coi. Chị nói đùa thế thôi, ai ngờ con bé chờ thật. Suốt trưa chiều hôm đó, con bé trông ngóng ảnh như ngóng người yêu. Cứ chốc chốc là con bé lại ra trước cửa, ngó nghiêng, thở dài, nhìn cưng hết sức, xong trở vô. Con bé làm chị mắc cười mà nó cũng làm chị mắc lo. (Lo gì hở chị?) Tất nhiên là lo cho con bé. Không biết có còn triệu chứng nào khác mà con bé không nói ra hay không? Chứ điên hay sao khi không nghĩ mình mắc bệnh nan y? Nhưng thôi, cứ chờ anh Juozas khám thử, coi ảnh nói gì. Lỡ như bệnh thiệt, có trở nặng, thì bác sĩ hẳn hoi trong trấn cũng có mà, khỏi lo. Hễ trở nặng là anh Juozas cưng ảnh ẵm vô nhà thương luôn ấy chớ, lo gì? Tạm thời chưa có thời gian thì hỏi anh Juozas sơ sơ. Xem anh coi, ảnh phán được gì thì phán. (Ảnh phán sao chị?) Anh Juozas bó tay. – Nói tới khúc này, chị cười khúc khích. – Dĩ nhiên phải thế, không kỳ vọng gì hơn. Chiều hôm đó anh Juozas đang chắp tay sau đít, vừa đi nghênh ngang ngoài đường thì con bé Neta túm cổ áo ảnh lôi vô. Con bé xòe mười ngón tay trước mặt ảnh, huơ huơ giống như là sắp sửa làm ảo thuật vậy, vừa huơ vừa rối rít nói hết cho ảnh nghe.
“Diabetes? Em nói em mắc diabetes?” Ảnh phản ứng như vậy đó. “Diabetes? Đầu ngón chân em có thấy ngứa? Phải thấy ngứa, nếu như em mắc diabetes.”
Con bé làm um lên làm ảnh cũng hốt hoảng, ảnh oang oang cái chữ diabetes mà chị nghe, chị không nhịn được cười. Anh Juozas giật tay con bé, lật qua lật lại coi có thấy gì không. Có thấy gì đâu?
“Anh có thấy gì đâu, honey? Em cảm thấy làm sao?”
“Honey? Phải, mật ong. Từ bây giờ Neta sẽ kiêng mật ong, không uống mật ong nữa. Neta sẽ không bao giờ, không bao giờ cho honey vào trà nữa. Neta cũng ớn mật ong lắm rồi! Từ giờ, Neta sẽ kiêng mật ong. Neta thề sẽ không bao giờ rớ tới mật ong nữa đâu!”
“Em nói gì vậy, sweetheart? Anh có thấy gì đâu! Em có sao đâu? Cơ thể em cảm thấy ra làm sao, làm ơn hãy nói anh nghe coi. Làm ơn bình tĩnh nói cho anh biết đi, sweetheart!” Vừa quầy quậy lắc đầu, ảnh vừa vội vã trấn an.
“Ôi trời, hết rồi sao, đã hết rồi sao? Đời em tới nay phải chấm hết rồi sao? Than ôi, sweetheart. Anh bảo là tim em giờ đây ngọt kinh khủng, ngọt kinh khủng?”
“Cái gì ngọt kinh khủng? Đôi môi này, đôi môi xinh thắm này, đang nói lảm nhảm cái gì đó? Em đang… high à?”
“Ngọt kinh khủng. Toàn là đường, ngọt kinh khủng… Đường huyết high nên ngọt kinh khủng? Vậy là bây giờ tim em toàn đường, ngọt kinh khủng? Thật là kinh khủng làm sao! Sao anh có thể thông báo cho em cái tin này sỗ sàng như vậy? lạnh lùng như vậy? A a, em biết, biết hết! Anh chả muốn nói trắng ra cho em sợ, em buồn, nên mới dùng tiếng tây mà nói tránh, có phải vậy không? Kinh khủng làm sao! Trời ơi, kinh khủng làm sao! Tim em bây giờ ngọt như là chè, kinh khủng làm sao!”
Em coi đó, Sherry, hai người họ chả biết là sốt vó thiệt hay là đóng tuồng mà cứ nghiêng nghiêng ngã ngã, giống hai con rối hơi, làm chị cười không biết làm sao cho ngớt. Anh Juozas thì ảnh cứ luôn miệng “diabetes, sweetheart, diabetes, sweetheart” còn con bé Neta thì cứ “ôi không, sweetheart, diabetes, tôi chết mất! Tôi còn quá trẻ, quá ngọt. Nhưng vì quá ngọt, nên tôi chết mất!” – Chị đưa tay bụm miệng, vừa hì hì, vừa nói tiếp: – Anh Juozas thì ảnh đọc ngoại ngữ, vì sao, Sherry muốn biết không? Vì ảnh muốn tránh nói ra mấy từ đó, mấy cái từ đó đó (Sherry chú thích: “tiểu,” “đái”) vì nghe chúng không được nền nã cho lắm. Nghe có hơi… dơ dáy. Thế là ảnh gọi là diabetes cho nó sạch. Nhưng mà hốt hoảng quá thành ra ảnh đọc nhấn âm đầu (Sherry chú thích: “đái”) rốt cục nghe cũng có khác gì chữ kia đâu? Còn Neta thì con bé nghe chữ được chữ không, vì sao, Sherry muốn biết không? Vì con bé không rành tiếng nước ngoài nên nếu mình nói cả câu bằng tiếng tây, hay cả câu bằng tiếng ta, thì con bé còn hiểu. Chứ tiếng tây tiếng ta lẫn lộn thì… lúc bình thường, bình thản còn may ra, chứ trong lúc quýnh quáng hốt hoảng chiều hôm đó, con bé khỏi có mà ráp thành câu hoàn chỉnh được, chỉ nghe ra đúng một thứ tiếng cho mà coi. Và có vẻ như là ưu tiên các chữ tiếng tây, còn các chữ tiếng ta thì lạnh lùng vứt bỏ luôn.
– Anh Juozas biết nghĩ tới người khác quá ha. Còn gọi là diabetes để giữ gìn sự trong sáng cho con gái người ta. Đâu như ai đó, cười trên nỗi đau, căn bệnh người khác…
– Sherry chọc chị hoài. – Má chị phồng lên.
– Thế rốt cục có bị tiểu đường không?
– Không, làm gì có. Anh Juozas coi xong thì thấy đầu mấy ngón tay bé Neta hơi hơi đỏ. Nhưng mà đó là do ngón tay con bé nào giờ nó vậy. Ngoài ra thì không có gì bất thường hết. Nên anh Juozas chẩn đoán bằng tiếng mẹ đẻ luôn cho dễ hiểu là không có sao hết, nếu như có mắc thì là mắc bệnh khác, gần như là chẳng mắc gì đâu, chứ chớ phải cái chứng nan y “giải ra đường” đó. Ảnh sửa luôn tên nó, nhất quyết không gọi là “tiểu đường.” Chị cũng phục ảnh thiệt. Nói chung là bệnh khác, mà là bệnh xoàng thôi. Theo dõi thêm mấy ngày xem ra làm sao. Còn là bệnh gì thì anh Juozas bó tay. Ảnh bó tay là đúng, chớ có trông mong gì hơn. Vì ảnh có phải là bác sĩ hẳn hoi dâu? Nhưng nói mông lung như vậy thì bé Neta yên tâm làm sao được? Thế là ảnh hứa ít bữa nữa sẽ dẫn con bé đi khám “đốc tờ” hẳn hoi. Mấy hôm sau đó, con bé rầu rĩ ghê. Ai ai cũng lo cho con bé. Anh Juozas càng lo. Hai hôm sau, ảnh dắt bé Neta đi khám gấp. Ảnh sợ con bé trở nặng, nhưng chớ phải cái bệnh ngứa mà là trở nặng cái bệnh lo. (Tôi chớp, chớp mắt.) Chừng tới khám đốc tờ thì đốc tờ cũng không thấy gì hết và chỉ dặn theo dõi, tái khám. Nghe vậy, con bé càng rầu rĩ. Con bé bỏ ăn. Con bé bắt đầu ngâm thơ bi đát. Nghe thơ, anh Juozas cưng của con bé nhờ đốc tờ theo dõi Neta sát đuôi luôn. Theo dõi như là thám tử tư luôn. Đừng hòng mà lo nữa nhé! Cứ cách ngày là ông đốc tờ ghé qua lữ quán, vào lúc xế chiều. Ban đầu nghe kể, chị không biết là anh Juozas giở trò gì mà ông đốc tờ chịu nghe lời quá. Biểu vậy mà cũng nghe theo, rảnh không? Ai ngờ ông đốc tờ đó té ra là bạn ảnh, đốc tờ Maylone. Hai người họ cứ kêu là đốc tờ, ông đốc tờ, làm chị hình dung ra ông bác sĩ già nua, tóc bạc phơ. Chứ thực ra ông anh đó lớn hơn chị có hai tuổi à. Miệng nói là đến khám cho bệnh nhân vậy thôi chứ hình như là ảnh kiếm cớ qua chơi. Mượn cớ qua làm quen bé Neta nhà mình đó mà! Thì ra bữa đi khám thì anh đốc tờ này thấy bệnh nhân cũng có gì đó ngây thơ, cũng có gì đó gây cho người ta thương nhớ (nhất là ảnh, làm cho ảnh thương nhớ!) Nên ảnh qua riết, qua riết à. Có cơ hội là ảnh qua. Có gì, cần gì, phôn cái là ảnh chạy tót qua ngay, khỏi bắt máy luôn. Coi, mới có một tuần mà khám xong, bác sĩ mời bệnh nhân đi ăn tối luôn mới chết. Gì mà trước khi ông đốc tờ qua khám là bệnh nhân đã phục sức chỉnh tề, tai gáy thơm tho, mặt mày sáng rỡ? Gì mà bác sĩ khám bằng cách cầm tay lên hôn, xong nắm tay dẫn con gái người ta ra xe, đi luôn tới khuya mới về? Tiến triển nhanh vậy thì chẳng phải là con bé Neta cũng phải lòng bác sĩ Maylone, có khi còn là từ cái nhìn đầu tiên, hay sao?
– Sao nữa, sao nữa chị?
– Tiếc lắm em ơi! Sau cùng thì bé Neta nhà ta không ưng. Con bé nói ảnh làm đốc tờ thì tuyệt nhưng làm “lốp vờ” thì rởm, rởm hết sức! Chị thấy ảnh cũng ô kê mà, không hiểu sao con bé Neta chê quá? Đốc tờ Maylone có đôi mắt xanh dễ thương và mái tóc màu củ gừng thuộc hàng hiếm, vậy mà… chả biết sao con bé còn chê nữa? Ảnh cũng hoạt bát, cũng dễ gần đó chớ. Chị thấy ảnh nói năng cũng từ tốn, đĩnh đạc đó chớ, nhưng vẫn ngọt ngào. Thơm thơm, cay cay đúng là y củ gừng, màu tóc ảnh. Vậy mà con bé không chịu là không chịu, không biết là không chịu chỗ nào. Con bé không chịu nên cuối cùng anh bác sĩ cũng từ bỏ cuộc luôn, rút cho xuôi, không đeo đuổi nữa. Rồi không đeo đuổi nữa là không qua khám bệnh nữa luôn…
– Hả? Vậy khi đó chị Neta khỏi bệnh chưa?
– Chưa. Trái lại, bỏ anh bác sĩ xong con bé đâm ra đau khổ, bệnh còn nặng thêm.
– Còn nuôi bệnh thêm…
Chị Zoe bỗng khúc khích cười.
Nhưng tôi biết là không phải cười vì lời nhận xét của tôi. Lúc cười, chị nhìn đi chỗ khác, chứ không có nhìn tôi.
– Chị cười gì đó?
– Không có gì…
– Vậy giờ chị Neta khỏi chưa chị?
– Khỏi rồi, mà cũng là nhờ anh đốc tờ Maylone.
– Hả? Là sao?
– Vẫn là nhờ anh Maylone chẩn đoán, còn anh Juozas mua thuốc chữa. Chia tay được hai ngày thì ảnh tung ra lời chẩn đoán. Té ra là ảnh biết bệnh gì từ đời nảo đời nào rồi, mà giấu. Hóa ra là dị ứng, dị ứng đó em! Thấy trong lữ quán, Neta gõ phím suốt ngày nên ảnh đoán là do bàn phím dơ. Nấm mốc, vi trùng sinh sôi bên dưới các phím nên khi tiếp xúc thì gây dị ứng, gây ngứa ngáy đầu mút các ngón tay.
– Chà, – Tôi trầm trồ thốt lên. – À vậy nên đầu các ngón tay sưng đỏ?
– Ồ không. Cái đó thì do đầu các ngón tay con bé hồng hồng sẵn rồi. Lúc chữa hết bệnh, hết ngứa, dầu ngón con bé vẫn đỏ đỏ, hồng hồng như thế thôi, đâu có hết.
– Chà… Vậy thì không qua chơi, ảnh đố mà đoán ra?
– Ừ.
– Chị có biết ảnh đoán ra khi nào không? Là trước hay sau khi chia tay? Để còn biết là anh này ô kê hay là hết sức đểu cáng.
– Câu hỏi thế kỷ đó em.
Chị tủm tỉm cười.
– À, thì sau đó tới vụ anh Juozas gỡ bàn phím ra vệ sinh? – Tôi nheo mắt hỏi.
– Ừ, xong vụ này thì tới vụ đó.
– Dạ.
– Như chị nói đó, nhìn thấy mắc gớm, Sherry à. Ảnh tháo keycap ra thì thấy khung bàn phím bên dưới meo mốc hết trơn, trắng bệch. Em cứ tưởng tượng như có ai đó làm đổ hũ phấn rôm vậy. Chị nhìn mà chị nổi hết da gà. Neta nó ngồi bấm máy trên đó hàng ngày được cũng hay thiệt… Con bé không ngửi thấy mùi mốc hay sao? Cũng phải quen dơ lắm mới không thấy gì ha! Đúng là trong đầu chị có các ý nghĩ như thế thoáng qua. Chúng nổi lên, phát ban lên như là óc mình dị ứng với cái hình ảnh trước mắt vậy. Nhưng không phải là chị cố tình nghĩ như vậy đâu. Chị xua các ý nghĩ đó ngay. Chị không muốn có ác ý, cũng không muốn cho bản thân nghĩ ác gì con bé hết. Mà chị thấy anh Juozas cũng khẽ rùng mình. Ảnh hơi nảy người lên một cái, làm như giật mình, nhưng lấy lại bình tĩnh ngay, sau đó thì cố tỏ thản nhiên. Giấu giếm phản ứng mình nhanh tới nổi mà chớp mắt là bỏ qua ngay, và cứ tưởng là anh Juozas không bao giờ có bất cứ phản ứng gì với mấy chuyện này hết, như là tiên là phật không bằng. Ai trong lúc đó mà không có phản ứng gì cho được? Nhưng đó là chuyện bình thường, Sherry nên hiểu là như thế. Ở thị trấn này có các loài mốc cực kỳ hung hãn. Và nếu như lơ là dù chỉ trong thời gian ngắn, là chúng mò vào nhà mình ngay, cướp miếng bánh mì, cốc sữa của mình luôn. Ai mà không biết như thế. Chính vì thế mà các ngóc ngách bao giờ cũng được lau chùi bóng loáng, chứ có cho chúng cơ hội bao giờ? Lamb đã xóa sổ mốc như là thế giới đã sổ sạch căn bệnh đậu mùa vậy. Thế nên bây giờ có thấy chúng tái xuất thì đúng là có cảm thấy sốc, nhưng lại không quá đỗi ngạc nhiên. Cơ mà, sốc nhất vẫn là con bé Neta. Chị quay qua dò coi phản ứng của anh Juozas, xong đến Neta thì thấy con bé đứng đờ người ra, cặp môi mấp máy nhưng không thành tiếng. Anh Juozas lẹ tay tháo hết keycap ra rồi ảnh ngoảnh ra sau lưng dòm con bé. Ảnh vừa cười vừa ghẹo con bé là “cái bàn phím này nó bị gàu quá.” Trời, anh Juozas nói chơi vậy thôi, cho nó đỡ ghê. Ai ngờ Neta nghĩ là ảnh chọc quê con bé. Ảnh vừa dứt câu là con bé bỏ chạy một nước, không ai cản kịp. Sau khúc này là khúc anh Juozas ngâm keycap trong cốc thủy tinh chứa thuốc diệt nấm đó. Còn Neta thì con bé bỏ làm ngày hôm đó, xong đi biệt mấy ngày liền không ai liên lạc được, làm cả lữ quán lo sốt vó. Mọi người cuống cuồng đi tìm, truy nã con bé, truy lùng như là truy lùng con bò lạc luôn. Mấy ngày sau thì có người thấy con bé ra vô lữ quán khác. Con bé trốn trong cái khu ban nãy mình gặp bác đưa thư á em! Con bé giam mình trong phòng bên đó, không chịu về. Lại anh Juozas phải qua dỗ. Đúng là bàn phím nó có dơ, nhưng phản ứng con bé gay gắt quá làm chị nghi là phải có gì đó sâu xa hơn, có gì trọng đại hơn, nên mới hết sức ám ảnh, chứ không đơn giản là do bàn phím dơ mà con bé tự ái. Ban đầu chị đoán là do con bé sợ người ta cho rằng con bé ở dơ. Thì chị cũng thoáng nghĩ là con bé ở dơ, còn gì? Nhưng mà đoán vậy thôi, chứ muốn biết rõ thì phải chờ con bé về mới biết được chớ. Đoán già đoán non làm gì? Dù rằng chị nôn gần chết! Chừng con bé về, chị sẽ tra khảo con bé gấp, tra khảo thiệt ác ôn, cho ra nhẽ! Chị sẽ tra khảo con bé coi bị gì, là bị gì? là có vấn đề gì mà hốt hoảng lạ? Nhưng mà lúc con bé về thiệt, kéo vô phòng “hỏi bài” thì con bé trả lời sơ sài là nó thấy xấu hổ không chịu nổi. Con bé thấy kinh tởm… chung chung. Con bé cảm thấy nhơ nhuốc… vì thói đời ô trọc. Thế thôi, hỏi gì hơn cũng không nói. Mà chị cũng không dám mò sâu. Mấy ngày mới về lữ quán, tâm trạng con bé còn chưa lấy lại sự vững vàng, chất vấn hơn nữa có gì thì gay! Thế là chị kiên nhẫn chờ. Giai đoạn đó, con bé nhạy cảm vô cùng. Đánh máy thì con bé bao giờ cũng đeo găng tay y tế. Mà một khi bà chủ quán thấy là bả bắt tháo ra ngay, cấm tiệt luôn không cho đeo nữa. Thế là đánh máy mà con bé cứ chốc chốc là xuống nhà sau rửa tay. Giai đoạn đó, cũng không ai dám chọc ghẹo gì con bé, cũng không dám nhờ con bé làm mấy công việc dơ tay như là rửa chén, thay bao rác, hay cọ nhà tắm. Mọi người sợ làm xong, bệnh con bé trở nặng thì chết. Bầu không khí lữ quán u ám vô cùng, không ai biết chừng nào con bé mới bình phục. À, mà hay một chỗ là chị không nghe ai phân bì gì hết. Người sống trên này quả nhiên ai ai cũng có cái vốn tốt bụng cơ bản. Chị em xì xào quan tâm cho con bé còn không hết, và ngày nào mấy đứa lữ quán kế bên cũng qua hỏi chị xem con bé khỏi chưa, đỡ bệnh chưa, nói gì tới chuyện phân bì? Có đứa còn hỏi bên chị có thọt người không, có gì bên đó xong sớm thì cho người sang giúp. Mấy đứa nó còn sợ là con bé không bao giờ bình phục mới chết!
– Em thấy tội cho chị Neta quá… – Tôi nhận xét bằng giọng bí xị.
Chị Zoe vừa xoa đầu tôi, vừa nói:
– Ôi dào, là chị thì chị chớ lo đâu. Lần lần con bé cũng bình phục thôi. Neta là một đứa cứng cỏi mà. Sang tuần sau thì con bé cũng đã đỡ đỡ, sang tuần tới thì khỏi hẳn luôn. Không còn những đêm đeo găng tay đi ngủ nữa. Con bé khỏe mạnh phấn chấn trông thấy. Con bé còn xung phong làm bù mấy công việc dơ tay mới đáng khen. Xong đợt đó, Neta nói là con bé thật lòng cảm thấy biết ơn các chị em đã không bắt con bé làm mấy công việc dơ tay đó, trong khi tinh thần con bé còn chưa vững vàng và còn ngại dơ. Cho dù làm mấy công việc đó cũng là nghĩa vụ của con bé đi chăng nữa. Không những vậy, con bé còn thấy quá là cảm động khi chị em không những đã tạo không gian cho Neta được yên thân, mà còn không nghĩ xấu xa, không xì xào bàn tán gì con bé hết. Được sống trong tình yêu và sự độ lượng của chị em, con bé cảm thấy thiệt là an tâm và hạnh phúc quá!
– Nhưng sao lắm người biết vậy chị?
Nghe tôi hỏi, chị Zoe đột nhiên tủm tỉm cười.
– Sao lắm người biết vậy? Người đàn bà xấu xa nào đó đã đi phao tin có phải không?
Vừa bụm miệng khúc khích, chị vừa phân bua:
– Em không được nghĩ xấu chị nghe. Vì mấy chị kia cứ sang áp lực chị hoài, bà chủ quán cứ gạn hỏi, mấy tên trong phòng thí nghiệm cứ nói khích chị…
– Ai mà áp lực được chị? Có mà chị đi loan tin khắp cái thị trấn.
– Chị đã bảo mấy tên trong phòng thí nghiệm bảo là nghe từ anh Juozas hay đốc tờ Maylone rồi.
– Trời đất. Thật là hết biết! – Tôi gãi đầu: – Mấy người có xì xào xấu xa gì luôn, có phải không?
– Sao em biết? – Chị cười tiếp.
– Phản ứng thế là có chứ gì. – Tôi nhíu mắt, như là khi đi dưới trời nắng gay gắt.
– Thì… cũng có. Cũng có nói. Nhưng mà là nói chơi thôi… (Chị Zoe cười chưa ngớt nữa!) Mấy đứa lữ quán kế bên gọi đó là “sự trả thù của đốc tờ Maylone.”
– Ra vậy. Cái gì mà sang giúp việc chứ? Có mà kiếm cớ sang buôn dưa lê thì có!
– Mấy đứa nó đồn là cũng tại (hi hi) con bé Neta nó cho đốc tờ Maylone “de” cho nên đốc tờ trả đũa bằng cách bạch hóa bí mật cái bàn phím dơ. Số là đốc tờ biết là con bé Neta dị ứng từ lâu, nhưng chưa tiết lộ. Tiết lộ hay không còn phải coi kết quả hẹn hò tối đó thế nào. Nếu mà suôn sẻ thì đêm tối, bác sĩ kín đáo bưng bàn phím về nhà lau chùi bên dưới cho sạch, sáng hôm sau bưng qua đặt y nguyên chỗ cũ, ai mà biết? Thế thì con bé Neta ngây thơ nhà ta sẽ nghĩ rằng (hi hi) nhờ có liều thuốc tình yêu mà con bé khỏi bệnh.
Chị ném cái nhìn lên trên bao lơn một căn nhà sát bên hai tôi, tầng hai. Đoạn, vừa nói, chị vừa giơ cao tay phải, chào kiểu Quốc Xã, nhưng với lòng bàn tay ngửa lên, dịu dàng, tạo thành dáng đứng của Romeo bên dưới ban công của Juliet.
“Ôi tình yêu! Ra căn bệnh mà ta mắc phải là căn bệnh thiếu thốn tình yêu hay sao? Ngọc Hoàng ban cho ta nỗi ngứa, nỗi ngứa vì khao khát được yêu? chẳng là vì Người muốn cho ta cơ may được gặp chàng, đức lang quân mà Người dành cho ta đó, hay sao? Ôi, tình yêu của ta, tình yêu. Ta lẽ nào cồn cào là do đói ngấu nỗi niềm yêu đương? Tay lẽ nào ngứa ngáy là bởi trống vắng bàn tay ai? Chà, con người chàng mới đáng yêu làm sao, đáng yêu làm sao! Yêu chàng, tâm hồn ta ướt sũng nước thánh và cảm thấy viên mãn làm sao, sung sướng làm sao. Từ ngày yêu chàng thì mối canh cánh trơ trọi của ta cũng tan biến, thì căn bệnh cũng vơi đi, và nỗi côi cút dằng dặc cũng rút về đại dương xa, như là sóng trên bờ bể rút về biển cả, chỉ còn sót lại những chai pha lê dạt vào bãi cát là các kỷ niệm của chàng và ta, chỉ chàng và ta mà thôi. Ôi, những kỷ niệm trong chai miểng!”
Được khi cửa sổ tầng hai mở toang, và nghe lời chị Zoe tỏ tình trong gió, tấm màn khẽ rung động.
Cuối cùng, chị hạ tay xuống, vui vẻ nói:
– Hôm bữa có con bé kia nó diễn tuồng như vậy. Các chị cười như nắc nẻ.
– Các chị tốt bụng ghê. Chị Neta đặt lòng tin vào các chị là có sai? – Tôi khoanh tay, nhếch miệng mỉa.
Tôi mỉa bằng giọng hơi chua chua thôi, vì giọng tôi cố cách mấy cũng không có chua lè được. Nhưng mà càng ít chua thì nó càng mỉa mai hay sao ấy. Rồi đến cả chị… Càng mỉa mai càng làm chị mắc cười hay sao ấy?
Tôi vừa dứt lời là chị phát cười.
Vẫn khoanh tay, tôi đứng trông chị cười ôm bụng và gập đôi cả người. Nhìn từ xa, chắc người ta nghĩ là tôi đang đứng chờ chị ói xuống đường quá.
– Thôi thì nói tiếp này, không cười nữa… – Chị vừa cười vừa bảo.
Đến lúc tiếng cười sắp tan, chị Zoe vịn bàn tay mềm mại lên vai tôi, như là người say lảo đảo bám vào cây cột điện cho khỏi ngã. Sự mềm mại từ bàn tay chị truyền qua người tôi như luồng điện. Và trong vô thức, tôi thấy mình cũng dần dần nới lỏng ra: các nút thắt cả trong cơ bắp (uầy, hơi bở) lẫn trong đạo đức (uầy, cũng hơi bở) làm như chùng ra, giãn ra, dẻo ra. Đó chẳng là lời nguyền của lòng trắc ẩn hay sao? Thay vì khoanh tay, tôi thấy cơ thể thấp thỏm muốn dang hờ tay ra, như là phản xạ, phòng khi thân thể ngọc ngà kia ngã, như cái bình quý ngã đổ, thì mau tay chụp còn kịp.
Có lẽ sức tôi thì khó mà đỡ chị được. Nhưng tôi hình dung là chị từng làm vậy với một người đàn ông khác, với cơ thể dù là yếu nhớt nhất giống đực thì cũng đủ sức mà đỡ cho thân thể chị, và đó là cái khoanh tay giận dữ thật sự chứ không là giận đùa của tôi bây giờ thì cái cách đó đã đạt thành công mỹ mãn: anh ta gỡ cái khoanh tay ra thật, có khi còn hết giận. Nên bây giờ chị đặt bàn tay lên tôi như một đòn phá thế hữu hiệu. Tôi tự giác dang tay ra, chiều theo linh tính, và cho dù là giận đùa thì cũng hết giận.
– Sau đó thì sao? – Tôi hậm hực hỏi, thái độ của kẻ vừa bị tịch thu mất cơn giận.
Chị vẫn còn rúc rích cười, nhưng khi tiếng nói chen vào cái mớ âm thanh khúc khích, thích tai đó thì tiếng cười cũng lịm dần:
– Chừng nào thấy êm xuôi hết thì chị ngỏ lời hỏi coi đợt đó con bé nghĩ gì, cảm thấy ra làm sao. Nói thiệt cho chị nghe coi. Phải nài nỉ lắm thì con bé mới nói toẹt ra là con bé cảm thấy bàn phím như trở thành… một bộ phận thân thể con bé vậy. Là sao, chị hỏi. Một “cơ quan nhân tạo,” con bé bảo thế. Chính vì ngày nào cũng đánh máy, cũng quấn quýt bên cái bàn phím nên, từ lúc nào không hay, cơ thể con bé làm như quen với cái bàn phím luôn. Dạng như mấy người mù chống gậy lâu ngày thì họ cảm giác như cây gậy là cánh tay nối dài của họ ấy. Một vật bất ly thân. Và đã là một vật bất ly thân thì trước sau gì nó cũng được thăng chức thành một phần cơ thể không chính thức, một “bộ phận cơ thể phi chính thức” rồi thành một “cơ quan phi chính thức,” rồi một “cơ quan bán chính thức,” và rốt cục thì thành “cơ quan không chính thức thì không được.” Không phải lời chị mà chính con bé nói thế. Chưa bao giờ chị nghĩ là con bé mà cũng nói ra được mấy lời như thế. Thế là trong các ngày râm rang trong phòng tối thui và rèm kín mít, trong cái lữ quán cũ trong hốc núi đó, con bé cứ ám ảnh nghĩ về vụ cái bàn phím miết không thôi. Nếu cây gậy là cánh tay nối dài người mù, thì bàn phím là nối dài của bộ phận nào của con bé? Ngón tay? Đầu mút ngón tay? Thế ra cảm giác ngứa ngáy là từ bàn phím truyền tín hiệu lên các đầu mút ngón tay, cũng như từ các đầu mút ngón tay truyền tín hiệu lên não? Con bé bảo là có hôm, con bé ngủ mê thấy mười ngón tay dính liền vào bàn phím không gỡ ra được. Xong thì, thì… có ai, một ai đó… đè con bé nằm xuống, sấp xuống, hai tay duỗi lên trên đầu, và bấm lách cách lên chiếc bàn phím – ngón tay. Con bé nghe tiếng bấm dịu dàng, lực bấm êm ái và đáng sợ hơn là cảm giác khoan khoái, tê tê, các khoái cảm xúc giác xuất phát từ các đâu đó xa hơn là ranh giới cơ thể, bên ngoài nữa và dào dạt vỗ vào, xâm nhập vào cơ thể qua các đầu ngón tay, và rùng mình như là khi các nhân viên mát xa ấn lên huyệt. Chán chê, người ta ẵm con bé vào suối nước nóng, không tắm táp bằng xà phòng gì hết mà dơ dáy như thế, xuống hẳn suối nước nóng luôn thật là trâng tráo, và đặt cho con bé ngồi tựa lưng vào người ta, như ngồi tựa lưng vào một cái ghế tatami, và người ta tựa lưng vào tảng đá, dưới tán cây anh đào cổ thụ, và, như lẽ tất yếu, anh ta tháo rời các keycap ra khỏi cái bàn phím – tay con bé, và dùng ngón tay, hai ngón tay thon mảnh, nhưng rám nắng, mà hí hoáy kỳ cọ cho bằng sạch từng switch, từng switch một. Switch màu đỏ. Bỗng, một cây phong to lớn trước mặt con bé hóa thân thành một con cáo màu cam, cũng to lớn, có chín cái đuôi, và nhào tới, cắn anh ta và xơi mất nửa phần thân dưới, tình cờ giải thoát cho con bé. Khỏi cái “khoái cảm bất tự nguyện” này. Là lời con bé luôn, chớ phải của chị! Toàn bộ cái giấc mơ đó làm con bé, lúc tỉnh dậy, thì ngượng đến chết đi dược. Cảm giác không còn thấy thú như trong mơ, mà cái sự ngượng ấy đen dần như là trái chuối chín nẫu, sau đó thì bao trùm trí não con bé trong các suy nghĩ túng quẫn. Hình ảnh bàn phím có mảng bám màu trắng và nồng nặc mùi mốc cứ lẩn quẩn trong đầu không thoát ra được. Bụng cảm thấy muốn ói mửa. Và cái câu “cái bàn phím này gàu quá” cứ ngân lên trong ốc tai, làm sao đây? Làm sao đây, làm sao bây giờ? Con bé hỏi chị như thế đấy. Và con bé hỏi chị như thế này: nếu như có một người con trai sạch sẽ mà mối quan hệ bấy lâu nay giữa mình với người con trai đó mình vẫn giữ cho sạch sẽ – là một mối quan hệ sạch sẽ. Xong bỗng nhiên có ngày, người đó giở ra một bộ phận hết sức thầm kín trên thân thể mình, cho dù là một bộ phận chỉ chính thức có một nửa, một bộ phận mà trước đây mình cũng không hay biết là tồn tại, cũng không ngờ là bộ phận đó thuộc về cơ thể mình. Và do đó mình cũng chưa bao giờ ý thức đến việc vệ sinh. Nhưng người con trai đó vừa giở ra là mình ý thức ngay bộ phận đó thuộc về mình. Là cơ thể mình, phận sự thuộc về mình và bổn phận vệ sinh là của mình. Đáng lý mình không bao giờ được cho anh ta thấy nó bẩn thỉu như thế nào mới phải. Đáng lẽ mình không bao giờ được cho anh ta giở nó ra mới phải. Con bé bảo là con bé mới thấy thật lõa lồ, vừa lõa lồ vừa dơ dáy làm sao. Lâu ngày, các thứ nhơ nhuốc tích tụ, sinh sôi bên dưới đó thì người con trai giở ra và cái dơ dáy lâu năm đó đập vào mắt anh ta, bốc vào mũi anh ta. “Trời ơi, em thấy nhục muốn biến thành con bướm mà bay đi cho rảnh, chị à! Có lẽ… vì mọi chuyện cũng đã lỡ nên có lẽ… cách duy nhất là thủ tiêu anh Juozas!” Con bé nói với chị như vậy với gương mặt đau đớn thấy rõ. Kìa, con bé nói gì lạ? Hôm đó chị cũng thấy cơ mà. Không lẽ thủ tiêu cả chị? Thì Neta đáp là chị thì không sao. Vì chị là con gái nên không sao. Con gái với nhau lỡ thấy của nhau cái gì dơ dơ cũng không vấn đề gì. Nhưng vì anh Juozas là con trai. Là đàn ông! Là đàn ông sạch sẽ và lịch thiệp. Con bé nói bấy lâu nay có trò chuyện với anh Juozas thì cũng là các cuộc chuyện trò vô tư, trong sáng, sạch sẽ và lịch thiệp. Nhưng kể từ ngày hôm nay thì còn như thế làm sao được nữa? Dù là trò chuyện sạch sẽ, trong sáng ra sao thì lẩn quất bên dưới vẫn tránh làm sao được các ý nghĩ khinh rẻ, coi thường. Vẫn là cái suy nghĩ là mình đang nói chuyện với một con bé ở dơ, nhà quê. Đến cả cơ thể mình mà mình còn không biết rửa ráy, săn sóc cẩn thận? Chính vì thế mà mối quan hệ của con bé với anh Juozas sẽ không bao giờ được như cũ nữa! Kết cục thì con bé thở dài giãi bày với chị là con bé thực tình cảm thấy vô vọng làm sao khi tính tới cách thủ tiêu anh Juozas: vì anh Juozas to lớn và khôn khéo hơn con bé gấp biết bao nhiêu!
– Trời! – Tôi sửng sốt thốt lên. – Gì mà nghe khổ tâm kinh khủng!
– Ừ, khiếp thật. Chị cũng đâu có dè là con bé nghĩ quẫn tới chừng đó. Nào giờ chị cứ đoán chừng là con bé Neta… nó hồn nhiên, vô lo, như thôn nữ mới lớn thôi. Hôm nọ nghe con bé nói xong, chị mới vỡ lẽ và biết là mình lầm. Con bé còn… overthinking hơn là chị hình dung.
– Chị có nói gì an ủi chị Neta không?
– Thật tình thì… chị cũng không biết nói gì. Ngay lúc đó thì chị chả nói được gì sâu sắc đâu. Không biết nói gì thì đúng hơn. Nghe con bé nói, chị còn choáng váng, mãi mấy tiếng sau mới hoàn hồn. Tại vì… chị cũng phần nào đồng cảm được với con bé. Chị cũng biết cảm giác đó như thế nào. Cái chuyện mà con trai họ mò ra cái phần nào đó không được vệ sinh kỹ càng của mình đó… chị cũng hiểu cảm giác đó ra làm sao! Chỉ khác cái tình huống mà thôi. Vậy nên lúc đó chị cũng cứng họng. Chị cũng cảm thấy… gọi là thế nào nhỉ? À! Chị cũng thấy xấu hổ lây!
– Really? – Tôi bỗng ré lên lời cảm thán từ trong bụng, và, vì vừa dùng bánh nhãn hiệu ngoại quốc (Rabbit Cake) nên bây giờ, có lẽ là vừa tiêu hóa hết, bụng tôi ợ ra một chữ tiếng nước ngoài.
Tôi cuống quýt sửa ngay:
– Thiệt hả chị?
– Really! – Chị Zoe rắn mắt đáp. Và chị mỉm cười.
– Tình huống nào?
– Thôi nào Sherry. Xấu hổ lắm, không kể đâu.
– Xấu hổ lắm cơ à?
– Phải, nhưng mà không kể đâu. Sherry đừng hòng cạy miệng chị!
– Thế lúc đó chị cũng đâu có kể cho chị Neta nghe chớ? – Tôi nhíu mày, đáp, tỏ vẻ chực chờ ghen tuông.
– Ui, không đâu. Bí mật này, chị đem theo xuống mồ. Xấu hổ lắm!
Nghe có vẻ không thiệt lòng cho lắm. Nghe có vẻ như tôi mà truy cứu thêm thì kiểu gì chị cũng phun ra bí mật mà thôi.
Nhưng chị Zoe thấy có vẻ như tôi sẽ mất thời gian truy dò bí mật này nữa, và tôi sẽ chớ truy dò một cách công khai, trực diện đâu mà sẽ đặt những cái bẫy, hỏi dèm, hay nghĩ ra trò nào đó lung tung, mất thời gian thêm. Đã xác định rõ là không kể đâu, hoặc đối với tôi thì lúc này chưa phải lúc, hoặc là chị chưa sẵn sàng hay gì đó, nên chị quả quyết luôn cho tôi khỏi mất công:
– Nhưng khi đó thì tuyệt đối không. Khi đó, chị muốn dành mọi sự chú ý cho con bé Neta mà thôi. Con bé xứng đáng được như vậy. Và vì cũng đang nói chuyện Neta cơ mà, chớ nên chõ chuyện mình vào làm gì!
Chị nói khéo thế thôi, chứ ánh mắt có hơi sắc lại tỏ ý cho tôi biết là thôi, tập trung vào chuyện Neta nè, vì cũng sắp đến cuối con đường Paul Gauguin rồi.
Từ đây đã thấy các bậc thang hùng dũng, rợp bóng hai hàng cây phong xen lẫn cây phượng vĩ, dẫn có lẽ là các anh hùng trong truyền thuyết lên đỉnh Benjamin Mt. trống không. Hành trình tìm tới sự chưng hửng. Đáng lý có ngôi đền hay gì trên đó thì đỡ vô nghĩa hơn.
– Dạ, chị nói phải. Cái gì mà nó chí mạng quá thì nói làm sao đành? – Tôi phủi cái ý muốn đó đi và nhảy qua ý khác: – Cơ mà, anh Juozas dỗ gì mà chị Neta hết buồn hay ghê?
– À, chị có hỏi vụ đó luôn. – Chị Zoe giơ ngón trỏ lên, làm như để xác định hướng gió, và ôn tồn nói: – Anh Juozas phải vỗ về con bé ngon ngọt hết cỡ, âu yếm hết lời thì con bé mới nghe, chứ không dễ. Ảnh nói như sau, và em nên hình dung là ảnh nói bằng cái giọng diễn xướng điềm đạm, ngọt ngào, bao giờ cũng thế, và anh Juozas nói như là cho ai đó nghe, như là ảnh bào chữa cho mình, em gái ảnh, chứ không có nói trực tiếp với mình: Như em (Neta) đã biết và như ai ai cũng biết thì bàn phím lâu ngày không vệ sinh thì nó dơ là chuyện đương nhiên thôi. Không phải là do Neta lười vệ sinh, vệ sinh qua loa, không kỹ, và nhất định không phải là do Neta ở dơ. (Ảnh phải cạy cái suy nghĩ đó vứt ra cái đã, giống như cái răng sâu.) Anh Juozas không bao giờ dám nghĩ là do con bé ở dơ. Ảnh chưa bao giờ nghi ngờ độ sạch sẽ của Neta và của môi trường xung quanh Neta luôn. Mà trái lại, ảnh có thể cam đoan cho, dù là trước tòa, rằng Neta sẽ làm mọi cách, không từ mọi thủ đoạn, để giữ cho mình và xung quanh sạch sẽ và thơm tho hơn cả mức cần thiết. Trường hợp này là hy hữu của hy hữu. Bằng chứng là với chiếc bàn phím, trong khi kiểm tra và vệ sinh, anh Juozas thấy là nó còn vương mùi hương rất mới. Đó là mùi hương dịu dàng được pha chế từ tinh dầu vỏ cam bergamot. Một thứ mùi hương như thế thì lưu hương được lâu lắm là vài ngày, chứng tỏ là Neta vừa sức dầu hương mới cho chiếc bàn phím gần đây mà thôi. Mà trước khi sức dầu hương, lẽ nào người ta không vệ sinh kỹ càng cho nó? Điều này chứng tỏ là Neta giữ gìn vệ sinh bàn phím nói riêng, và cả bàn làm việc nói chung, với một thái độ không thiếu cần mẫn và nghiêm túc. Thứ nữa là do cấu tạo của chiếc bàn phím. Vì chiếc bàn phím có cấu tạo cầu kỳ, các phím san sát nhau – cụ thể là khoảng cách giữa hai phím quá nhỏ, gần như bằng không, và trông bằng mắt thường thì gần như là không có khoảng cách – khiến mình dễ nghĩ rằng dàn “mái hiên” keycap này đã che phủ hoàn toàn khung bàn phím bên dưới, và nhất định là không gì rơi rớt xuống bên dưới được. Nếu có thì hẳn phải là các mẩu vụn bánh li ti, những hạt bụi mịn không nhìn thấy bằng mắt thường, hay là chất lỏng. Nhưng rõ ràng là với bản tính kỹ càng của Neta, và Juozas đã xác minh rõ ràng với các quý người thân của Neta, là con bé chưa bao giờ ăn uống trên bàn làm việc cả. Con bé coi hành động đó là lỗ mãng với công việc và lỗ mãng với phần nữ tính bên trong mình. Và dĩ nhiên là chưa bao giờ có vụ làm đổ nước lên bàn phím. Và bằng chứng rõ ràng nhất vẫn là khi khám nghiệm thì có thấy vụn bánh, bụi, tóc tai gì rơi rớt bên dưới đâu? Chỉ có mốc mà thôi! Thế thì cái gì lọt xuống bên dưới và làm mồi cho mốc? Xin thưa, câu trả lời là dầu nhờn. Thứ mà chúng ta nào mà ngờ tới được? Đó là khi Neta đánh máy, bã nhờn tiết ra từ các tuyến dầu trên đầu mút ngón tay và di chuyển xuống bên dưới khung bàn phím. Có Chúa mới biết vì sao ngón tay con bé tiết dầu nhiều đến thế. Neta có trách nhiệm nào trong việc này không? Có, chắc chắn là có. Nhưng làm gì có chuyện Neta không chú ý đến những ngón tay có tật tiết dầu của mình? Và làm gì có chuyện con bé không làm hết cách trong khả năng để đảm bảo tình trạng tiết dầu nhờn của mình không dây ra môi trường xung quanh? Trong hộc bàn con bé có khi nào thiếu một hộp khăn giấy, mà, sau khi đã lấy lời khai kỹ càng từ bà bán tạp hóa thì thấy là Neta mua khăn giấy hết sức đều đặn, và tất nhiên là luôn chọn loại khăn giấy chuyên dụng nhất cho việc thấm dầu? Hơn nữa, kết quả khám nghiệm hiện trường cho thấy hết thảy vật dụng trên bàn và trong hộc, từ cây bút, con chuột máy tính, cốc nước bằng sứ, đến các nút bấm trên quạt để bàn, máy in cũng không thấy bất kỳ vết dầu nào. Thế còn không là quá kỹ càng, còn gì? Nhưng đã kỹ càng đến thế thì bằng cách nào mà cái sự cố hy hữu này vẫn còn có cơ hội xảy ra được? Vì, em thấy đấy, đó là một sự cố xui xẻo, tột cùng xui xẻo, nhưng một khi phân tích rành rẽ thì sẽ thấy trước sau gì cũng xảy ra. Cho dù có cố gắng chùi tay mỗi khi cơ hội cho phép thì vẫn có những lúc mà phải cách rất lâu thì Neta mới có cơ hội chùi tay được. Đó là những lúc nào? Còn là lúc nào khác ngoài thời điểm hàng loạt lữ khách lũ lượt check out? Hãy hình dung ra hàng dài các lữ khách sốt ruột chờ đến lượt mình, và Neta là nhân viên tiếp tân duy nhất của lữ quán. Chùi trước mặt khách coi sao được? Chẳng phải là con bé phải chờ đến khi hành khách đã hoàn thành check out hết và đã đi khuất mắt thì mới đường hoàng rút khăn giấy ra và lau chùi tay, lau chùi bàn phím được hay sao? Phải có hở một khoảng thời gian nào đó mà không có ai nhìn, vì rút khăn giấy và lau tay, lau bàn phím không những là mất thời gian, khiến lữ khách chờ trong khó chịu, mà họ còn thấy khó chịu hơn vì hành động đó bản thân nó là một hành động khiếm nhã và lẽ nào không gây ấn tượng không đẹp cho lữ quán? Nhất định là do những đợt đánh máy kéo dài như thế mà dầu nhờn có dư dả thời giờ mà rịn ra tới mép các nắp keycap; sau đó khi ấn phím xuống thì dầu dây xuống khung bàn phím bên dưới. Em (Sherry) thấy đó, cho dù thời tiết Lamb dễ chịu vào ban sáng và ban chiều, nhưng vào trưa thì nắng vô cùng lớn. Khí trời oi bức mà còn có hàng tá người đứng xếp hàng check out chật ních, và thường thường họ toàn check out cũng một lúc không à, thì nhiệt độ trong sảnh bằng gỗ này, với những chiếc quạt ưu tiên khách hơn là nhân viên, ưu tiên tóc, mặt hơn là bàn tay, đời nào oi bức hơn? Dưới nhiệt độ đó, bàn tay có chảy mồ hôi và dầu nhờn thì cũng làm sao mà tránh được? Và thế là mồ hôi, bã nhờn tất nhiên sẽ loang ra bóng loáng trên bề mặt các phím và tất nhiên là đủ lâu sẽ thấm xuống bên dưới. Và với thiết kế như thế cho mình cái cảm tưởng là chỉ cần lau bên trên là đủ, bên dưới làm gì dơ đâu, thì tất nhiên là ngày qua ngày, dầu nhờn sẽ tích tụ và làm mốc. Tất cả là một màn kịch tinh vi của tạo hóa hòng đẩy Neta vào con đường tội lỗi không sao tránh được. Nhưng sự thực là như thế, là tai nạn, chứ không có phần nào là lỗi lầm của Neta hết. Không những thế, qua những cảm xúc bàng hoàng và xấu hổ của Neta khi nhìn thấy đống mốc sinh sôi dưới bàn phím và các hành động dằn vặt, tự đổ lỗi cho mình đã không giữ bàn phím cho sạch là đã đủ thấy Neta là một người con gái thuần khiết, cao nhã và đáng yêu đến nhường nào!
– Ảnh nói vậy mà ăn thua? – Tôi hốt hoảng rú lên. Xong sực bình tĩnh lại thì tôi nghĩ khác, nói: – Ảnh nói vậy ăn thua chớ?
– Ăn thua chứ em! Em thử ngồi chịu trận mấy giờ đồng hồ ảnh ngồi vừa nói ngọt, vừa khen, vừa tâng bốc em, vừa phân tích từng cái, từng cái một xem em “vô tội” ra làm sao, em trang nhã như thế nào, em đáng yêu cách mấy… Và nhất là bằng cái giọng Thành phố buồn của ảnh mà nghe. Ý là chị đã cắt bớt mấy chục từ đồng nghĩa với “dễ thương” mà ảnh cứ tự hào sức vô mặt mình, cứ như là dầu thơm. Né né ảnh ra chứ nghe ảnh nói miết, chắc mình phát khùng, mình gia nhập giáo phái của ảnh luôn quá!
– Mấy người mặc áo blu đúng không chị?
– Ừ, giáo phái “Thiên thần áo trắng” của giáo chủ Juozas đó.
– Thiên thần áo trắng? – Tôi phì cười. – Cái tên gì mà củ chuối?
– Ha ha, củ chuối thiệt.
Và chị Zoe hạ màn câu chuyện Neta này với nụ cười trên khóe miệng:
– Nghe ảnh nói riết, con bé không xiêu lòng mới lạ. Đến bây giờ thì con bé hồi phục hẳn, cả bên trong sinh hoạt lẫn bên trong suy nghĩ. Con bé không đổ lỗi cho mình nữa, gõ phím cũng cồm cộp, mạnh dạn, thản nhiên như chưa từng có gì xảy ra!
– Thấy chị Neta bình phục như vậy cũng mừng ha chị!
– Ừ, chị cũng thấy mừng.
Tôi tung tăng đung đưa túi bánh và cốc nước bên tay trái. Chúng đựng trong hai chiếc túi giấy và tôi nắm hai cái quai trong lòng bàn tay.
Nhưng mà nếu vậy thì đâu phải là mấy chị kia ngại tâm sự thầm kín với nhau? Chị Neta chẳng vừa trải hết lòng mình cho chị Zoe đó sao? Nếu vậy thì chỉ có chị Zoe là ngại không thổ lộ chuyện của mình cho các chị kia mà thôi!
Tôi vừa sửng sốt phát hiện ra mũi tên tâm sự giữa mấy chị mặc đồ y chang nhau này hóa ra lại không phải là mũi tên hai chiều, thì chị Zoe hé môi, giọng có hơi chùng xuống, dường như kể chuyện Neta thì chị vui hơn, hào hứng hơn, còn lúc nói về mình thì hào hứng không bằng:
– Tuần lễ sau đó là tuần mà chị bị mất móng tay và gặp ác mộng, là tuần trước. Đến giờ chị vẫn không dám chắc mấy chuyện này có can hệ gì đến nhau không…
Thế là chị quay qua nhìn tôi, vẻ như vừa mới được nhẹ nhõm:
– Chị cứ nghĩ đến chiếc bàn phím, Sherry à. Cho dù chẳng là bàn phím của chị. Nhưng, như chính chị vừa nói ban nãy, chị cứ hình dung bên dưới móng tay của mình giống y như bên dưới keycap bàn phím. Mình không chú ý, mình không bao giờ vệ sinh. Mình có nghĩ là nó dơ bao giờ? Nhưng có khi nào, lâu ngày không vệ sinh thì các thứ bụi bẩn sẽ lọt vào, đóng cặn, và tạo môi trường cho vi trùng, nấm mốc sinh sôi? Trong mơ, móng tay đen sì, tóe máu lẽ nào cũng là do thế: nhiễm nấm, nhiễm trùng?
Tôi hiểu ngay là chị ái ngại cái gì, lo âu cái gì và, theo phản xạ, tôi bỗng giơ bàn tay lên, co các đốt ngón tay làm động tác như sắp cào ai đó, nhưng lại xoay lòng bàn tay vào trong, về phía mặt mình, như là sắp tự cào vô mặt mình. Tôi ngắm nghía các móng tay, và nói:
– Có khi cũng vì vậy… mà đó giờ em rất ngại sơn móng tay.
– Thật à? – Chị thích thú hỏi: – Vì sao thế?
– Có lẽ vì… cảm thấy bất an. Nghĩ đến móng tay của mình sơn kín bao giờ cũng khiến cho em cảm thấy bất an. Nhưng trước giờ em không bao giờ hiểu là vì sao em lại cảm thấy bất an như thế. Em không cắt nghĩa được. Hôm nay, nghe chị nói, cảm giác như em cũng hiểu ra phần nào. Em thực tình không muốn có bất cứ góc khuất nào trên thân thể mình hết. Cảm giác là góc khuất đó mình mất kiểm soát và không còn là của mình nữa. Là một vùng da mà bất cứ cái gì cũng có thể tác oai tác quái. Vi trùng chẳng hạn. Nấm chẳng hạn. Sơn móng tay thì… thì không còn nhìn thấy vùng da dưới móng tay nữa. Không theo dõi được điều gì diễn ra bên dưới nữa và lỡ đâu, có bệnh gì ngấm ngầm bên dưới cũng không biết không hay.
– Ôi trời… Em quá nghĩ rồi, Sherry à! – Chị vỗ một tay mềm mại, sửng sốt vào sau lưng tôi.
Hai tôi đã xuống tới cuối đại lộ Paul Gauguin. Con lộ rẽ làm hai. Ngã rẽ tay trái tiếp tục trải nhựa láng, và rộng rãi; trong khi ngã rẽ tay phải thì lát đá, như hầu hết đường xá Lamb khác.
– Có bệnh hoạn gì sẽ thấy đau, ngứa thôi mà. – Chị Zoe trấn an, giọng ngạt ngào mùi lòng trắc ẩn.
– Em sợ là khi đó là quá muộn… – Tôi ngập ngừng. – Nghe nói tới các căn bệnh nấm móng, sứt móng, em cứ thấy sợ hãi, không an tâm.
Bây giờ nói ra thì tôi tự thấy ngốc. Muộn cái gì chớ?
Thành ra, trong phút bối rối, tôi nhận vơ mấy căn bệnh không mấy phổ biến và hoàn toàn có thể chữa này làm lý do cho nỗi sợ của mình, cho nó có lý chút đỉnh.
Dường như chị Zoe vẫn hiểu là tôi sợ vu vơ cái gì, và sợ là sợ cái gì đó vu vơ hơn là cái rõ hình rõ dạng. Tôi vừa nói quá muộn, cái gì đó quá muộn, là chị đã tỏ lòng tôi rồi, chẳng cần phải nói cho cụ thể thêm ở vế sau.
Từ vế trước, chị đã khum bàn tay và bàn tay đã mắc dỗ, chực vỗ về tôi vào sau lưng. Bàn tay đứng nghe tôi nói nốt vế sau cho phải phép, rồi âu yếm vỗ vào lưng tôi theo cái ý chí ban đầu của nó.
– Làm gì có ai phải cưa tay vì sơn móng tay đâu, Sherry?
Bàn tay vỗ vào lưng dịu dàng và liền liền, như là sóng vỗ vào bãi, gió vỗ vào mây. Nếu như tôi có đeo cặp và trong cặp có chiếc đồng hồ báo thức đang reo thì cảm giác cũng y như vậy đó.
– Nghĩ như thế làm cho chị an tâm.
– Là anh Juozas bảo chị nghĩ như thế, có đúng không?
Và chị đáp lại tôi bằng đôi mắt trìu mến:
– Phải, Sherry à. Là anh Juozas. Vẫn luôn là anh Juozas đó, Sherry!


0 Bình luận