Đêm đó, sau khi nhận được bó giấy da chứa bản dịch Thánh Kinh, Col gần như không ngủ được. Cậu dán mắt vào bàn làm việc, mải miết đọc từng trang và đối chiếu với nguyên bản. Cậu bị nhấn chìm trong dòng chảy của kích thích trí tuệ, liên tục bất ngờ trước những cách diễn giải và cách dùng từ.
Cậu mơ hồ nhớ rằng Myuri có vẻ khó chịu vì không ngủ được do ánh nến sáng quá, nhưng rồi cô bé cũng im lặng lúc nào không hay.
Và rồi, cậu bỗng nhận ra mình nghe thấy tiếng xe ngựa đi ngang qua bên ngoài. Cậu cảm giác như mình đã thức đọc suốt đến tận bây giờ, nhưng hóa ra lại đã ngủ gật từ lúc nào, và giờ thì một tấm chăn đã được đắp lên vai. Cậu nhìn về phía giường, nơi Myuri đang co người lại ngủ say. Nhìn thế nào thì cũng thấy như thể cô bé đang bó tay vậy.
Do ngủ trong cùng một tư thế giữa tiết trời lạnh giá, cơ thể cậu cứng đờ như một cành cây khô. Cậu từ từ vươn vai giãn người, rồi quyết định sẽ chợp mắt thêm một chút nữa. Khi trườn vào chăn, cảm nhận được hơi ấm còn sót lại từ thân nhiệt của Myuri, toàn thân cậu liền giãn ra, và lập tức chìm vào giấc ngủ.
Đến khi tỉnh dậy lần nữa, Col bật dậy như thể vừa bị dội một xô nước lạnh vì cảm giác hối hận và lo sợ tràn tới bất chợt.
“Phải đi chuẩn bị bữa trưa!”
Mặt trời đã lên cao, và nhìn màu ánh sáng, cậu lập tức nhận ra rằng bữa sáng ở nhà tắm đã xong, giờ là lúc phải chuẩn bị cho bữa trưa. Cậu đổ mồ hôi lạnh và thấy bản thân cần lập tức xin lỗi Lawrence, người chắc hẳn đã phải xoay xở một mình. Cậu buồn bã vì đã phá vỡ chuỗi ngày dậy sớm đều đặn suốt mấy năm qua, vội vã bật khỏi giường, và ngay lúc đó, cậu nhận ra điều bất thường—
“...Chào buổi sáng?” Myuri đang ngồi ở bàn, vừa chải tóc vừa ngẩng lên, chào một cách khó hiểu.
“À… đúng rồi, đây không phải là nhà tắm...”
Từ ô cửa sổ mở, tiếng ồn ào nhộn nhịp của thị trấn vọng vào.
Có mùi muối thoang thoảng trong không khí.
“Anh thật là siêng làm việc đó, anh trai.”
Myuri cười, đầy ngạc nhiên lẫn châm chọc.
“Mà trong lúc anh còn ngủ nướng như một ông già thì có một gói hàng được gửi tới đấy.”
Myuri vốn là người thường bị la vì ngủ nướng, nên giờ đây cô bé rất khoái chí vì được dịp trả đũa. Cũng khó trách khi cô bé chẳng buồn đánh thức Col dậy. Chắc chắn là cô bé đã rất đắc ý khi thức dậy và thấy anh trai vẫn đang ngủ say.
Col lập tức nhớ ra phải kiểm tra mặt mũi và quần áo xem có bị bày trò nghịch ngợm nào không.
Rồi, cậu nhìn về phía gói hàng. và cơn buồn ngủ lập tức tan biến.
“Myuri, tránh ra một chút.”
“Ơ—.?”
Cậu nhấc gói hàng để cạnh cửa, đặt mạnh lên bàn. Myuri bị đuổi sang chỗ khác, miễn cưỡng ngồi xuống giường.
“Chừng này thì chắc là đủ để...”
Bên trong là những tờ giấy làm từ vải vụn và cả đống giấy da cừu. Mực thì đầy tràn, còn bút lông thì nhiều đến mức có thể khiến người ta bay lên trời.
“Anh định dùng hết chừng này một mình sao, anh trai?”
Myuri ngạc nhiên, ngồi khoanh chân trên giường, buộc tóc lại.
“Không, còn có các người viết nữa mà... À, Myuri, có ai tới tìm anh không?”
“Ừm, à, có người tới hỏi anh có ở đây không. Em bảo là anh đang ngủ, thì họ bảo ‘vậy bọn tôi sẽ đợi’.”
“Chính là họ đó!”
Col nói, rồi lao ra khỏi phòng một bước dài, nhưng Myuri gọi với theo:
“Á, này, anh trai! Còn bữa sáng thì sao?!”
“Tùy em!” cậu trả lời rồi chạy khỏi phòng.
Ngày làm việc tại Công ty Debau đã bắt đầu từ lâu, và nơi này vẫn đông đúc như ngày hôm qua. Sau khi Col trình bày với một cậu bé làm việc vặt đi ngang, cậu nhóc dẫn cậu đến một góc của khu vực bốc hàng, nơi có vài người đàn ông đang ngồi không. Khi thấy cậu, họ đồng loạt đứng dậy như thể bị bắt ép. Vai họ đều sụp xuống, tay phải ai nấy đều được băng lại. Họ đeo túi cũ kỹ trên vai, quần áo loang lổ như thể vừa bị lôi qua bùn đất và nước. Tay và mặt họ cũng lấm lem không kém.
Với người không biết, họ trông chẳng khác nào những nông dân nghèo trốn thuế hay kẻ hành khất lưu lạc. Tuy nhiên, giống như những lính đánh thuê kiêu hãnh vì sức mạnh tàn bạo luôn đầy máu trên người, những người viết giỏi thì lúc nào cũng đầy mực.
Dù mọi thứ khác trên họ đều nghèo khổ, nhưng ánh mắt thì sáng rực.
“Chúng tôi hy vọng có thể góp phần truyền bá giáo lý chân thật của Đức Chúa.”
“Tất nhiên rồi. Tôi rất cảm ơn các vị đã đến tận Atiph.”
Col bắt tay cả ba người và bày tỏ lòng biết ơn vì họ đã đến.
“Nhưng thời điểm này chắc các vị cũng bận rộn lắm phải không?”
“Ha ha ha. Cũng đúng. Nhưng sư phụ ký lục của tôi đã lệnh cho tôi đi rồi.”
“Tôi là người từ hội thu thuế ở cảng.”
“Còn tôi thì đến từ thư viện hội đồng thành phố.”
Những người biết đọc biết viết luôn được trọng dụng, còn người biết sao chép sách thì vô giá. Công việc đó khó khăn hơn bất kỳ ai có thể tưởng tượng, và thường được xem như một hình thức sám hối trong tu viện. Không mấy ai tình nguyện làm, và người có thể kiên trì thực hiện mà không than phiền thì lại càng hiếm.
Hyland hẳn đã nhờ các thợ giấy để triệu tập những người viết này, vậy nên trình độ của họ chắc chắn không tầm thường. Nơi mà họ bị gọi đi khỏi cũng có lẽ đang vô cùng bận rộn.
“Dù vậy, được giúp đỡ cho Trữ quân Hyland, mà rộng hơn là cả Vương quốc Winfiel, sư phụ chúng tôi cho rằng lợi ích sẽ vượt xa sự thiếu vắng của chúng tôi tại chỗ cũ. Thuế thập phân được dùng vào rất nhiều việc mà. Nếu thuế bị bãi bỏ thật, thì vài người thợ như chúng tôi có khi lại phát tài.”
“Ngoài ra, nghe nói các hội thợ lớn cũng đang cho người truyền bá tư tưởng của Trữ quân Hyland và kêu gọi quyên góp ngay trước nhà thờ khi cần. Nhưng vì tính chất công việc của chúng tôi, cơ hội làm việc không nhiều. Nếu chúng tôi không đóng góp chút gì, mà thuế thật sự bị bãi bỏ, thì chắc chắn chúng tôi sẽ mất chỗ đứng trong thị trấn.”
“Thêm nữa, ai nấy đều quan tâm đến nội dung thực sự của Thánh Thư. Không ai thỏa mãn với những lời chống chế của nhà thờ nữa, họ muốn biết rốt cuộc Chúa nói gì.”
Từ lời nói của họ, Col có thể cảm nhận rõ ràng rằng kế hoạch của Hyland đang tiến triển tốt.
Khi nghĩ đến việc thế giới có thể thay đổi, cậu không khỏi cảm thấy một niềm hưng phấn khó tả.
“Theo như Trữ quân Hyland nói, cha là một thần học giả uyên bác lắm.”
“Xin hãy chỉ dạy chúng tôi.”
“À… ồ… không đâu, tôi không dám nhận. Thật là vinh hạnh quá.”
Có vẻ như Hyland đã khen ngợi Col khắp nơi, hoặc có lẽ đó chỉ là một chiêu thổi phồng để tạo động lực cho người khác. Hyland không phải là quý tộc chỉ sống dựa vào tính cách tốt đẹp của mình.
“Ô hô, đây là lần đầu tôi gặp một linh mục khiêm nhường như thế.”
“Thật là cảm hứng tuyệt vời.”
Col cảm thấy chuyện này cũng nằm trong chiến lược của Hyland, nên cậu chỉ biết cười gượng trước những ánh mắt đầy khâm phục của các người viết.
Rồi đến chuyện tìm nơi làm việc cho bọn họ cũng là một rắc rối khác. Tòa nhà thương hội của Công ty Debau dường như chỉ là tập hợp các công trình khác nhau được kết nối bằng hành lang, vừa phức tạp vừa rộng lớn đến mức không có bản đồ thì không biết đường mà đi.
Dù vậy, mọi căn phòng đều đã kín người, nên cuối cùng họ đành sử dụng luôn căn phòng mà Col và Myuri đang thuê trọ.
“Myuri, giữ cái này hộ anh.”
Họ đẩy giường và đồ đạc dựa vào tường, rồi mang bàn từ phòng khác đến.
Căn phòng lập tức biến thành nơi sao chép tài liệu giống như một xưởng thủ công hay tu viện, và chỉ còn lại Myuri ngồi trên giường, ôm đầu gối.
“Vậy thứ chúng ta sẽ sao chép là gì vậy?”
“Đây. Xin hãy tự chia nhau công việc.”
“Tôi chỉ mong là lỗi chính tả đã được sửa hết. Tôi không biết đọc mà.”
Không có gì lạ khi người chép sách không biết chữ. Đối với họ, chữ cái giống như hình vẽ, và ai có thể sao chép chúng thì có thể làm công việc này. Thậm chí điều này còn được ưu tiên, vì họ có thể tái tạo bản gốc một cách trung thực hơn. Vấn đề chỉ là nếu có lỗi thì cũng sẽ bị chép lại y nguyên.
“Tôi đã sửa lại những chỗ tôi hiểu được…”
Nếu người sao chép không biết đọc, họ sẽ không nhận ra đâu là chỗ đã sửa. Nhưng nếu ghi chú trực tiếp lên bản dịch thì cũng không ổn. Khi Col còn đang phân vân nên làm thế nào, người đàn ông rút ra một chiếc gối kim từ túi và nói, “Xin cứ yên tâm. Hãy cắm ghim vào những chỗ sai chính tả, rồi tôi sẽ xem và sửa lại.”
“Tuyệt vời.”
Col khâm phục sự sáng suốt và hợp lý của người thợ. Cậu lập tức bắt đầu cắm ghim vào bản thảo đã phân chia cho người đàn ông đó.
Hai người còn lại thì đang quấn vải quanh cổ tay và chuẩn bị gối tay nhỏ mà họ thường dùng trong lúc làm việc. Họ thực sự trông giống như các chiến binh chuẩn bị ra trận, điều đó rất đáng hy vọng. Không bao lâu sau, khu làm việc của họ đã được thiết lập xong.
“Vậy thì, hãy cùng thổi luồng sinh khí mới vào Giáo hội nào.”
Một trong những người thợ nói, rồi cả ba bắt đầu làm việc.
Khi Col định quay lại với công việc dịch thuật, cậu nhận ra Myuri không còn trong phòng. Rồi cậu nhớ ra là cô bé có hỏi chuyện ăn sáng. Có lẽ cô bé đã chờ cậu tỉnh dậy cả buổi sáng mà vẫn chưa được ăn.
Col vội rời phòng, và thấy Myuri đang tựa người vào khung cửa sổ hành lang, nhìn ra sân trong và cho chim ăn.
“Myuri.”
Khi cậu gọi, lũ chim lập tức bay đi.
“Wow, động vật ghét anh thật đấy, anh trai,” Myuri nói, với dòng máu sói chảy trong người cô bé, rồi cắn một miếng bánh đang ăn dở mà lũ chim vừa mổ.
“Bữa sáng của em... Em lấy bánh đó ở đâu vậy?”
“Em nhảy múa một chút ở ngoài là có ngay.”
Cô bé lắc hông trêu chọc.
Có vẻ cô bé có hơi giận cậu.
“Đó là nói đùa thôi.”
“Anh biết, nhưng mà—”
“Em có tiền tiêu vặt riêng khi đi du hành mà. Đây, phần của anh.”
Cô bé ngắt lời cậu, rút từ túi đeo treo trên tay ra bánh mì khô vụn và thịt khô. Cô bé đưa cho Col.
“Họ gọi thứ này là bánh quy, thủy thủ hay ăn lắm. Nó cứng đến nỗi có thể làm gãy răng cơ.”
Cô bé nhe răng cười, để lộ nanh sói. Nó đúng là trông cứng thật, nhưng đó không phải điều khiến cậu lo nhất.
“À, Myuri, anh còn việc phải làm nên…”
“Em biết rồi. Sẽ thật kỳ cục nếu em cứ ở lì trong phòng với anh mà.”
Dù chính cô bé là người ép Col mang theo mình, nhưng nếu cô bé hiểu rằng mình không có chỗ trong chuyện này và ngoan ngoãn quay về Nyohhira thì đúng là nhẹ cả người.
“Ít nhất thì điều đó đang hiện rõ trên mặt anh rồi.”
“…”
“Nhưng em không về đâu.”
Cô bé cười tinh nghịch rồi chọc ngón tay vào ngực Col đang đứng im như tượng.
“Giờ thì em hiểu cảm giác của chị Helen và mấy người khác mỗi lần trêu chọc anh rồi.”
Thật đáng ghét, cậu nghĩ vậy, trừng mắt nhìn cô bé, và cô bé lập tức lùi lại một bước.
“Ở đây ai cũng bận, nên em đã tìm được việc. Hên là còn được mặc bộ này nữa.”
Cô bé vẫn mặc bộ quần áo của mấy cậu sai vặt trong công ty như hôm trước.
Tuy nhiên, tóc tai cô bé vẫn rối như thường, khiến cả bộ đồ trông luộm thuộm hết mức.
“Nếu vậy thì em phải chải đầu đàng hoàng đã,” Col nói, rồi thêm, “Để anh tết tóc cho.”
Có lẽ cô bé đã cố tình không tết tóc mình lại.
“Heh-heh. Được thôi!”
Cô bé cười rạng rỡ, tiến lại gần. Col cảm thấy như thể đang bị cô bé dắt mũi, nhưng nghĩ lại thì miễn là cô bé vui vẻ thì cũng chẳng sao.
Trong lúc Col tết tóc cho cô bé, những cậu bé đang lau dọn và nhân viên công ty mang hàng đi ngang qua mấy lần, ai nấy đều tròn mắt nhìn cảnh tượng kỳ quặc: một vị khách đang tết tóc cho một cậu nhóc chạy vặt.
Col chắc chắn là xấu hổ, còn Myuri tự do vô tư thì chẳng mảy may bận tâm.
Trong vài ngày tiếp theo, Col hoàn toàn dồn sức cho công việc.
Rất ít chỗ cần sửa trong bản dịch mà Hyland đưa cho cậu, và thực tế, đây lại là một trải nghiệm học hỏi đối với cậu. Bản dịch đã được tiến hành khá xa ở Winfiel, nên nếu Col tự mình dịch tiếp, có thể sẽ gây ra mâu thuẫn. Công việc này vừa khiến người ta kính sợ, lại vừa khiến người ta hứng khởi. Dù sao thì, cậu cũng đang rảnh rỗi và chẳng có gì để mất, thế nên cậu cứ làm theo ý mình.
Các người ghi chép cũng rất thành thạo, và số lượng bản thảo Hyland giao cho cậu mỗi ngày càng tăng. Do không có người minh họa vẽ viền trang, họ có thể chép năm trang mỗi ngày. Trong tổng số mười ba chương của Kinh Thánh, Hyland đã đưa cho cậu bản thảo của bốn chương đầu tiên, và số bản sao ngày một chất đống.
Bất cứ khi nào các người ghi chép hoàn thành một phần, Hyland sẽ lấy nó mang đi phân phát cho giới quý tộc thành thị ở Atiph và các quý tộc sở hữu đất đai ở khu vực ngoại thành. Cũng có cả yêu cầu từ dân thường trong thị trấn, và ngay ngày hôm sau khi phân phát hai phần đầu, các quản lý từ từng hiệp hội đã tranh nhau đòi một bản cho riêng họ.
Dù chiến dịch của Hyland cũng có tác dụng, nhưng thị trấn này có lẽ đã có sẵn nền tảng cho kết quả ấy. Nơi này nằm ven biển lạnh lẽo, và phía thượng lưu còn có những ngọn núi phủ đầy tuyết. Theo lời các nghệ nhân, cho đến gần đây vẫn còn xảy ra những vụ cướp biển từ vùng biển bắc đầy bão tố. Môi trường bên ngoài tường thành chẳng hề phù hợp cho một cuộc sống thư thái, và cả thị trấn đều khát khao những lời dạy của Chúa.
Trong hoàn cảnh như vậy, Col có thể làm việc đến tận đêm khuya nhiều ngày liền mà không cảm thấy khổ sở. Cậu đã dốc hết mình cho một lĩnh vực nghiên cứu mà xưa nay chưa ai từng nghĩ là cần thiết. Miễn là công sức hiện tại có thể trở nên hữu ích về sau, cậu không cho rằng những khó khăn mình đang chịu đựng là đáng kể. Dù các người ghi chép rời đi vào lúc hoàng hôn mỗi ngày, nhưng đương nhiên cậu không vì thế mà dừng lại. Vì cậu cứ thức khuya với ngọn nến còn cháy sáng, Myuri cuối cùng cũng phải ép cậu ra ngoài vào ban đêm. Không còn cách nào khác, cậu đặt một cái thùng gỗ to và chiếc ghế ngoài hành lang, rồi quấn chăn quanh người để làm việc tập trung hơn. Myuri luôn tỏ vẻ tức giận về việc đó, nhưng có lẽ thật ra chỉ vì lạnh khi phải ngủ một mình.
Khi tỉnh dậy, mắt cậu mở không nổi—bởi vì ngay cả trong mơ, cậu cũng mơ thấy bộ Kinh Thánh, hạnh phúc tràn đầy. Ở Nyohhira, Lawrence hiểu cho cậu, nhưng công việc trong nhà tắm thì chưa bao giờ hết. Đây chính là cuộc sống mà Col luôn mơ ước.
Tuy nhiên, điều duy nhất phá vỡ thói quen hằng ngày của cậu, dù là ở Nyohhira hay ở Atiph, đương nhiên là Myuri. Khi đã hoàn thành công việc phụ giúp công ty, cô bé sẽ quay về phòng và kể lại tỉ mỉ mọi chuyện đã xảy ra trong ngày. Khi Col chỉ đáp lại bằng những tiếng gật gù hờ hững, cô bé mới chịu im lặng và kéo một chiếc ghế ngồi cạnh cậu, lặng lẽ đọc Kinh Thánh. Có lẽ vì khi cô bé hỏi về những đoạn đã dịch, cậu sẽ trả lời thật lòng.
Tuy nhiên, khi cậu ngày càng chú tâm vào công việc, Myuri bắt đầu lo cho sức khỏe của cậu. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi bữa sáng cô bé chuẩn bị cho Col vẫn còn nguyên khi trở về nhà.
Dù bình thường Col là người hay mắng cô bé về lối sống cẩu thả, thì giờ đây mọi chuyện đã hoàn toàn đảo ngược. Cô bé không còn đuổi cậu ra hành lang nữa, mà bắt đầu kéo cậu lên giường mỗi khi nến gần tắt. Từ góc nhìn người ngoài, hẳn trông rất buồn cười, và cậu nghĩ rằng nếu có một đứa em, Myuri chắc sẽ làm một người chị cả rất tốt.
Dù vậy, có lẽ sự đam mê công việc của cậu là điều mà cô bé khó có thể thấu hiểu. Một ngày nọ, sau khi lại kéo cậu từ bàn làm việc về giường, cô bé lên tiếng.
“Anh trai ơi, em hỏi cái này được không?”
Col định đáp lại, nhưng khi cất tiếng, cậu ho dữ dội vì đã lâu không mở miệng. Cuối cùng, cậu mới nói được:
“Gì vậy?”
“Tại sao anh lại mê mẩn những lời dạy của Chúa đến vậy?”
Có thể Myuri định hỏi như một lời trách móc, nhưng đây lại là một câu hỏi rất căn bản.
“Khụ…Ừm. Chẳng phải anh chưa từng nói cho em sao?”
“Ừ. Nên…em thấy hơi đáng sợ.”
Cô bé rúc sát lại và ôm lấy tay cậu trong chăn, có lẽ sợ rằng cậu lại trốn dậy trong lúc cô bé đang ngủ. Trên thực tế, đã có vài lần cậu giật mình ngồi dậy giữa giấc ngủ vì vừa nghĩ ra được một từ dịch đúng cho một khái niệm nào đó cứ ám ảnh mãi không buông.
Thế nhưng, khi nghĩ kỹ lại, cậu chẳng nhớ mình đã từng nói chuyện này với Myuri bao giờ. Dù hai người đã từng trò chuyện rất nhiều từ khi cô bé còn nhỏ xíu, nhưng chuyện này lại là ngoại lệ, thật kỳ lạ.
“Anh hiểu rồi… Nhưng đây là một câu hỏi khó lắm. Có lẽ không thể trả lời chỉ bằng một hai câu đâu.”
“Kể cho em đi. Nếu em thấy hợp lý, thì trước khi ngủ em sẽ để sẵn hai cây nến cho anh.”
Thêm một cây nến đồng nghĩa với thêm thời gian làm việc. Và nếu có thể giải thích lý do vì sao mình lại gắn bó với giáo lý như thế, thì cũng là một cơ hội tốt để mở mắt cô bé trước những bài học của mình.
Col chầm chậm gom lại ý nghĩ, rồi cất tiếng khi nhìn lên trần nhà tối om.
“Hồi đầu anh không tin vào giáo lý của Chúa hay của Giáo hội đâu.”
“Thật á?!” Myuri hét lên bên tai cậu. Phản ứng của cô bé hệt như lúc lần đầu phát hiện ra rằng việc đun nước sôi ở thế giới bên ngoài suối nước nóng Nyohhira cũng tốn tiền.
“Thật. Làng nơi anh sinh ra là nơi ở của những người bị gọi là dị giáo. Mọi người cầu nguyện với những thứ như suối nước đẹp đẽ hay cây đại thụ, còn ‘Thần thánh’ với bọn anh là một con ếch khổng lồ được truyền lại trong truyền thuyết, bảo vệ làng.”
“Ếch á?”
“Có một truyền thuyết về nó. Có khi ngày xưa thực sự từng tồn tại.”
Mẹ của Myuri vốn cũng là hiện thân của một con sói khổng lồ kia mà.
“Nơi đó là quê anh, nên anh chưa từng có suy nghĩ muốn tìm hiểu gì về giáo lý của Giáo hội. Trớ trêu thay, anh chỉ bắt đầu tìm hiểu khi làng của mình suýt bị kỵ sĩ của Giáo hội thiêu rụi.”
Cậu chợt nhớ ra vì sao mình chưa bao giờ kể chuyện này cho Myuri. Bởi đây không phải là một chuyện vui.
“Những ngôi làng quanh đó dần dần biến mất, và dĩ nhiên, bọn anh chẳng làm gì được. Dù cầu nguyện đến mấy với vị thần của làng, thì cũng chẳng có sự trợ giúp nào đến. Đám đàn ông trưởng thành thì chuẩn bị chiến đấu đến cùng, còn phụ nữ và trẻ em thì sẵn sàng bỏ trốn, không bao giờ quay lại.”
Chuyện tương tự hẳn vẫn đang xảy ra đâu đó trên thế giới, nhưng ngày xưa thì còn thường xuyên hơn nữa. Cô bé Myuri im lặng, siết tay Col chặt hơn. Đôi vai cô bé khẽ run lên, như thể đang hối hận vì đã hỏi chuyện này.
“Chà, nói cho nhanh thì, hết chuyện trùng hợp này đến chuyện trùng hợp khác, làng anh không bị phá. Giờ nó vẫn còn tồn tại.”
Myuri thở phào rõ ràng thấy nhẹ nhõm.
“Nhưng hồi đó, toàn bộ vùng đất phương bắc, bao gồm cả làng anh, bị gọi là miền đất dị giáo. Cả vùng đó đã chìm trong chiến tranh.”
“…Chỉ có Nyohhira là bình yên thôi, đúng không anh?”
Lúc bấy giờ, vùng đất cổ Nyohhira được gọi là thiên đường của những tín đồ chân chính giữa miền đất dị giáo.
“Đúng vậy. Đó là lý do, dù Giáo hội có tấn công làng nữa hay không, anh cũng nghĩ chỉ có một cách duy nhất để bảo vệ làng. Đó là trở thành một người quan trọng trong Giáo hội.” Cậu nói, khiến Myuri nhất thời không biết đáp lại ra sao.
Ngay chính cậu cũng biết, đó chỉ là một lối suy nghĩ đơn giản.
“Hồi ấy… anh còn ngây ngô hơn cả bây giờ nữa. Mọi ý tưởng của anh đều đơn giản, nhưng đồng thời cũng đầy toan tính. Hoặc có lẽ là khá ngông cuồng. Vì thế, dẫu lúc đó anh có học về giáo lý của Chúa, niềm tin của anh lại chỉ nằm ở sức mạnh và sự khốc liệt của tổ chức mang tên Giáo hội. Những người xung quanh anh, học về giáo lý, cũng chỉ vì muốn có được một công việc danh giá về sau, chứ chẳng ai thực sự thực hành chúng cả.”
Thành phố đại học là một nơi sôi động, nơi các hiền triết được Giáo hội công nhận đều tụ hội về.
Muốn học hành thì phải có tiền, mà nơi nào có tiền, nơi đó lừa đảo mọc lên. Ở đó, toàn bộ số tiền tiết kiệm của cậu bị vét sạch, rồi cậu còn phải gánh thêm nợ nần, và cuối cùng là bỏ chạy lấy thân.
Đó là một trải nghiệm tồi tệ, nhưng nhờ vậy cậu mới đứng được ở đây hôm nay.
“Nhưng, dù vậy, có vẻ như nó rất hợp với anh, vì anh thực sự thích thú khi học về giáo lý của Chúa. Lúc nào không hay, những điều đó đã thấm vào máu thịt anh, và khi đã nội hóa nó, việc học hành trở nên thật sự vui vẻ. Nhưng, dù thế nào, cái gọi là ‘đức tin’ vẫn không thể cắm rễ trong lòng anh. Đơn giản là thế giới này quá vô lý, quá bất định, để anh có thể giữ một niềm tin vững chắc không lay chuyển.”
Có một ngày, ngôi làng của cậu suýt nữa bị xóa sổ hoàn toàn, chỉ may mắn mới thoát được. Để rồi sau đó, cậu nhận ra vị thần ếch mà làng mình tin thờ thực ra chỉ tồn tại ở làng ấy—cậu đã cảm nhận được rằng trên đời này chẳng có gì là chắc chắn cả.
Cậu tin rằng điều duy nhất đúng đắn trên thế gian này là kẻ mạnh sẽ thắng.
“Những ý nghĩ đó bị đảo lộn hoàn toàn khi anh gặp hai người lữ hành lập dị.”
“…Là mẹ và cha phải không?”
“Chính xác.”
Dù chỉ là chuyện nhỏ thôi, nhưng cô bé dường như rất vui khi nghe anh khen ngợi. Cái đuôi mà cô bé hay dùng để giữ ấm khi ngủ về đêm cũng khẽ động dưới lớp chăn, khiến cậu cảm thấy nhột.
“Nhưng… tại sao? Sau khi gặp mẹ, chẳng phải anh nên nghĩ rằng Chúa của Giáo hội chỉ là lời nói dối thôi sao?”
Rõ ràng chẳng có bằng chứng nào phản bác sự tồn tại của một vị thần còn mạnh mẽ hơn nữa.
Nhưng niềm tin của cậu lại là một loại khác hẳn.
“Suy nghĩ của em không sai, nhưng mà… cũng chưa hẳn đúng đâu. Dù việc Chúa có thực sự tồn tại trên thiên đường hay không là một chủ đề quan trọng, nhưng điều khác biệt là họ đã dạy anh rằng, trên đời này thực sự có những điều để mình có thể tin tưởng tận đáy lòng.”
“…Em vẫn không hiểu.”
Cái đuôi cô bé cựa quậy dưới lớp chăn, vẻ không hài lòng.
“Nếu em tin rằng trên thế gian này thực sự tồn tại những chân lý không thể lay chuyển, chẳng phải tình cảm giữa họ là một trong số đó sao?”
Câu hỏi ấy làm cô bé Myuri sững lại. Sau một hồi suy nghĩ, cô bé hơi cau mày, không hiểu vì lý do gì.
“Ừm, cũng đúng. Mẹ với cha tình cảm đến mức phát ghét.” Đó là cảm nhận của cô bé dưới cương vị là con gái họ. “Nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến giáo lý của Chúa ạ?”
“Ừm, để anh nghĩ đã.” Cậu nhắm mắt lại, nhớ về những chuyến phiêu lưu lớn lao kể từ khi gặp họ—những lúc vừa hồi hộp, vừa nguy hiểm—nhưng vẫn có thể bật cười.
“Bất kể đối mặt hiểm nguy ra sao, dù có rơi vào tuyệt vọng, họ vẫn không bao giờ buông tay nhau. Đó là bởi họ biết, cảm xúc dành cho nhau là điều duy nhất chắc chắn trên đời này.”
“…”
Cô bé không đáp lại, chắc vì ngại khi nghe kể chuyện của cha mẹ mình.
“Khi anh nhìn họ, anh nghĩ rằng, chỉ cần trong lòng có thứ gì đó để tin tưởng, thì có thể vượt qua mọi khó khăn. Và rồi anh nhận ra rằng, cái ‘gì đó’ ấy thật sự tồn tại. Khi mang suy nghĩ đó mà nhìn quanh, anh mới hiểu được rằng niềm tin là điều không thể thiếu để sống sót trên thế giới lạnh lẽo này.”
Niềm tin có thể là tình yêu với một người thân, là lòng trung thành với tổ chức hay chủ nhân mình phục vụ, hoặc thậm chí là những tín niệm không đáng ngợi ca của những kẻ tham lam keo kiệt.
Điểm chung giữa chúng, là nhờ có niềm tin mà người ta trở nên mạnh mẽ.
“Và đồng thời, anh càng thấm thía hơn nỗi khổ và bất lực của những kẻ không có gì để bấu víu, vì bởi anh cũng từng là một người như thế.”
Cậu không thể hình dung lại nỗi tuyệt vọng ngày ấy, cũng không muốn nhớ lại. Sự cô đơn khi ấy đã rút cạn cậu thành một cái xác sống, như thể bệnh tật kéo anh xuống vực chết mà vẫn còn sống.
“Và rồi, lần đầu tiên, giáo lý của Chúa mới thực sự chảy trong máu anh.”
Chúa đã luôn ở bên ta.
Cậu cảm thấy như chiếc nắp chụp trên đầu mình đã bật tung khi cuối cùng cậu hiểu ra điều ấy.
“Khi anh hiểu được ý nghĩa của câu ‘Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi ngươi’, cảm giác như có một dòng thác ấm áp trút xuống người vậy.”
Cậu nghĩ Myuri sẽ cười nhạo vì anh nói quá lên, nhưng bất ngờ là cô bé không hề như vậy. Trái lại, cô bé siết tay Col chặt hơn, áp môi vào vai cậu như định cắn.
“Em… hiểu cảm giác đó. Khi anh nói rằng sẽ mãi là bạn của em, em cũng thấy y như vậy.”
Giọng cô bé như giận dỗi, có lẽ vì xấu hổ. Cô bé đang nhắc tới ngày mẹ Holo kể cho mình biết về huyết thống sói chảy trong người.
“Nếu anh có thể trở thành linh mục, anh sẽ truyền đạt hơi ấm đó tới tất cả những người đang run rẩy trong giá lạnh cô đơn ngoài kia. Khi còn là một đứa trẻ lạc lõng, anh đã vô tình gặp được chị Holo và thầy Lawrence, nhưng nhiều người trên thế gian này sẽ không có được may mắn như vậy. Nhưng rồi anh nhận ra rằng, chính anh có thể là người mang may mắn ấy đến cho họ. Tình yêu của Chúa là vô hạn và sẽ không bớt đi nếu được chia sẻ.”
Vì mục đích đó, cậu phải hiểu Chúa càng sâu sắc càng tốt. Cậu phải đủ sức đối mặt với mọi hoài nghi. Cậu có thể dốc sức học tập, nhai cả hành sống để chống buồn ngủ, là nhờ đức tin ấy.
“Ừm…” Cô bé Myuri lặng im một lúc rồi cất tiếng, khiến Col lập tức thấy ngượng vì đã nói có phần quá đà.
“Anh xin lỗi, chắc hơi nghiêm trọng quá. Nhưng anh nghĩ cũng khá đúng mà.”
“Không, không phải vậy đâu… Em chỉ ngạc nhiên là anh thực sự có lý do để học hành. Em cứ tưởng anh vốn đã… kỳ lạ rồi.”
“Hả?”
Cậu hơi bị tổn thương, và khi quay sang nhìn, qua màn đêm, Col vẫn nhận ra cô bé đang cười tinh quái.
“Nhưng giờ thì em hiểu rồi. Đúng là anh rất kỳ lạ mới nghĩ nghiêm túc về chuyện đó, mà lại chẳng bao giờ phản ứng gì khi chị Helen với mấy chị vũ công khác trêu ghẹo anh nữa.”
“Myuri.”
Cậu hạ giọng như nhắc nhở, nhưng cô bé vẫn thoải mái tiếp tục.
“Mà em nghĩ em cũng hiểu phần nào vì sao anh lại rời làng đi. Trước giờ em không rõ tại sao anh lại giận dữ chuyện Giáo hoàng thu tiền… Ra là ông ta đã làm tổn thương thứ rất quan trọng, đúng không?”
Chính xác là như vậy. Nhận xét của cô bé chính xác đến mức cậu muốn reo lên vì vui sướng.
Giáo hoàng đã dùng những giáo lý vốn là cứu rỗi cho nhân loại làm công cụ cho lòng tham tiền bạc. Col không thể tha thứ điều đó.
“Anh buồn vì không thể nói hết được mình vui thế nào khi cuối cùng em cũng hiểu anh cơ.”
“Gì cơ? Vậy thì ôm em thật chặt đi, như hồi em còn nhỏ ấy.”
Cô bé càng lớn lại càng giống mẹ Holo, rồi phát hiện ra niềm vui trang điểm thay vì chạy nhảy trong núi rừng—nghĩ đến chuyện cô bé đã lớn, Col cũng thấy buồn buồn. Nhưng trong tâm hồn, cô bé vẫn chỉ là một đứa trẻ.
Cậu mỉm cười nghĩ vậy, và khi ôm cô bé, Myuri bật cười khúc khích.
“Nhưng này, anh trai ơi?”
“Gì vậy?”
“Khi mẹ kể cho em nghe về tai và đuôi của mình và em khóc, tại sao anh không kể cho em về một vị Chúa quan trọng như thế?”
Đương nhiên cuộc đối thoại sẽ dẫn đến câu hỏi này.
Và lý do của cậu khiến Col cảm thấy có lỗi.
“À, chuyện là…”
“Gì vậy?”
Nếu giờ cậu nói dối, cô bé sẽ còn trêu chọc cậu đến cùng. Col đành ngậm ngùi nhận lấy số phận.
“Ngay cả anh, cũng chưa từng gặp Chúa.”
“Hả?”
“Nhưng anh thì ở đây. Em có thể nhìn, sờ và nói chuyện với anh. Đó là lý do đấy. Nói thật thì… nó không được nhất quán… cho lắm, với một người phục vụ Chúa…”
Không có gì đáng xấu hổ hơn thế. Phần lớn những điều mập mờ của Giáo hội hẳn cũng đều bắt nguồn từ những tình huống như thế này. Khi Col nghĩ chắc là cô bé sẽ thất vọng, thì Myuri bất ngờ nói.
“Cứ ôm em cái nữa đi.”
“Gì cơ?”
“Anh nhìn thấy, sờ được, nói được với em đúng không? Nhanh lên, không em mất niềm tin bây giờ!”
Ngày cô bé Myuri có được một đức tin vào Chúa xem ra vẫn còn xa lắm, nhưng có lẽ như vậy cũng tốt.
Cậu đành làm theo mệnh lệnh của nàng công chúa.
Có thể vì cô bé đã mệt, hoặc nhờ năng lực thường thấy của mình, chẳng mấy chốc Col đã nghe thấy tiếng ngáy khe khẽ phát ra từ vòng tay mình. Cô bé này lúc nào cũng vô lo vô nghĩ. Dù thân hình nhỏ nhắn, nhưng bây giờ Col ôm lại thấy mỏi tay hơn hồi cô bé còn nhỏ rất nhiều. Cậu nhẹ nhàng buông tay, cố không đánh thức cô bé, rồi thở phào nhẹ nhõm.
Cậu nhìn lại gương mặt đang ngủ say của cô bé, và trên môi bất giác nở một nụ cười thật tươi.
Có lẽ, thêm sự ngây thơ trên gương mặt ngủ này cũng nên được ghi vào danh sách những điều chắc chắn của thế giới này.
Đó là gương mặt khiến cậu có thêm động lực để cố gắng cho ngày mai.
Những ngày cầu nguyện và nghiền ngẫm của Col cứ thế tiếp diễn, và khi các bản sao chép từ bản thảo của Trữ quân Hyland được truyền đi khắp thị trấn, Myuri cuối cùng cũng đuổi kịp tiến độ công việc của cậu. Cô bé không thể không tham gia vào việc của cậu, liên tục thúc giục cậu làm nhanh hơn, nhưng thực ra cậu cũng thấy y như vậy. Khi cuối cùng dịch xong chương thứ bảy, cậu mới cảm thấy như vừa được trồi lên khỏi mặt nước, hít thở lại lần nữa.
Tất cả các giáo lý căn bản nằm trong Kinh Thánh đều được đề cập trong bảy chương đầu tiên, phần còn lại chủ yếu kể về những chuyến hành trình của các tiên tri từng nhận được lời dạy của Chúa và hồi ký của các môn đệ họ. Dĩ nhiên, bản dịch của cậu chỉ là tạm thời, vẫn còn nhiều chỗ cần chỉnh sửa, nhưng đại ý đã truyền đạt đầy đủ.
Sau cùng, cậu cũng thấy nhẹ nhõm vì đã kịp hoàn thành đúng lúc. Hyland, người đã tất bật lo liệu cho kế hoạch, đến tận hôm qua mới chính thức bắt đầu đàm phán nghiêm túc với tổng giám mục của Giáo hội.
Theo những gì nghe được, cậu hình dung thị trấn này hẳn sẽ hoàn toàn đứng về phía Vương quốc Winfiel. Một nhà thờ được dựng lên từ sự tôn kính và đóng góp của dân chúng chắc chắn không thể làm ngơ trước ý nguyện của họ.
Bảy chương đầu tiên với các giáo lý căn bản của Chúa, được chuyển ngữ ra tiếng phổ thông, chắc chắn sẽ là sức mạnh cho lý tưởng ấy.
Và lòng cậu tràn đầy niềm vui khi nghĩ đến việc người dân thị trấn thực sự quan tâm đến lời dạy của Chúa.
Thế giới này không phải vô nghĩa. Điều gì đúng thì vẫn luôn đúng, và con đường ấy sẽ dẫn tới chân lý.
Lâu sau khi các người ghi chép trở về nhà lúc hoàng hôn, cậu vẫn có thể cảm nhận được những tia nắng cuối cùng trên mái nhà phía bên kia đường.
“Anh ơi! Xong chưa?”
Cô bé Myuri là người duy nhất luôn mở cửa mà chẳng bao giờ gõ.
Khi cậu quay lại nhìn, có cảm giác như lâu lắm rồi mới lại thấy rõ gương mặt của cô bé.
“Không phải anh nói hôm nay sẽ xong à?”
“Ừ, anh vừa làm xong đây.”
“Tốt, tốt.”
Cậu không thể không mỉm cười khi thấy cô bé nói năng y như một phụ huynh. “Em đã học được chút gì về sự chăm chỉ chưa?”
“Tất nhiên rồi. Em bận túi bụi mỗi ngày. Đâu đâu cũng cần đến em cả. Nhưng điều khiến em bất ngờ nhất là có nhiều việc phải làm đến vậy.”
Trong lúc cậu kiểm tra mực của bản dịch đang khô trên tấm da, lòng cậu cũng thấy nhẹ nhõm trước niềm vui của Myuri.
“Mấy công ty như cái guồng nước vận hành cả thế giới đấy.”
“Nhưng nhiều việc vừa nhàm chán lại vừa lắt nhắt lắm.”
“Đời là vậy mà.”
“Em biết, nhưng… Em phải đếm tiền trong các rương tiền chất đầy lên ấy, nhiều đến mức suýt phát điên! Bao nhiêu tiền thế mà em đếm suốt đến đen cả tay, vậy mà chỉ được hưởng có một tí xíu!”
Giờ nghĩ lại, đúng là có tối nọ cô bé đặc biệt than phiền vì mùi gì dính vào tay. Cậu cứ tưởng cô bé chạm vào cá hay gì đó, hóa ra là khó chịu vì mùi kim loại từ tiền.
“Nhưng lạ thật đấy.”
“Lạ gì cơ?”
“Đám đổi tiền cứ bắt em chạy việc cho họ, nhưng họ đâu có dùng số tiền ấy đâu.”
“Họ có thể giữ hộ ai đó hoặc đang chuẩn bị cho một giao dịch lớn, có khi để xuất khẩu ấy.”
“Xuất khẩu? Nghĩa là bán sang các thị trấn khác hả? Nhưng mọi người ở đây đều kêu ca vì thiếu tiền lẻ mà?”
“Nếu có nơi nào cần tiền lẻ hơn nơi này thì bán sang đó sẽ lời hơn. Việc này cũng thường xảy ra mà.”
“Hừm. Lạ thật.”
Cậu muốn khoe rằng chính nhờ mấy vụ xuất khẩu tiền như vậy mà ngày xưa cậu từng phát hiện ra một mánh lới khôn ngoan, nhưng tự nhủ không nên khoe khoang với trẻ con.
“Dù sao thì, em không muốn làm mấy việc đó đâu. Làm ở cảng mới vui.”
“Ở cảng à?” cậu hỏi lại, ánh mắt cô bé bừng sáng.
“Người ta chất hàng lên tàu thành núi, rồi mình nhảy lên trên đó, ném từng kiện xuống cho những người chờ dưới đất. Ở cảng thì tàu bè chen chúc, sóng vào là lắc lư khó đứng lắm! Hôm nay còn có một chiếc thuyền dài ơi là dài giống chuồn chuồn đến vào lúc gần tối, xong lại còn chen vào bằng được, chẳng biết phong tục nơi này ra sao nên mọi người hét ầm cả lên!”
Cô bé hếch mũi, ưỡn ngực tự hào. Cô bé đã đóng vai một cậu sai vặt thực thụ, xem mình đã là thành viên của Công ty Debau. Tính cách trung thực, năng động của cô bé giúp dễ hòa nhập vào môi trường như vậy.
Cái thuyền giống chuồn chuồn mà cô bé nhắc đến chắc là loại thuyền nhỏ chạy bằng sức người, hai bên có hàng chục tay chèo. Có lẽ hôm nay có chuyến hàng gấp cần chuyển.
Đặt mấy ý đó qua một bên, cậu chợt hình dung cảnh cô bé nhảy lên đống hàng hóa giữa bến cảng ồn ào.
“Này… làm thế không nguy hiểm à?”
“Có chứ, nhiều người rơi xuống biển lắm. Chỉ có em là không thôi!”
Cô bé nói với vẻ đầy tự hào. Ở Nyohhira, cô bé quen nhảy nhót qua các con suối băng giá, tất nhiên lại còn bơi rất giỏi.
Nhưng vấn đề đâu chỉ là thế.
“Anh thay thầy Lawrence và chị Holo trông nom em đấy. Lỡ em bị thương thì làm sao?”
“Ôi, em biết rồi. Nếu em thành hàng hư hỏng thì phải có người chịu trách nhiệm thôi.”
“…”
Cậu thở dài nặng nề. Cô bé lại tỏ ra hiểu biết nhờ những thứ mà chị Helen và các vũ nữ khác kể cho, dù chẳng hiểu gì cho lắm.
“Ý anh hơi khác, nhưng… cũng gần đúng rồi.”
“Thật hả?”
Cô bé vừa dứt lời thì bên ngoài vang lên tiếng bò kêu.
“Quan trọng hơn là em đói lắm rồi. Giờ anh xong việc rồi thì đi ra ngoài được không?”
Dạo này Col chỉ ăn uống trong phòng. Myuri thì muốn ăn mấy món không có ở Nyohhira, chỉ bán ở chợ lớn. Nhưng thấy cậu không chịu ra ngoài, cô bé cũng ngoan ngoãn nhờ người trong công ty mua cho rồi lặng lẽ ăn bánh mì và đồ khô trong phòng.
“Được rồi, được rồi. Lâu rồi anh chưa vận động, cảm giác như không di chuyển là sắp hóa đá tới nơi vậy.”
“Nhiều lúc em còn tưởng anh chết rồi cơ đấy.”
Cô bé cười khúc khích, rồi bất chợt ngẩng đầu như vừa nhớ ra điều gì.
“Anh ơi!”
“Sao vậy?”
“Đi ra ngoài thì anh không nên mặc như thế đâu.”
Cậu nhìn xuống người mình, nhưng bộ quần áo chẳng khác gì từ ngày rời Nyohhira đến giờ.
Cậu còn đưa tay lên má kiểm tra xem có vết gì, nhưng Myuri lắc đầu lia lịa.
“Bỏ ngay cái áo khoác kiểu linh mục đó đi.”
“Gì cơ?”
“Nghe lời em đi mà!”
Cậu đành làm theo, cởi áo khoác ra, còn cô bé thì kiểm tra cậu từ đầu đến chân rồi chau mày.
“Nhưng nhìn vẫn… giống giống…”
“Myuri? Em định nói gì thế?”
“Anh cúi đầu xuống chút đi.”
Lười hỏi tiếp, cậu làm theo, và cô bé xoa xoa mái tóc cậu thật mạnh.
“…Myuri.”
“Để xem nào… Ồ! Được đấy!”
Liếc quanh một vòng, cô bé mở lọ mực, chấm đầu ngón út vào, vẽ một đường nhanh lên má cậu. Xong lại làm bên kia rồi lui ra sau ngắm nghía.
“Thôi, cũng tạm vậy.”
“Myuri.”
Giọng cậu pha chút tức giận, nhưng cô bé chẳng hề nao núng, hai tay chống hông, ưỡn ngực tự tin.
“Dạo này đi ngoài đường mà ăn mặc như linh mục nguy hiểm lắm.”
“…Sao cơ?”
“Mấy người làm việc nặng đều đang rất kích động đó.”
Khi màn đêm dần buông xuống, đôi mắt cô bé ánh lên trong ánh sáng lờ mờ.
“Trong lúc nghỉ việc em đã tranh thủ thu thập đủ loại thông tin từ dân trong thị trấn đấy nhé. Em làm việc vất vả lắm!”
“Đủ loại thông tin…?”
“Phân chia công việc mà! Anh làm việc cật lực trong phòng, nhưng ra ngoài thì chẳng biết chuyện gì đang xảy ra cả. Thế nên em là mắt và tai của anh đấy! Đó không phải là quy tắc căn bản trong phiêu lưu sao?”
Cậu chỉ có thể nhìn trân trối, và cô bé đổi sang vẻ mặt rõ ràng không hài lòng.
“Anh thật sự nghĩ em đi làm chỉ vì buồn chán thôi sao?”
“Không…”
Thực ra thì cậu hoàn toàn nghĩ đúng như vậy.
“Trời ơi! Thấy chưa, vì thế em mới bảo anh chán thế! Anh chẳng hiểu nổi gã tóc vàng kia đang mưu tính gì đâu!”
Thực ra, Col cũng chẳng nghĩ người có địa vị cao như Hyland chỉ hành động vì lý do đơn giản, nhưng sự ngờ vực của cô bé thì còn sâu hơn thế.
“Anh chỉ nhìn được có một phần tư thế giới thôi, anh biết không.”
“Còn chưa phải một nửa sao?”
Thế giới gồm đàn ông và phụ nữ. Nếu cậu không biết gì về phụ nữ thì cũng chỉ được một nửa. Nhưng dù miễn cưỡng chấp nhận đánh giá ấy, thì phần còn lại là gì?
Rồi nét mặt Myuri lại lộ vẻ băn khoăn xen chút buồn, cô bé lên tiếng.
“Anh chỉ nhìn vào mặt tốt của người khác thôi.”
Một cô bé hồn nhiên như vậy đôi lúc lại có thể nói trúng tim đen như thế này.
“Nhưng con người đâu phải ai cũng tốt lành hết đâu, đúng không?”
Một sự thật lạnh lùng. Nếu một đứa nhóc chỉ bằng nửa tuổi mình mà phải dạy cho mình điều này, có lẽ cậu thực sự chỉ nhìn được một phần tư thế giới.
Khi cậu vẫn còn đờ ra, cô bé đặt bàn tay ấm áp lên tay cậu.
“Nhưng em không thể tưởng tượng được anh làm điều gì xấu đâu, anh trai à.”
Cậu nhìn xuống cô bé, đứa trẻ chuyên bày trò nghịch ngợm, lúc này lại cười khúc khích.
“Thế nên em sẽ bảo vệ anh. Em sẽ để ý những gì anh không nhìn thấy và đảm bảo anh không ngã lăn khỏi vách núi.”
Cậu nghĩ một lúc, thấy cô bé cũng có lý, vì chính cô bé đã kéo cậu tránh khỏi bị xe ngựa đâm khi cậu mải nghĩ ngợi đâu đâu.
Cậu không biết nên đáp lại gì, nhưng im lặng thì cũng không ổn.
“Vậy anh nên mở rộng tầm mắt về điều gì nữa đây?”
Myuri liếc ngang rồi lắc đầu thở dài.
“Chẳng phải có người mà anh không rời mắt nổi à?”
Cách dùng từ ấy có hơi lệch, nhưng rõ ràng là cô bé đang rất tự hào về bản thân.
Sự chệch choạc thật hài hước, và cậu đã không ngăn được một nụ cười.
“Dĩ nhiên là có rồi.”
“Dĩ nhiên rồi!”
Cô bé cười toe toét, để lộ ra răng nanh. Sau đó, cô bé dựa trán lên cánh tay cậu.
“Vì thế nên…”
“Hả?”
Giọng cô bé bị nghẹt lại, cậu không nghe rõ, nhưng khi cậu hỏi lại thì cô bé đã buông tay cậu ra từ lúc nào.
“Thôi, quan trọng hơn là em đói rồi!”
Cậu cảm giác cô bé vừa nói điều gì rất quan trọng, nhưng cũng có thể chỉ là tiện dụi mũi vào người cậu cho đỡ ngứa. Dù sao thì, đúng là cậu chẳng thể rời mắt khỏi cô bé.
“Đừng ăn nhiều quá đấy.”
“Vâng.”
Câu trả lời vô thưởng vô phạt ấy thật đúng kiểu cô bé.
Cậu bước theo cô bé, mặt mỉm cười bất lực khi thấy cô bé đã nhanh chân ra khỏi phòng.
Năng lượng của thị trấn vào ban đêm khác hẳn với ban ngày.
Nó giống không khí ở Nyohhira hơn—một bữa tiệc đầy thịt và rượu.
Nhưng không như làng suối nước nóng yên ả, ở đây những gã đàn ông to khỏe ngồi chen chúc trên những dãy ghế dài tràn ra cả đường, rôm rả ồn ào. Có lẽ họ là đám bốc vác ở bến cảng, thợ mộc chuyên xẻ gỗ bằng cưa lớn, hoặc là mấy người bện dây thừng to khủng khiếp để neo tàu lớn ở bến. Những người đàn ông ngấm mùi muối biển và rượu mạnh ấy cười vang như sấm, những tiếng hét dội lại một cảm giác khác biệt.
Và Col nhanh chóng hiểu rằng lời cảnh báo của Myuri khi nãy là hoàn toàn chính xác.
“Vậy tổng giám mục định làm gì đây?”
“Sáng nay chỉ có một cha phụ tá đến làm lễ thôi. Họ sợ Ngài Winfiel đến mức ấy cơ mà!”
“Không đâu, tổng giám mục với Ngài Winfiel vẫn ở trong nhà thờ suốt cả buổi mà.”
Tất cả mọi người đều bàn chuyện về Giáo hội và Vương quốc Winfiel—mà đại diện là Hyland. Một số chỉ đứng ngoài quan sát, số khác thì la ó phẫn nộ về thuế má của Giáo hội và gọi Hyland là cứu tinh.
Col và Myuri vừa đi dạo vừa quan sát đám đông ăn nhậu. Ở mấy hàng quà vỉa hè vẫn còn bày bán dù đã muộn, cậu mua sandwich kẹp cá tuyết chiên giòn. Myuri chắc kiếm được ít tiền khi làm việc ban ngày nên cũng lôi ví ra mua thêm xúc xích.
“Nếu anh mặc đồ như lúc nãy thì chắc chắn đã không ăn nổi gì đâu.”
Cậu có thể hình dung cảnh bị mấy ông say kéo lại hỏi xem đứng về phe nào.
“Vẻ ngoài quan trọng lắm đó.”
Myuri chỉ nghiêng đầu ra dấu, như muốn nói Thấy chưa? Cậu cười, gật đầu, rồi nhẹ nhàng cốc đầu cô bé.
Hai người đứng ở góc phố, vừa nhai bánh mì vừa nhìn dòng người qua lại, Col dần hiểu ra nhiều điều.
Cậu lắng nghe xem những người đàn ông đó quan tâm chuyện gì, bàn tán gì. Một số người còn khoe nhau bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng phổ thông, hô hào như thể chỉ cần vậy là đủ lật đổ các thói xấu của Giáo hội.
Dĩ nhiên, những người đó đều say rượu, nên cậu không thể tin tất cả những lời nói hay hành động của họ. Tuy vậy, cậu vẫn cảm nhận được mức độ kỳ vọng của họ. Nếu cả thị trấn đều ủng hộ, thì mong muốn của Hyland chắc chắn sẽ thành hiện thực. Với tình hình này, tổng giám mục không thể làm ngơ trước nguyện vọng của dân chúng. Ông ta sẽ phải sửa sai, rồi cùng đứng lên phản đối Giáo hoàng.
“Có lẽ chúng ta sắp thực sự thực hiện được công lý rồi.”
Bắt đầu từ Giáo hội ở Atiph, làn sóng này sẽ lan sang các thị trấn khác. Nghĩ đến việc công sức của mình có thể góp phần thúc đẩy điều đó, cậu không giấu nổi hào hứng.
Cậu đứng ở góc phố, mắt ánh lên hy vọng, còn Myuri thì dựa lưng vào tường, nhẩn nha gặm bánh, rồi thở dài.
“Công lý… công lý á?”
“Sao vậy? Chẳng phải mọi người đều đi đúng hướng như gương Trữ quân Hyland sao?”
Sau khi nghe Col hỏi, cô bé nhìn cậu không cảm xúc, rồi hất cằm về phía trước kiểu như mấy anh sai vặt chuyên nghiệp.
Thắc mắc, cậu nhìn theo hướng đó, thấy một nhóm đàn ông đang ngồi ở ghế dài trước quán rượu.
“Ha-ha-ha!”
“Này này, nhìn này, nhìn này!”
Cậu nghe thấy tiếng cười nhạo cùng với tiếng chó sủa. Một gã say cầm miếng thịt khô, đùa giỡn một con chó hoang. Chuyện ấy thì không lạ gì. Trong thị trấn này động vật nhiều vô kể.
“Này, đây là thịt thuế đó! Ăn đi nào!”
Gã ta ném miếng thịt khô, con chó chạy đến cắn lấy rồi ăn ngon lành. Đám đàn ông cười ầm lên. Rồi Col nhận ra có gì đó kỳ lạ ở con chó.
Ai đó đã quàng lên cổ nó một miếng vải, khiến nó trông giống một cha xứ.
“Cha Chó ơi! Xin nhận lấy bánh thuế này nữa nhé!”
Mỗi lần con chó ăn, bọn họ lại cười bò ra đất.
Myuri chỉ nửa cười nửa không, còn Col thì chẳng thể cười nổi.
Đó là sự nhạo báng quyền uy một cách rõ ràng.
“Họ làm thế từ hôm qua rồi. Ở Nyohhira em cũng quen thấy người say làm loạn, nhưng ở đây thì khác hẳn, thấy hơi… đáng sợ.”
Cô bé ăn xong bánh, phủi vụn trên áo.
“Hôm nay còn có một cha xứ từ nhà thờ trên đảo gần đây đến nữa. Khiếp lắm.”
“Có gì mà ghê vậy?”
Con chó nhận đồ ăn một cách hớn hở. Mỗi lần nó vẫy đuôi thì đám người lại cười phá lên.
“Em nghĩ chắc là quy định, tàu của các vị trong Giáo hội đều phải treo cờ không vẽ gì ngoài huy hiệu giáo hội. Nên ai cũng nhận ra ngay đó là người của nhà thờ. Xong rồi vỗ tay, reo hò ầm ĩ luôn.”
Cậu liếc nhìn, thấy mặt cô bé Myuri chợt tối lại, trái ngược hẳn với câu chuyện đang kể.
Hay là cô bé mong đừng ai chào đón vị cha xứ ấy?
Trong lúc cậu còn đang nghĩ, cậu nhóc sai vặt khẽ thở dài.
“Không ai thật lòng chào đón ông ta đâu. Người trong công ty kể lại đấy, rằng vị ấy được gọi đến hỗ trợ tổng giám mục, mà cả thị trấn này lại ghét Giáo hội, nên sẽ phải đối đầu với gã tóc vàng. Ai cũng biết chuyện đó nên đón tiếp chỉ toàn vỗ tay giả lả, reo hò lấy lệ thôi. Mà cũng chẳng thể quay tàu về được. Thế là lúc xuống tàu, cha xứ ấy do dự, mặt cắt không còn giọt máu, như biết mình đến không đúng lúc vậy.”
Ác ý.
Đó là ác ý trào lên chống lại quyền lực.
“Chẳng ai thật sự hoan nghênh, nghĩ đến cảnh ông ta bị đám đông vây quanh thấy cũng đáng sợ. Ông ấy nhìn cũng hiền lành, mà lúc rời bến thì cứ như đang chạy trốn ấy.”
Không phải ai nắm quyền cũng ngồi trên đỉnh vinh quang. Ngay cả tổng giám mục ở đây cũng vậy. Dù ông ta rất tận tụy với công việc thiêng liêng, nhưng cũng không phải người xấu hoàn toàn.
“Ở đây mấy ngày, em nhận ra mọi người chẳng ai quan tâm chi tiết đâu. Khó tả lắm, cảm giác cứ như chỉ cần có cớ gì đó để phẫn nộ thì người ta sẽ bám lấy nó thôi. Ai nấy đều bức xúc, kêu ‘Sao chúng nó dám lấy tiền của mình!’ Nhưng lúc em hỏi thuế giáo hội có thực sự đắt không thì họ lại cười, bảo chưa từng bị thu khoản đó.”
Chắc chắn không thể nào tất cả những người vác hàng, làm lụng ngoài phố đều bị đánh thuế thập phân. Thuế ấy chủ yếu lấy từ các công ty lớn, các trạm thu phí hoặc tiền thuế đất. Dĩ nhiên, về lâu dài nó cũng sẽ ảnh hưởng tới người dân thường, nhưng bảo từng cá nhân cảm nhận được thì khó lắm.
“Này, anh trai à. Anh biết điều mình tin là gì, em thấy anh say sưa dịch Kinh Thánh như vậy nên cũng chẳng nói gì.”
Trong mắt cô bé nhìn lên cậu, ánh lên một sự thành thực mà trước nay chưa từng có.
“Bản dịch của anh đang được lưu truyền khắp nơi, giờ thì ai cũng có nên đã mặc sức nhục mạ Giáo hội.”
“Đó không phải là mục đích của bản dịch mà—”
“Nhưng có vẻ chẳng ai quan tâm anh nghĩ gì, hay nó viết gì cả.”
Chuyện như lời Chúa có lẽ không còn ý nghĩa gì với họ nữa. Thậm chí, có thương nhân thấy cậu ngày ngày tụng Kinh Thánh thì cho là điềm lành mà cúi đầu xin phù hộ. Đời là vậy thôi.
“Nên anh phải cẩn thận đấy. Cái gã tóc vàng kia chắc cũng lường trước điều này rồi.”
“Chuyện đó…”
“Từ miệng anh chỉ toàn những điều tốt đẹp mà thôi.”
Đó chỉ là một nửa của một nửa thế giới.
Cậu nhìn cô bé thật lâu, nhưng không sao đáp lại nổi. Khi quay đi, cậu lại thấy con chó đang bị đem ra làm trò cười.
Cậu đã quá ngây thơ ư? Nhưng đức tin vốn là thứ ngây thơ trong sáng. Nếu sự ngây thơ và trong sáng là điều xấu, vậy cậu phải làm gì đây?
Dĩ nhiên, Col không hề nghĩ rằng Hyland hành động hoàn toàn vì những lý tưởng thánh thiện. Tuy vậy, cậu vẫn tin rằng công lý sẽ chờ đợi họ ở cuối con đường này.
Suy nghĩ ấy khiến cậu càng thêm băn khoăn, bỗng thấy nghi hoặc mọi điều.
Cậu chỉ muốn được đọc Kinh Thánh ngay lập tức.
“Myuri.”
“Hmm?”
Cậu vừa nhìn con chó bị đám đàn ông dùng đồ ăn trêu chọc, vừa lên tiếng gọi cô bé.
“Chúng ta về lại nhà thương hội thôi.”
Cậu không dịch Kinh Thánh vì những ác ý kiểu này. Cậu không muốn biến uy quyền của Giáo hội thành trò cười. Cậu chỉ muốn chỉ ra những điểm bất cập rồi sửa chữa chúng mà thôi.
Tất nhiên, những người như thế này không đại diện cho tất cả, và cậu cũng không nghĩ Hyland đã xúi giục gì cả. Nhưng dù sao, nó khiến cậu nhận ra rằng mình thực sự chỉ nhìn thấy một phần tư của thế giới.
“Vâng.”
Cậu cứ nghĩ cô bé sẽ mè nheo, đòi mua thêm gì ăn, nhưng cô bé đáp lời rất ngoan ngoãn.
Cô bé đứng thẳng khỏi bức tường, chuẩn bị bước đi, rồi lại quay lại nhìn cậu.
“Anh có muốn em nắm tay không?”
Col đã nỗ lực hết mình vì lý tưởng, nhưng rồi lại bắt gặp ác ý bất ngờ nơi người dân thị trấn. Có lẽ nỗi thất vọng ấy đã hiện rõ trên mặt, nên Myuri mới vừa trêu vừa dỗ dành cậu.
Cậu cũng không biết ai trong hai người mới thật sự là người lớn hơn.
“…Nếu anh lạc thì không phải lỗi của anh đâu đấy,” cậu đáp.
“Này!”
Cô bé kéo cậu đi ngược lại hướng vừa đến. Cô bé bước nhanh, hẳn là muốn đưa cậu ra khỏi bầu không khí tục tĩu ấy càng sớm càng tốt. Dù lúc nào cũng ồn ào, ích kỷ và hay nói những câu khiến cậu phải lắc đầu, cô bé vẫn là một cô gái tốt.
Và dòng suy nghĩ ấy của cậu cứ tiếp tục.
Nếu Myuri là người tốt như vậy, thì chắc chắn trên đời vẫn còn nhiều người tốt khác nữa.
Col biết, một khi con người bắt đầu nghi ngờ thế giới, thì sẽ không bao giờ có điểm dừng. Cậu hiểu rõ có kẻ xấu trên đời này. Thực tế là cậu gặp Lawrence cũng là vì từng bị lừa gạt.
Vậy nên, dù có những người biến uy quyền của Giáo hội thành trò cười chỉ để giải khuây, thì phần lớn mọi người sẽ đọc bản dịch Kinh Thánh bằng ngôn ngữ phổ thông, rồi nhận ra cả công và tội của Giáo hội. Ít nhất, cậu muốn tin là như vậy.
Col và Myuri quay về tòa nhà thương hội, len qua dòng người vẫn còn bận rộn dù đã tối, lên đến tầng ba.
“Anh muốn làm gì cũng được, nhưng hôm nay phải ngủ đàng hoàng đấy nhé! Nghe chưa?!”
“Biết rồi, biết rồi.”
Cậu mỉm cười trước tiếng gào của Myuri, rồi mở cửa phòng. Hương mực thơm lừng quen thuộc lập tức bao trùm, xoa dịu hết mọi lo âu trong cậu từ những ồn ào ngoài phố.
Đó là mùi của tri thức và bình yên.
“Nhưng trước khi ngủ, anh muốn rửa mặt đã. Còn Myuri, em cũng bám đầy bụi đất rồi đấy, đi lấy nước đi—”
Cậu vừa nói vừa thắp nến, thì nhận ra Myuri vẫn còn đứng ở ngưỡng cửa.
“Myuri?”
Cô bé không đáp, và khi cậu nhận ra cô bé hơi run lên, đôi tai và cái đuôi cũng đã hiện ra. Cô bé bước vào, đóng cửa, ngửi ngửi khắp phòng.
Cậu cứ nghĩ đó là trò đùa, nhưng như bị thứ gì đó vô hình kéo dẫn, cô bé đi thẳng đến chỗ bàn.
“Myuri.”
Lần này không phải là câu hỏi, mà là tiếng gọi. Bản thảo bản dịch vừa hoàn thành vẫn được xếp gọn trên bàn. Hầu như không có gì thay đổi so với lúc hai người rời phòng.
“Có ai đó đã vào đây khi ta đi vắng. Nhiều người.”
Tuy nhiên, không thể phủ nhận được sự cảnh giác từ bộ lông dựng đứng ở đuôi và tai cô bé.
Hơn nữa, căn phòng này không hề có khóa. Ai cũng có thể ra vào tùy ý.
“Có ai lấy cắp gì không nhỉ?”
Cậu lật xấp giấy da, soi nến kiểm tra. Tuy nhiên, số trang vẫn đủ, và nét chữ đều là của cậu.
“Không bị chỉnh sửa gì cả… Có lẽ ai đó vào chỉ vì tò mò muốn đọc thôi?”
Trong nhà thương hội cũng có những tín đồ sùng đạo. Chắc họ nghe đồn bản dịch sắp xong nên không chờ nổi, liền vào xem thử, mà không gặp ai nên cứ tự ý đọc.
Khi cậu còn đang suy nghĩ, Myuri đang cúi người ngửi quanh bàn ngẩng lên, dụi mũi.
“Em chịu, chỉ biết có người vào thôi. Nếu em hóa thành sói được như mẹ thì chắc nhận ra được ai rồi,” cô bé tiếc nuối rồi hắt hơi một cái.
Cô bé có thể giấu hay để lộ tai, đuôi tùy ý, nhưng không thể hóa thành sói khổng lồ như mẹ Holo. Có lẽ đó là do cô bé có một nửa dòng máu người.
“Dù sao thì, anh cũng nên cẩn thận một chút.”
“Anh biết rồi. Nhưng cũng không nên nghi ngờ người khác quá đâu.”
Myuri chậm rãi vẫy đuôi, cau mày nhìn cậu khi cậu vẫn cố chấp, tay khoanh lại.
Cậu thở dài, nhún vai, như thể đầu hàng vậy.
“Vậy thì, để anh đi lấy nước nóng… Chỉ để chắc ăn, em cắm dùi ngắn xuống sàn, lấy chuôi chặn cửa lại nhé.”
“Nếu phải cẩn thận đến mức ấy thì em đi cùng luôn.”
Cô bé đáp giọng bực dọc, cậu nghĩ thế cũng được.
Cậu đặt nến lên giá cầm tay, chuẩn bị ra khỏi phòng.
“À, có người vừa lên tầng ba rồi đấy. Hình như là tiếng chân của Lewis,” Myuri nói, tai cô bé giật nhẹ. Đó chắc là tên một cậu sai vặt khác mà cô bé kết bạn được trong mấy ngày làm việc. Nghĩ đến chuyện có thể nhờ người đó lấy luôn nước, thì ngay lúc đó, cô bé chợt giấu tai đuôi đi. Vài giây sau có tiếng gõ cửa vang lên.
“Xin thứ lỗi vì làm phiền các vị lúc nghỉ ngơi.”
Giọng chào hỏi rất đúng phép tắc. Người này chắc chắn không phải ai đã vào phòng khi hai người vắng mặt.
“Mời vào,” Col đáp. Cửa mở ra, một cậu thiếu niên lớn hơn Myuri hai, ba tuổi bước vào.
“Xin phép. Trữ quân Hyland cho gọi ngài.”
Nghe vậy, Col đoán rằng rất có thể chính Hyland là người đã vào phòng trước. Dù sao thì, với tư cách là người giao việc, Hyland hoàn toàn có quyền đọc thành quả bất cứ lúc nào, và hẳn là không coi chuyện vào phòng người thường mà không xin phép là gì nghiêm trọng.
“Được rồi. Chúng tôi sẽ đến ngay,” cậu đáp, cậu thiếu niên cúi đầu lễ phép. Col thấy cậu ta liếc vào trong phòng.
Gương mặt điềm tĩnh kia bỗng chuyển sang mỉm cười, còn vẫy tay nhẹ nữa.
Tất nhiên, Col cũng lịch sự giả vờ không thấy.
Họ đóng cửa lại, Myuri tựa lưng vào bàn làm việc của các thầy ký rồi cười toe toét.
“Lewis à?”
“Ừ. Em với cậu ấy cùng làm ở bến cảng, cậu ấy rơi xuống biển hai lần liền.”
Không biết cô bé cười vì thân nhau, hay vì nhớ lại cảnh ngốc nghếch ấy. Có lẽ là cả hai.
“Vậy thì, anh đi gặp Trữ quân Hyland đây…”
Cậu cố tình bỏ lửng câu.
“Em đi cùng nữa.”
“Lần này chắc chẳng có kẹo đâu nhé.”
“Không sao. Anh cho em ăn nhiều quá thì em cũng chẳng còn tâm trí nhìn gì khác đâi.”
Thực ra, chắc việc Hyland thích tặng kẹo cho Myuri cũng chẳng khác gì cảm giác thuần hóa được một con thú cảnh giác trong núi.
“Nhưng không được vô lễ đâu đấy.”
“Biết rồi.”
Cô bé rời bàn, bước ra trước.
Cậu chuẩn bị bước theo, nhưng bất giác quay lại nhìn căn phòng một lần nữa.
Liệu có nên cứ thế để bản thảo bản dịch ở nguyên chỗ cũ không?
“Anh trai ơi?”
Myuri gọi cậu từ ngoài hành lang. Sau một thoáng ngập ngừng, cậu quyết định mang theo bản thảo bên mình.
Dù sao thì cậu cũng phải báo cáo với Trữ quân Hyland rằng mình đã hoàn thành việc dịch bảy chương đầu tiên.
“Xin lỗi đã để em đợi.”
“Không sao. Lần trước em được ăn kẹo việt quất với táo rồi, chắc lần này sẽ đến lượt lê nhỉ.”
Cậu bật cười trước cái tính háu ăn của cô bé, rồi bắt đầu bước đi cùng nhau. Nhưng cuối hành lang dài, phía ngoài tầm sáng của ngọn nến cậu mang theo, chỉ còn lại một màu tối đen hun hút.
Dù sao, cẩn thận cũng không thừa. Nghĩ vậy, hai người tiến về phía phòng của Hyland.
Hyland đã cho gọi họ đến khi trời đã khuya, nhất là sau khi vừa bắt đầu thương lượng với tổng giám mục vào hôm trước.
Hẳn là ngài ấy có nhiều lý do nên mới triệu tập họ thế này.
“Ồ, các vị đến rồi à.”
Khi được cho vào phòng, Hyland đón họ từ một chiếc bàn phủ khăn trắng tinh, bên trên bày đồ ăn nguội lạnh từ lâu.
“Xin thứ lỗi, chúng tôi vừa đi ăn về.”
“Không sao.” Hyland cười gượng, tay mân mê con dao. “Ta cũng chẳng còn đói đâu.”
Ngài ấy đặt dao xuống, ngả người tựa vào ghế.
“Chắc hẳn điện hạ đang bị áp lực vì thương lượng. Xin đừng cố quá sức.”
“Áp lực… Không hẳn thế. Có lẽ nên gọi là thất vọng hay khó chịu thì đúng hơn.”
Cách Hyland chọn từ không báo hiệu điều gì tốt đẹp cho việc thương lượng.
“Tổng giám mục vẫn cứng đầu dù có sự ủng hộ của người dân ạ?”
Hyland khẽ cười.
“Sự ủng hộ của người dân à?”
Col cảm thấy Myuri đứng cạnh mình bắt đầu cau có. Nụ cười nhếch mép của Hyland không nhắm vào họ mà là về chuyện khác.
“Ta cũng nghĩ vậy. Nhưng thật ra, những người ầm ĩ nhất đều là tầng lớp dưới đáy xã hội thôi.”
Những người khuân vác ở bến tàu, ngư dân, và lao động ban ngày.
“Những người ấy chỉ biết gào thét ầm ĩ. Hôm nay, một linh mục dưới quyền tổng giám mục đã được gọi đến để trợ giúp, nhưng vừa tới nhà thờ thì ông ta ngã quỵ xuống sàn. Trông như vừa thoát khỏi chiến trường vậy.”
Có lẽ chính là vị mục sư mà Myuri từng kể trước đó—người được hoan nghênh bằng tiếng vỗ tay giả tạo khi vừa cập cảng.
“Các vị có biết họ nhìn ta ra sao sau chuyện đó không?” Hyland thở dài, ngồi trước bữa ăn nguội ngắt. “Họ nghĩ ta đang muốn kích động nội chiến và sáp nhập thị trấn này vào vương quốc.”
“Sao cơ ạ?”
Chuyện này hoàn toàn không liên quan đến cuộc xung đột giữa Vương quốc Winfiel và Giáo hoàng.
“Ngài có biết có người đã dán bản dịch Kinh Thánh quanh phố và cầm đi khắp nơi không? Chính vì vậy mà tổng giám mục đã lớn tiếng với ta, tố cáo bản dịch là giả và chỉ là văn bản kích động nổi loạn.”
“Không thể nào…”
“Dĩ nhiên, ai đọc kỹ thì sẽ nhận ra nó là thật. Ta thậm chí còn trình cho tổng giám mục xem. Nhưng vì mọi người cho rằng biểu tượng quyền lực của thị trấn sẽ dẫn đến cách mạng, nên tất cả những kẻ có máu mặt đều chần chừ. Nếu lỡ như tổng giám mục phán đoán đúng, thì đứng về phía ta chẳng khác nào ủng hộ phản loạn.”
Hyland nói với giọng tự giễu, nở một nụ cười nhạt đầy đau đớn.
Thêm vào đó, sự nhã nhặn của Stefan, người điều hành nhà thương hội Debau này, cũng giữ Hyland ở khoảng cách lịch sự chứ không phải sự tôn trọng thực sự. Họ kinh doanh ở đây, và sẽ có lợi hơn nếu không đối đầu với những người có quyền lực.
Nghĩ vậy, Col cảm thấy mình đoán được ai là người đã lẻn vào phòng để xem bản dịch trong lúc cậu vắng mặt. Chắc hẳn có ai đó từ Công ty Debau đến kiểm tra xem cậu có viết luận thuyết nổi loạn gì trong phòng hay không.
Hyland hít một hơi sâu rồi từ từ thở ra.
“Ở quê nhà, ngày càng nhiều người đánh mất sự che chở của Chúa trong những thời khắc quan trọng, cũng vì Giáo hoàng cả. Không phải họ không tin Chúa, càng không phải ta lợi dụng dịp này để chiếm đất của nước khác. Chúng ta chỉ không hài lòng khi Giáo hoàng đặt quyền năng của Chúa và tiền bạc lên cùng một bàn cân. Ta không hiểu… làm sao ông ta lại không nhận ra điều đơn giản ấy.”
Ngài ấy siết chặt nắm tay, nó run lên trên bàn. Col hiểu nỗi thất vọng ấy, cũng làm theo.
Nhưng khi Hyland cuối cùng cũng buông tay, trên mặt lại lộ vẻ xấu hổ.
“Hay là, có khi ông ta cố tình chọc giận ta. Vì chỉ cần nổi nóng là coi như thua. Nhất là khi thương lượng.”
Hyland nhấp một ngụm rượu, rồi nói tiếp:
“Chuyện ở Lenos cũng y như vậy. Tổng giám mục gọi hết mọi người có thể đến rồi để họ thi nhau buông lời nhục mạ ta. Làm thế thì dù chuyện đen tối đến mấy cũng thành nhẹ tênh.”
Giới chức Giáo hội không thể đuổi Hyland bằng bạo lực, nên họ dùng thủ đoạn lấn át số đông.
“Vậy nên, Col, ta muốn nhờ ngài một việc.”
“Tôi ạ?”
“Ta muốn tăng thêm phe mình, dù chỉ một chút. Ta không biết ngày mai họ có giở lại trò ấy không, nên muốn cháu đi cùng ta tới buổi thương lượng.”
Col định đáp lại bất ngờ này, nhưng Hyland mỉm cười ra hiệu dừng lại.
“Có thể ta sẽ hỏi các lời khuyên về thần học, nhưng không bắt ngài phải chủ động phát biểu. Chỉ cần ngài đứng đó, tỏ ra nghiêm nghị là đủ. Ta đã bảo với họ rằng ngài là học giả trẻ tuổi xuất thân từ những học giả thần học lừng danh. Chỉ cần như vậy, tổng giám mục sẽ không dám kiểm tra thuộc lòng Kinh Thánh đâu. Vì họ lên được vị trí ấy không phải nhờ hiểu biết giáo lý, mà là nhờ xoay xở trong xã hội trần tục.”
Dường như Hyland nói vậy dựa trên trải nghiệm thực tế hơn là định kiến.
“Hơn nữa, tổng giám mục có thể chưa từng đọc Kinh Thánh, nhưng đây là thành phố cảng. Ông ta chắc hẳn biết tên những giáo sĩ nổi tiếng từng qua lại Nyohhira. Nếu ta nhắc đến vài người và kể về họ như thầy của ngài, các linh mục sẽ nghĩ ngài ngang hàng những học giả danh giá.”
Col cảm thấy mình như một con bù nhìn đuổi chim ngoài ruộng, nhưng cậu sẽ làm mọi thứ miễn là giúp được.
“Ta cũng chẳng muốn dùng mánh khóe gượng gạo như vậy đâu. Có điều, thế giới tươi đẹp nơi ai cũng tự nhận ra sai lầm khi nghe sự thật dường như chỉ có trong sách vở.”
Hyland dường như đã kiệt sức vì sự khác biệt giữa lý tưởng và thực tế.
Nhưng khi ngài ấy nhắc đến sách vở, Col chợt nhớ ra xấp bản thảo lý tưởng đang cầm trên tay mình.
“Nhân tiện, về bản dịch, tôi đã hoàn thành bản thảo tạm đủ bảy chương rồi.”
“Ồ!”
Mặt Hyland sáng lên thấy rõ, làm Col cũng vui lây.
“Tuy còn cần biên tập lại, nhưng ý chính chắc đã rõ ràng.”
“Không, cảm ơn ngài đã làm việc chăm chỉ.”
Col đưa xấp bản thảo cho Hyland, ngài ấy lướt qua với ánh mắt trìu mến.
“Ừm… Tốt lắm.”
Có thể đó chỉ là lời xã giao, nhưng Col cũng cho phép bản thân tự hào một chút như phần thưởng.
“Ta xin lỗi không có thời gian đọc hết. Đã sao chép được đến đâu rồi?”
“Các bản sao đã đến khoảng nửa chương bảy. Phần còn lại tôi vừa làm xong hôm nay, nên chắc sẽ kịp sao chép vào sáng mai. Tôi sẽ đưa cho các thầy ký để tiếp tục sao chép khi mang phần này đến nhà thờ.”
“Cảm ơn vì suy nghĩ nhanh nhạy như thế. Có thể làm vậy giúp ta chứ?”
“Rõ, tất nhiên rồi.”
Nhận lại bản thảo từ Hyland, Col lại thấy hy vọng vào tiến độ và viễn cảnh của công việc.
“Đây là bước đầu tiên mang tính lịch sử, mở ra cho mọi người khả năng tự đọc Kinh Thánh và nhận ra điều đúng đắn. Ta trông cậy vào ngài, Col.”
Col đón nhận sự động viên từ Hyland, rồi rời khỏi phòng.
Đêm đó, cậu lại thức cùng ánh nến, nhưng Myuri không còn giận dỗi, cũng không xua cậu ra ngoài. Thay vào đó, cô bé ngồi đọc cẩn thận bản dịch bên cạnh cậu khi cậu miệt mài sao chép. Cậu chỉ mong cô bé sẽ dần thức tỉnh trước giáo lý của Chúa.
Có lẽ cô bé cũng không vui khi thấy cậu lại nhận thêm việc, có thể vì cảm thấy mình bị bỏ rơi hoặc cũng có thể vì không thích Hyland.
Khi bất ngờ tựa đầu vào vai cậu lúc cả hai đang làm việc, hành động ấy cũng là một cách cô bé thể hiện sự bất mãn.
Cô bé vốn hay ồn ào, vậy mà đọc hết cả bản dịch mà không nói lời nào.
Đến khi ngẩng lên, cô bé vươn vai, ngáp một cái rồi kiểm tra tiến độ của cậu. Thấy vẫn còn lâu mới xong, cô bé không nói gì thêm mà đi thẳng lên giường ngủ.
Cậu nghĩ, cô bé này lúc nào cũng làm theo ý mình; hành động ấy đúng là cho thấy cô bé hơi giận dỗi thật. Sau ngày mai, cậu phải tìm cách dành thêm thời gian cho cô bé.
Nghĩ vậy, cậu cũng thấy mình thật chiều chuộng, nhưng giờ thì đã thành thói quen khó bỏ rồi.
Cậu tưởng tượng nếu một ngày phải chia xa, chẳng những cậu không còn làm ở nhà tắm, mà trong tim cậu cũng sẽ xuất hiện một khoảng trống nhỏ.
Chẳng cần tới sáng hôm sau, Col đã hoàn thành nốt phần sao chép bản dịch, khi mà cả thị trấn đã chìm trong tĩnh lặng.
Cậu không thể vừa ngáp vừa làm cộng sự cho Hyland, nên Col đã tranh thủ ngủ, tận hưởng hơi ấm từ chiếc đuôi của Myuri. Nhưng cậu lại tỉnh dậy ngay khi trời vừa hửng sáng. Myuri, chỉ chịu dậy khi mặt trời đã lên cao, thì cực kỳ ngao ngán khi nghe chuyện cậu dậy sớm. Nhưng bản thân Col cũng nhận ra như thế chỉ vì cậu quá hào hứng mà thôi.
Các người ghi chép cũng đã đến, Col đưa cho họ bản dịch phần còn lại. Khi họ làm xong, cậu dặn họ phát cho bất kỳ ai muốn có. Cậu sẽ giữ bản gốc, mang cùng Hyland đến nhà thờ.
“Sao em lại mặc bộ này vậy?”
Myuri đã khoác lại bộ quần áo khi rời khỏi Nyohhira, choàng thêm áo choàng lên vai. Chỉ mới vài ngày, nhưng khi ăn mặc nữ tính, cô bé trông đã trưởng thành hơn hẳn.
Có lẽ là nhờ quãng thời gian làm việc ở thành phố.
“Sao à? Nếu em đến nhà thờ mà mặc đồ sai vặt của công ty thì chẳng hay ho gì cho công việc cả. Hôm qua mình bàn rồi mà.”
Dù Công ty Debau có muốn ủng hộ Hyland đi nữa, Stefan, người điều hành thương hội ở đây, cũng chẳng muốn chống lại Giáo hội. Hơn nữa, ai cũng bàn tán rằng mọi rối loạn đều là hậu quả từ cuộc tranh chấp lãnh thổ.
Nhận định của Myuri là đúng, nhưng cậu cũng phải thắc mắc việc cô bé lấy đó làm lý do.
“Chẳng lẽ chờ ngoan ngoãn trong phòng như một cô bé ngoan không được à?”
“Không! Em đọc hết Kinh Thánh rồi. Ở lại chẳng học thêm được gì nữa đâu.”
“Vì anh chỉ nhìn được một phần tư thế giới à?” Cậu hỏi, Myuri nhìn cậu rồi bật cười khúc khích.
“Đúng thế!”
“Thật là… Không biết Trữ quân Hyland sẽ nói gì đây.”
Cậu cũng có chút hy vọng mong manh, nhưng khi đến phòng Hyland thì mọi chuyện lại ổn thỏa ngoài dự đoán.
“Nhìn thế này vẫn chưa ổn lắm, nhưng nếu cô bé bỏ áo chẽn đi, mặc quần của cậu sai vặt rồi thắt khăn lưng quanh eo, thì ừ, nhìn cũng ra dáng học việc của một viên chức hoàng gia đấy. Ta sẽ chuẩn bị thêm cho cô bé một chiếc mũ gắn lông vũ. Cô bé có gương mặt sáng sủa và tự nhiên mà. Kiểu gì cũng hợp thôi.”
Ngài ấy chỉ tỏ vẻ hơi buồn cười trước lời đó, nhưng khi Myuri thực sự thay đồ, buộc tóc lỏng ở gáy, Col cũng phải công nhận: quả thật trông cô bé chẳng khác gì một người hầu cận quý tộc.
“Vẻ bề ngoài rất quan trọng đó.”
“Chính xác.”
Nghe Hyland đồng tình, Myuri liền hất cằm đầy tự mãn.
“Vậy đi thôi. Buổi cầu nguyện sáng đã xong, mọi người sắp rời nhà thờ để đi làm ở các cửa tiệm hay xưởng thợ rồi.”
Hyland cùng đoàn tuỳ tùng đã chuẩn bị xe ngựa, còn Col và Myuri thì đi bộ theo sau. Đường phố lúc nào cũng đông đúc, nếu xui xẻo thì đi bộ thậm chí còn nhanh hơn. Hơn nữa, như vậy cũng dễ cảm nhận không khí ngoài phố hơn.
Bầu không khí hỗn loạn tối qua đã tan biến, thị trấn Atiph giờ long lanh dưới nắng mai. Col nhìn khung cảnh ấy, suýt nữa tin rằng tất cả chỉ là cơn ác mộng trong bóng tối.
Dừng xe ngựa trước nhà thờ khi không có nghi lễ chính thức là thất lễ, vậy nên ngài ấy cho xe vòng ra sau. Ở đó, mấy linh mục phụ tá với tay áo xắn cao, bàn tay đỏ ửng vì rửa nước lạnh.
Họ đang kỳ cọ tường nhà thờ bằng giẻ rách.
“Chào buổi sáng. Tổng giám mục có ở đây không?” Hyland cất tiếng. Một cha phụ tá trông lớn cao Myuri chút đỉnh, để râu chưa mọc hết, liền lau tay rồi dè dặt mở cửa phụ phía sau. Nó là một cánh cửa sắt thô ráp có thể chặn quân thù nếu cần.
“Xin thất lễ.”
Khi Hyland bước vào, các cha phụ tá đều cúi mặt xuống, nhưng tới lượt tuỳ tùng và Col theo sau, họ lại lườm ra mặt. Đoàn người bước vào nhà thờ tối om, cánh cửa nặng nề đóng sập lại phía sau. Myuri thì thầm với Col:
“Họ thật sự không muốn chúng ta vào đây.”
“Chắc là khó chịu vì phải làm thêm việc sáng nay thôi.”
Hyland là người đáp lời.
“Chà, dọn dẹp chẳng phải cũng là luyện tập tốt sao?” Col hỏi.
“Tuỳ xem họ đang lau sạch thứ gì nữa.”
Col ngớ ra, còn Myuri thì ghé tai cậu thì thào: “Trứng thối á.”
Cậu giật mình nhìn lại cô bé. Ở phía sau nhà thờ không có cửa hiệu, lại vắng người qua lại vào ban đêm. Cậu dễ dàng hình dung có kẻ bất mãn đã ném trứng thối vào đây. Từ góc nhìn của Giáo hội, Hyland đích thị là kẻ gây náo động, thế nên ngài ấy và đoàn tuỳ tùng chẳng được hoan nghênh.
Họ rảo bước thật nhanh qua nhà thờ. Không phải kiểu ngạo mạn mà đơn giản là nếu không thế, có thể sẽ bị tống ra ngoài hoặc bị nhốt ở phòng nào đó đợi dài cổ.
Nhà thờ trông lớn hơn nhiều so với bên ngoài, tường đá kiên cố, trang hoàng lộng lẫy. Khăn lụa đỏ thẫm khổng lồ treo kín tường, chân đèn đá xếp hàng ngay ngắn—quả là đỉnh cao của xa xỉ. Ban đêm, chắc chắn ánh sáng là từ nến sáp ong chứ không phải mỡ bò.
Tới nơi, Hyland đẩy cửa đôi rộng lớn mà không ngần ngại.
“Chào buổi sáng. Ta cảm tạ Chúa hôm nay đã cho ta vinh hạnh lại được gặp Đức Tổng.”
Không gian bên trong rộng lớn còn trần nhà thì cao vút. Căn phòng dài hơn là rộng, chính giữa là chiếc bàn dài nhất Col từng thấy, dễ dàng chứa tới hai mươi người. Dọc tường là các kệ gỗ, rương chạm trổ tinh xảo, trên tường trát vôi treo những bức tranh thiên thần, tổng có mười hai vị, lớn hơn cả bức cậu thấy ở nhà thương hội Debau. Ngay cả phòng khách của các thương gia lớn cũng chưa từng sang trọng tới thế.
Bảy vị đức ông [note78299] mặc áo choàng tím với đường thêu nổi bật ngồi quanh bàn, cùng hai thư ký với các cuộn giấy da trải đầy trước mặt. Đầu bàn, dưới huy hiệu lớn của Giáo hội vẽ trên tường, là tổng giám mục trong bộ áo choàng thêu vàng. Phía sau họ là hai, ba viên thị thần, người là linh mục phụ tá chuyên làm những việc đặc thù, người thì là thư ký hành chính của hội đồng Giáo hội. Rõ là nếu tất cả đồng thanh la ó, thì dù lý lẽ có vững chắc đến đâu cũng bị át đi.
“Vinh danh Thiên Chúa,” tổng giám mục ngâm nga, nhưng mặt vẫn cau có. “Điện hạ dẫn theo cả một đoàn đấy nhỉ.”
Vừa mở miệng đã giễu cợt, nhưng Hyland chỉ mỉm cười lịch thiệp rồi ngồi xuống ghế do một người hầu kéo sẵn.
“Người càng đông thì phòng càng ấm mà.”
Tổng giám mục vẫn cau mày, phì ra một tiếng qua mũi.
“Nhân tiện, bản dịch Kinh Thánh vừa xong bảy chương sáng nay. Ta xin gửi bản thảo này tới Đức Cha.”
Hyland ra hiệu, người hầu đưa bản thảo sang cho các giáo sĩ.
Không ai trong số các đức ông tỏ ra thân thiện, nhưng thị thần vẫn cung kính chuyển bản dịch cho tổng giám mục.
“Có lẽ Đức Tổng tự đọc sẽ thấy rõ đây không phải là bài luận xúi giục nổi loạn như lời đồn. Đương nhiên, Chúa không thích tranh chấp, và chúng ta chỉ kêu gọi hòa giải.”
Tổng giám mục lật trang bản thảo trước mặt rồi ngẩng lên.
“Tôi có thể đọc chứ?”
“Xin Đức Tổng cứ tự nhiên.”
Giọng Hyland nghe có vẻ phấn khích hơn thường lệ. Col cũng khá bất ngờ—cậu cứ nghĩ tổng giám mục sẽ không thèm nhìn đến.
Ông ta đọc lướt trang đầu rất kỹ, rồi chuyển sang trang hai. Ông đọc cẩn trọng và lặng lẽ.
Trong căn phòng rộng lớn với gần ba mươi người, không ai nói một lời. Thỉnh thoảng có tiếng người dịch ghế hay ho khan. Ánh mắt tổng giám mục vẫn dán vào bản thảo, không hề ngẩng lên.
Col cảm thấy có gì đó là lạ—ông ta cứ dừng quá lâu ở trang hai.
“Có vấn đề gì sao?”
Hyland cất tiếng, tổng giám mục liền lật sang trang ba. Trùng hợp làm sao, vừa kịp lúc đọc xong trang trước. Lại một lần nữa, ông ta dừng lâu ở trang ba một cách bất thường.
Col nhìn sang Hyland, thấy khuôn mặt ngài ấy đã cứng lại vì giận.
Cuối cùng cậu mới nhận ra họ đã bị chơi khăm.
Tổng giám mục vốn nghi ngờ bản dịch là tài liệu kích động nổi loạn, nên để chứng minh trong sạch, họ buộc ông ta phải đọc. Thế nhưng, đối với ông ta thì chẳng cần phải làm vậy. Người sẽ chịu mất mát nếu thương lượng thất bại là Hyland.
Dù họ có yêu cầu đọc nhanh hơn cũng chẳng ích gì, thậm chí nếu nổi nóng đứng dậy bỏ đi thì cũng là điều ông ta mong muốn. Đây đã không còn là đàm phán nữa, bởi tổng giám mục vốn không định nghe từ đầu. Lời Hyland quá chuẩn xác—họ chẳng ngồi trên chiếc ghế đó nhờ giáo lý mà nhờ lọc lõi xã hội.
Phòng họp lặng như tờ nhưng bầu không khí đầy áp lực. Khí chất quý tộc của Hyland không hề lay chuyển, ngài ấy tỳ một tay lên bàn, nhìn chăm chăm vào tổng giám mục. Cứ như thể ngài ấy đang nhìn vào một con chuột mà chỉ cần lơ đãng là sẽ chạy mất.
Nhưng Col không biết làm gì để phá thế bế tắc này. Cậu không tin tổng giám mục sẽ đọc hết. Họ cũng không thể yêu cầu ông ta làm vậy. Họ không thể đứng lên. Họ đã hoàn toàn bị mắc bẫy.
Col nhớ lại thất bại ở Lenos. Tổng giám mục ở đó chắc cũng dùng đúng chiêu này với Hyland. Vị trữ quân trẻ tuổi này có thể sánh ngang cậu về lý luận thần học, nhưng cũng như cậu, đều chẳng quen thuộc với sự cay độc của xã hội.
Nghĩ tới đó, cậu thấy vừa xấu hổ vừa tức tối vì mình chẳng giúp gì được.
Khi cậu dần tự hỏi không biết đã bao lâu trôi qua, thì bên ngoài phòng họp vang lên tiếng chuông nhà thờ. Có vẻ như tiếng chuông ở tháp báo hiệu đã tới giờ trưa. Điều đó khiến Col nhận ra, dù bên trong phòng có bế tắc tới đâu thì ngoài kia, cuộc sống vẫn trôi. Thời gian vẫn trôi đi. Cậu tự hỏi liệu Hyland có đang đặt cược vào dòng chảy ấy không.
Khi màn đêm buông xuống, thời khắc thô tục và bạo lực sẽ lại tới. Đám đàn ông say xỉn lại khoác áo giáo sĩ cho chó và nhạo báng quyền uy. Trong lúc đó, những thương nhân trông có vẻ lý trí sẽ vừa gặm đùi gà vừa cầm đoạn bản dịch Kinh Thánh, lại buông lời mỉa mai Giáo hội.
Và dù vậy, các người ghi chép vẫn sẽ miệt mài chép bản dịch ở thương điếm Debau để phân phát khắp nơi. Những ai sáng suốt sẽ đọc và nhận ra chẳng có gì chính nghĩa trong sự chuyên chế của Giáo hội. Có lẽ rồi họ sẽ ném trứng, không chỉ vào cửa sau, mà thẳng vào cổng chính nhà thờ. Một khi dân chúng vùng lên sửa lại sai trái của Giáo hội, Hyland sẽ đợi thời cơ thích hợp để tung ra con bài quyết định trên bàn thương lượng.
Rồi, khi nghĩ theo hướng đó, Col bắt đầu nhận ra ý đồ của tổng giám mục. Rất có thể ông ta đang đặt cược vào điều hoàn toàn ngược lại.
Theo tất cả những gì Myuri nghe được khi làm những công việc lặt vặt cho thương hội, đám công nhân ồn ào kia thực ra chỉ gây rối vì… thích thế thôi. Không liên quan gì đến sự công chính của đức tin hay chuyện bị thuế thập phân đè nặng. Những rắc rối ấy chỉ là mốt nhất thời, và nếu chẳng có gì xảy ra, có thể hình dung rằng sự chú ý của họ cũng sẽ chuyển sang chuyện khác ngay thôi.
Mùa đông đang dần nhường chỗ cho mùa xuân, và giai đoạn bận rộn nhất trong năm cũng nhanh chóng tới gần. Điều đó quá rõ ràng, bởi số lượng người tới thương hội Debau để xin thỉnh nguyện ngày một nhiều. Chẳng mấy chốc, lịch sẽ dày đặc các lễ hội mùa xuân và nghi lễ tôn giáo, vậy nên tổng giám mục sẽ phải chạy đôn chạy đáo lo hết những việc ấy với tư cách nhiệm vụ tôn giáo, và ông ta sẽ chẳng thiếu lý do để trì hoãn các cuộc thương lượng với Hyland.
Công việc tôn giáo giống như muối vậy—sự hiện diện của Giáo hội là điều không thể thiếu trong đời sống thường nhật, đặc biệt là vào những thời khắc giao mùa và những sự kiện trọng đại của đời người. Nếu mục tiêu của Hyland chẳng may cản trở công việc này, thì những người ghét ngài ấy chắc chắn sẽ xuất hiện. Lý do khiến dân Winfiel phải chịu khổ bấy lâu vốn cũng là do việc ngừng các nghi lễ tôn giáo mà ra.
Liệu người dân sẽ là những người đầu tiên cất tiếng phẫn nộ, hay họ sẽ sớm quay lại với đời sống thường ngày?
Col lặng thinh suy nghĩ trong bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt ấy. Đây là một cuộc chiến về niềm tin đối với thế giới của cậu. Người dân sẽ nhận ra điều đúng đắn và đứng lên vì nó. Ít nhất thì, đó là điều mà cậu và Hyland đều tin tưởng.
Lạy Chúa, cậu lặng lẽ cầu nguyện.
Nhưng cậu cũng không biết có đúng không khi cầu nguyện rằng tổng giám mục, một đầy tớ của Chúa, đã sai. Trời đất như đảo lộn, và cậu choáng váng. Như lời viên thuyền trưởng từng nói, dòng sông chẳng bao giờ chảy thẳng.
Dù người ta có nói đó là bản chất của cuộc đời, thì cuộc sống bình dị ở Nyohhira vẫn dường như xa xôi ngoài tầm với.
Thời gian trôi chậm chạp, đau đớn đến mức như bào mòn từng chút một. Hyland và tổng giám mục đều không lên tiếng, nên chẳng ai nhắc tới chuyện ăn trưa. Thời gian cứ thế trôi, ánh sáng hắt xuống qua giếng trời cao giờ đã chuyển sang phía bên kia phòng so với lúc họ mới bước vào.
Chân và lưng dưới của Col bắt đầu đau nhức, mà hẳn ai ở đó cũng cảm thấy như vậy. Không chỉ những người phải đứng, mà cả những người ngồi cũng thế. Chỉ ngồi trên ghế thôi cũng làm thân thể mỏi nhừ. Các đức ông lớn tuổi thì mệt lả trông thấy rõ. Ngược lại, phe Hyland toàn người trẻ, kể cả chính ngài ấy. Đám thị thần phía sau dàn đức ông cũng còn trẻ, nhưng rõ ràng phía Hyland nắm lợi thế trong cuộc đấu sức bền này.
Người mà Col lo nhất là cô bé Myuri, nhưng cô bé vốn đủ sức chạy nhảy khắp núi rừng nên vẫn cầm cự được. Nhưng nghĩ tới chuyện biết đâu ngày mai cô bé không đi nữa thì suýt nữa khiến cậu bật cười.
Cuối cùng, ánh sáng xuyên qua giếng trời càng lúc càng dài, màu sắc cũng đậm dần lên. Khi Col nhận ra có lẽ ai nấy đều đang nghĩ về một ngày sắp kết thúc, thì một tiếng động lớn vang lên khắp phòng. Một đưc ông già ngã úp mặt xuống bàn.
“Cha!”
Đám thị thầnvội vàng xúm lại, dìu ông ta ra ngoài. Cánh cửa phòng họp mở ra, giống như một con đập vừa bị phá vỡ, sự căng thẳng trong phòng cũng tan biến theo.
Tổng giám mục chứng kiến diễn biến ấy, rồi ngước mắt khỏi tập bản thảo, cất lời:
“Chúng ta không thể tiếp tục cuộc họp kiểu này. Ta chưa đọc xong bản dịch, vậy hãy tạm hoãn lại đến ngày mai.”
Không chỉ các đức ông mới thở phào nhẹ nhõm. Ngay cả đám tuỳ tùng của Hyland, kể cả Col, cũng đồng loạt thở ra, như vừa thoát khỏi cơn nín thở.
Nhưng rồi—
“Đêm còn dài, ta sẽ đợi cho tới khi Đức Tổng đọc xong,” Hyland dõng dạc tuyên bố. Khuôn mặt tổng giám mục bỗng căng thẳng, những lời sắp nói nghẹn lại trong cổ. Các đức ông phía ông ta, gần như theo phản xạ, đều ngoảnh lại nhìn ông để chờ chỉ đạo.
Sự ngưỡng mộ dâng trào trong lòng Col. Hyland rõ ràng không phải dạng quý tộc viển vông.
Ngài ấy đã chờ đợi cả buổi chỉ để đón đúng khoảnh khắc đối phương lơi lỏng.
Hyland nhìn chằm chằm tổng giám mục, như muốn tuyên bố rằng ngài ấy sẽ bám theo đến cùng, kể cả xuống địa ngục, quyết không nhượng bộ. Hiểu ra điều đó, tổng giám mục đơ người ra.
Tuy nhiên, nhóm đức ông dưới quyền ông ta đã kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần. Hơn nữa, họ vừa thả lỏng trong khoảnh khắc tưởng như mọi chuyện đã xong xuôi. Giờ thì việc lấy lại tinh thần là bất khả thi. Cục diện đã xoay chuyển.
Có lẽ tổng giám mục đã đánh giá thấp Hyland. Dù là một quý tộc trẻ lớn lên trong nhung lụa, nét mặt còn phảng phất vẻ thư sinh yếu đuối, nhưng ngài ấy lại có sự bền bỉ mà thợ săn phải kính nể, lại pha chút ranh mãnh của thương nhân biết gài bẫy đối thủ.
“Ư… Guh…”
Tổng giám mục vã mồ hôi, rên rỉ nặng nhọc, nhưng ông ta cũng là một người xứng đáng với chiếc ghế quyền lực của mình.
“Đúng… Đúng là vậy. Không nên để mọi việc dở dang.”
Ông ta nhìn Hyland bằng ánh mắt sắc lạnh, như thể muốn lôi ngài ấy cùng xuống mồ. Nhóm đức ông thì mặt mũi chán chường, nhưng không ai dám phản đối.
Rồi, sau khi cân nhắc tình hình, Hyland lên tiếng:
“Nhưng trước hết, sao chúng ta không ăn một chút gì đã?”
Col thoáng nghĩ đó sẽ là dịp để đối phương hồi sức, nhưng khi nhìn sắc mặt mọi người, cậu hiểu ra ngay.
Họ đã thực sự nghiêng cảm tình về phía Hyland. Ngài ấy là người cứu tinh trong mắt họ lúc này.
Tổng giám mục nhận ra mình đã bị qua mặt, đành gật đầu khổ sở.
“Ư… Vậy thì, mang bánh mì và nước uống lên đây. Các quầy hàng ngoài phố chắc vẫn còn mở.”
Đám thị thần cúi đầu rồi cùng nhau rời khỏi phòng họp. Hyland quay lại phía Col, nở nụ cười nhẹ nhõm:
“Ngài cũng đi giúp một tay đi.”
Rõ ràng ngài ấy không xem họ như người hầu, mà thực chất là tạo cơ hội cho họ được vận động, thư giãn, dưới hình thức một mệnh lệnh.
Thế nhưng, trong cuộc chiến thể lực này, các thị vệ của Hyland nhất quyết không rời chủ nhân và đáp lại, “Xin phép được ở lại phục vụ.” Nếu chủ nhân chịu đau thì họ cũng vậy.
“Thôi được, những người còn lại thì chuẩn bị bữa ăn đi.”
Phải đứng im cả ngày, Col thấy đầu gối và lưng mình như rời ra. Myuri cũng mỏi chân, nên Col đỡ cô bé đứng dậy.
“Em ổn chứ?”
“…Em muốn đi tắm quá.”
“Anh cũng vậy,” cậu cười nhẹ đáp lại. Ngoài phòng họp, mọi người đều tranh thủ co duỗi chân tay. Không còn bạn hay thù gì trong những động tác ấy, tất cả cùng cảm thông với nhau. Dù vẫn có chút xa cách giữa nhóm thị thần và tuỳ tùng của Hyland, nhưng ai nấy đều cùng chung cảnh ngộ.
Tuy nhiên, có vẻ họ không muốn để ai thấy mình đi chợ cùng nhau, nên thị đồng thì ra cửa sau, còn tuỳ tùng của Hyland thì dùng cổng trước. Col và Myuri cũng phải tự mua đồ ăn cho mình, nhưng chân Myuri đau quá nên hai người quyết định nghỉ ở góc hành lang.
“Kinh khủng thật,” Myuri ngồi trên chồng thùng gỗ, nói với một nụ cười.
“Cái gã tóc vàng đó đúng là thâm hiểm.”
Col theo thói quen nhìn quanh, nhưng không có ai cả. Nhóm linh mục phụ tá thì chắc giờ đang tụ tập ở đại sảnh làm lễ tối. Cậu cảm nhận được một nét tôn trọng trong lời nói ấy của Myuri—như thể cô bé đang thán phục.
“Nếu là anh, anh trai, thì chắc đã bỏ cuộc trước khi ông già kia đọc tới trang thứ ba rồi nhỉ.”
Và chẳng thèm bận tâm đến cảm xúc của nhóm linh mục dưới quyền đang đặt lên vai mình luôn. Chuyện này là bất khả thi và nằm ngoài phạm trù.
“Nhưng mấy người đó đang toan tính gì vậy?” Myuri tiếp lời.
Cậu bận tâm hơn về việc mấy người đó chính xác là ai, thay vì cách nói có phần cay độc của cô bé.
“Mấy người đó?”
“Cả gã tóc vàng lẫn ông già kia. Ai cũng có cơ thắng cả.”
“Anh cũng nghĩ vậy.”
Hyland đang chờ người dân nổi giận, còn tổng giám mục thì đợi khi mọi người thôi quan tâm đến cuộc chiến này. Col kể lại nhận định ấy cho Myuri, cô bé liền tặc lưỡi ngao ngán.
“Thấy chưa, anh trai, vì thế mà anh không khá lên được đấy.”
“S-sao lại không khá?”
Myuri nhấc chân lên thùng, chống cằm lên đầu gối, trông hệt như thủ lĩnh một đám nhóc sắp bàn kế đánh bại bọn trẻ làng bên.
“Anh bắn cung giỏi, lại cứng đầu, nên hợp với kiểu đi săn nai bằng cung tên. Nhưng săn bằng bẫy thì anh dở lắm.”
Col chẳng hiểu cô bé nói gì, nhưng đúng là cậu từng lên núi săn nai với cung tên. Đám thợ săn đều khen ngợi thành quả của cậu. Tuy nhiên, khi Myuri lên núi đặt bẫy, họ lại bực mình vì cho là cô bé xâm phạm lãnh địa, bởi chỉ trong thời gian ngắn, cô bé đã bẫy được cả đống sóc, thỏ đủ bán lấy da mà sống.
“Đi săn bằng bẫy thì phải thật thâm hiểm.”
“…Thâm hiểm?”
“Anh phải bày đủ loại bẫy, rồi tạo ra con đường buộc con mồi phải tự đâm đầu vào.”
Myuri là bậc thầy khoản đó, còn Col thì không. Cậu chẳng biết đường đi lối về của sóc, thỏ ra sao, chẳng thể nhìn bao quát toàn cục như cô bé.
“Bởi vì anh hiền lành, ngay thẳng.”
Myuri cười.
“Còn gã tóc vàng kia chắc chắn đang tính nước, bởi vì rõ ràng ông già đó giờ chẳng còn ai để dựa vào. Chiến thuật la hét hôm qua khiến ông ta bất ngờ đấy, nhớ không? Đó là kiểu của thợ săn bẫy, không thể nào chỉ ngẫu nhiên mà thành.”
“Thế còn…” Col hỏi, Myuri nhún vai.
“Gã tóc vàng biết rằng phải cần một cú hích thật sự, chứ không thể chỉ trông vào một nghị quyết nửa vời để lật ngược thế cờ, khiến ông già kia bỏ cuộc. Nếu không phải hôm nay thì cũng là ngày mai thôi.”
Đúng lúc đó, ký ức Col lại quay về với đêm tối hôm đó.
“Không… thể nào.”
Có lẽ mọi sự hỗn loạn, ác ý bừng bừng kia vốn không phải tự nhiên mà thành.
Hyland mà lại có thể làm ra chuyện đó—rằng ngài ấy sẵn sàng hạ thấp uy quyền của Giáo hội.
Col bỗng thấy choáng váng, không nói thành lời, còn Myuri chỉ nhìn cậu với ánh mắt buồn bã.
“Dù anh có tốt với đời đến đâu, thì đời cũng chẳng nhất thiết phải tốt lại với anh.”
Vẻ mặt của cô bé lúc này y hệt như khi Col tết tóc cho Myuri trước tấm bản đồ thế giới. Hồi đó, cô bé cố che giấu đôi tai sói, cái đuôi, và cả việc mình là con gái. Dù có tò mò thế giới ngoài kia tới đâu, cô bé cũng thừa biết, cuộc đời sẽ chẳng đối xử dịu dàng gì với mình.
Myuri đã nhận ra điều đó từ nhiều năm trước, khi cô bé còn rất nhỏ.
“Gã tóc vàng biết rõ chỉ vài ngày nữa thôi, cả thị trấn sẽ rối loạn—vậy nên mới tự tin như thế. Nhưng mà, anh này…”
Myuri nhìn thẳng vào Col.
“Như vậy thì kỳ lắm.”
“Kỳ? Còn gì có thể hơn thế nữa chứ…?”
“Anh cũng nhớ mà, đúng không? Làm người ta nổi giận thì dễ, chứ dỗ họ nguôi ngoai lại khó vô cùng.”
Myuri đột ngột nhếch mép tinh quái, Col cũng cười khổ đáp lại. Cậu nhớ rõ đã từng khổ sở thế nào mỗi khi làm cô bé giận dỗi ngày trước.
“Đúng là… thế thật.”
“Nhưng em không nghĩ ông già đó lại không có kế gì đâu. Chắc chắn ông ta cũng phải có thứ gì trong tay. Chỉ là em không đoán nổi thôi. Kế của anh thì dễ dãi quá, như kiểu đi câu cá mà không thèm móc mồi, cứ ngồi đợi may ra có con nào tự lao vào lưỡi câu vậy. Cho nên ông ta nhất định cũng sẽ chuẩn bị một chiến lược để đối phó đám dân điên cuồng ngoài kia.”
Nghe Myuri nói thế, Col cũng thấy hợp lý.
Cả tổng giám mục lẫn Hyland đều đang gánh những trọng trách rất lớn, không đời nào họ lại cam chịu khoanh tay đứng nhìn. Cậu không muốn tin rằng Hyland lại thật sự xúi giục dân chúng gây ra bầu không khí u ám ấy chỉ vì mục đích chiến lược, nhưng suy xét về lý thì lại hoàn toàn hợp logic. Vậy còn tổng giám mục thì sao? Ông ta đang đợi điều gì?
“Nếu chúng ta đoán ra được kế của tổng giám mục, thì có thể giúp được cho Trữ quân Hyland…”
“Nhưng mà, em nghĩ chắc anh sẽ không đoán nổi đâu.”
Col nhăn mặt, Myuri lại bảo, “Ý em là anh hiền lành quá mà.” Câu đó lại chẳng làm cạu thấy vui hơn. Sau một hồi trêu chọc, cô bé đứng dậy, đôi chân đã hết mỏi, rồi nắm lấy tay cậu.
“Em đói rồi.”
“Rồi rồi, đi thôi.”
Hai người ra quảng trường lấy đồ ăn, mà cả đồ ăn lẫn hơi thở dường như cũng nghẹn lại nếu họ cố ăn ngay trong phòng họp, nên hai người tranh thủ ăn ở góc sân bên hông nhà thờ. Dù còn sớm để gọi là đêm, bầu trời đã chuyển sang màu đỏ son, không khí thư thái của những người vừa kết thúc công việc cũng bao trùm lên thị trấn. Những quầy hàng sốt ruột đã bắt đầu dọn dẹp, còn các quán rượu thì nhóm lửa bên ngoài, chuẩn bị bàn ghế và châm nến lên.
Nhưng chỉ cần mặt trời lặn, bầu không khí trong thị trấn sẽ thay đổi hoàn toàn. Khi ánh sáng ban ngày ấm áp, rộn rã nhường chỗ cho màn đêm lạnh lẽo, hỗn loạn chỉ còn ánh đuốc lập lòe. Có vẻ như Hyland sẽ không rời đi khi trời tối, nên trận chiến thực sự sẽ chỉ bắt đầu khi đêm xuống.
“Ăn xong chưa?”
Myuri gật đầu, vừa liếm ngón tay cái.
“Có mệt thì cứ lặng lẽ đi ra ngoài nghỉ nhé,” Col nhắc, và Myuri nhún vai, tỏ ra tinh quái.
“Anh cũng nhớ đừng có ngã quỵ mỗi khi bị ai đó nói nặng một câu nhé anh.”
Với cái thái độ ấy, cô bé chắc chắn sẽ ổn thôi.
Sau đó, cả hai quay lại nhà thờ, nhân danh những lời dạy đúng đắn của Chúa.
Khi quay lại phòng họp, bầu không khí đã dịu đi, có lẽ nhờ bữa ăn giữa buổi. Vị đức ông già vừa ngất vẫn còn xanh xao nhưng đã ngồi vào chỗ. Hầu hết các thị thần của phía linh mục đều đã có mặt, Col và Myuri có phần bối rối khi bước vào phòng, vì họ thuộc nhóm đến sau cùng.
Nhưng khi Col thấy tổng giám mục đang lật từng trang bản thảo, đọc tiếp phần còn lại, cậu không khỏi sửng sốt. Không lẽ nào ông ta bị cuốn hút vào lời dạy trong bản dịch đến mức không dừng lại được? Hợp lý hơn là ông ta đang tính chuyển sang bước tiếp theo để tránh cho các linh mục thuộc hạ cảm thấy bị cô lập sau màn đấu sức bền vừa rồi.
Vấn đề là kế hoạch ấy là gì.
Chiến lược của Hyland là lợi dụng thái độ của người dân. Cậu không muốn tin như Myuri nói, rằng chính Hyland đang trực tiếp xúi giục đám đông, nhưng rõ ràng là ngài ấy có động lực để làm vậy. Khi màn đêm buông xuống, tổng giám mục sẽ là người phải nhượng bộ trước bầu không khí do những người lạm dụng danh nghĩa Giáo hội ngoài quảng trường tạo ra.
Vậy tổng giám mục thực sự nhắm tới điều gì?
Dù thế nào thì cũng không thể phủ nhận, ai trong phòng này cũng đang ra sức đấu trí lẫn nhau. Không biết các thiên thần được vẽ trên tường kia nghĩ gì khi nhìn xuống cảnh tượng này? Có lẽ đã quá muộn để can thiệp điều gì rồi.
Trong khi Col đang suy nghĩ, đám thị thần của phía linh mục bắt đầu đảo mắt quanh phòng, đếm số người rồi đóng chặt cửa phòng họp, như thể đậy nắp một cái nồi, ngăn không cho hơi độc thoát ra ngoài.
Mọi thứ lại rơi vào im lặng, tổng giám mục tiếp tục đọc, không chỉ lướt mắt trên dòng chữ, mà rõ ràng đang đọc rất kỹ. Với tư cách là một trong những người dịch, Col thấy hồi hộp cực độ. Không biết ông ta đang đọc đến đoạn nào? Nghĩ gì về bản dịch này? Có điểm nào hữu ích với thực tế không?
Col nhận ra, tham vọng là thứ không dễ dập tắt.
Cuối cùng, cậu cũng phần nào hiểu được tâm trạng của các vị tổng giám mục đang cố bám víu vào đặc quyền trong ngôi thánh đường nguy nga này, bất chấp mọi lời dị nghị, bất kể có đi xa khỏi giáo lý của Chúa đến đâu.
Ý nghĩ của Col thì chẳng thể nào tới được vị giáo sĩ già kia, nhưng tổng giám mục đột ngột dừng mắt lại ở một đoạn trong tập bản thảo. Ông ta lần ngược lại dòng trước đó, như thể vừa phát hiện điều gì đó, rồi đọc đi đọc lại.
Rõ ràng từ cách ông ta đưa nó cho vị linh mục bên cạnh cùng xem, đây chẳng phải là chiêu trò câu giờ. Vị linh mục ấy nhìn vào đoạn được chỉ, trợn tròn mắt, rồi truyền tiếp cho người kế bên.
Col khao khát được biết họ đang bàn về đoạn nào, tại sao lại như vậy.
Căn cứ vào vị trí trong xấp bản thảo, không nghi ngờ gì, đó là phần do cậu dịch.
Cậu kiễng chân, rướn người ra trước, cố liếc xem họ đang chuyền đoạn nào. Và khi cậu thoáng thấy nội dung trang bản thảo được đẩy qua mặt bàn, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Đó rõ ràng là nét chữ của cậu. Cậu nuốt nước bọt, ý thức rõ ràng rằng những người có địa vị, quyền lực đang đọc từng lời cậu viết.
Một cảm giác phấn khích kỳ lạ tràn ngập trong cậu, khiến đôi chân Col bất giác nhích tới trước. Myuri kéo áo cậu lại, giẫm lên chân cậu, còn ngài Hyland thì khẽ mỉm cười nhìn qua vai.
Cậu có cảm giác mình như đứa trẻ duy nhất trong phòng này.
Bản thảo được chuyền hết vòng, rồi quay lại tay tổng giám mục.
Ông ta cẩn thận đặt nó lên xấp giấy khác, rồi khẽ hắng giọng.
“Ta rất ngạc nhiên khi đây lại là bản dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ thông dụng đầu tiên được cả thế giới biết đến.”
Tất cả mọi người trong phòng đều hiểu, đây không chỉ là một lời bình.
Hyland đáp lại bằng giọng trang trọng. “Chúng tôi mong ít nhất cũng có một phần dân chúng trên thế giới được biết đến lời dạy của Chúa. Chắc hẳn ngài đã nhận ra, bản dịch này không nhằm kích động dân chúng nổi loạn.”
Tổng giám mục từ tốn gật đầu.
“Ta xin hỏi, ai là người dịch phần này? Một nhà thần học lừng danh của Vương quốc Winfiel chăng?”
Ngay khoảnh khắc đó, cậu nhận ra mái tóc buộc đơn giản của cô bé Myuri phía sau cũng bỗng dựng cả lên như lúc chiếc đuôi sói của cô bé vểnh thẳng. Không thể nhầm, nét chữ trên bản thảo vừa trượt ngang mặt bàn kia là của cậu. Đó là đoạn do chính cậu dịch.
“Không, chính học giả trẻ tuổi này là người đã dịch đoạn mà Đức Tổng đang cầm.”
Hyland giới thiệu, và Col cố ưỡn thẳng lưng và ngước cao đầu. Không thể nào đối diện hết ánh mắt của các đức ông, nên cậu chỉ biết nhìn lên phù hiệu Giáo hội treo trên tường phía trước, như thể Chúa đang chứng giám cho mọi nỗ lực học hỏi của cậu nay được trao cho nhân loại.
“Ra vậy. Và chính điện hạ là người đã giao cho học giả trẻ này dịch sao?”
“Đúng vậy. Chúng ta, những người Winfiel, không muốn giữ riêng lời dạy của Chúa cho mình, và chắc chắn Chúa cũng không mong thế.”
Một đòn công khai, nhưng tổng giám mục chỉ lặng lẽ bỏ qua.
“Ừm. Nếu đây là kết quả của sự cân nhắc kỹ càng từ Trữ quân Hyland, và rộng hơn là của Vương quốc Winfiel, thì cũng đành vậy.”
Tổng giám mục nghe như đang tỏ ra cảm kích, nhưng Col không tài nào hiểu nổi ý nghĩa câu nói ấy.
Cậu chỉ vừa đủ nhìn thấy sắc mặt Hyland phía trước, vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, nên có lẽ ngài ấy phải hiểu mới phải.
Vừa lúc đó, một câu hỏi nghiêm nghị vang lên từ miệng tổng giám mục.
“Vậy, ta có thể xem những gì viết ở đây là trách nhiệm của Trữ quân Hyland và của Vương quốc Winfiel được chứ?”
Có điều gì đó không ổn trong tình hình này.
Hyland dường như cũng bất ngờ vì hành động của tổng giám mục đã vượt xa dự liệu.
Chỉ có một lý do để ông ta nói ra điều ấy sau khi chuyền bản thảo khắp bàn. Bởi việc dịch lại lời lẽ và cụm từ trong kinh thánh đồng nghĩa với việc gán cho nó một ý nghĩa nhất định. Tuy nhiên, theo nhận định của Hyland, tổng giám mục Atiph có lẽ chưa bao giờ thật sự đọc kỹ nó. Chẳng lẽ ông ta định kiểm tra họ về giáo lý thật sao?
Cậu tự hỏi liệu có lỗi sai hiển nhiên nào không, nhưng lại tự nhủ—không. Cậu đã rà soát đi rà soát lại không biết bao nhiêu lần, không thể có lỗ hổng dễ bị công kích được.
Một thị thần mang bản thảo lại cho Hyland. Ở khoảng cách gần thế này, Col dễ dàng nhận ra đó là phần do mình viết, đúng đoạn mà đấng tiên tri ca ngợi Chúa, hoàn toàn không có gì ẩn dụ hay dễ gây tranh cãi.
Hyland cũng nhận ra đoạn nào ngay lập tức, trao lại cho Col mà chẳng cần đọc thêm dòng nào.
“Có vấn đề gì ở đây sao?”
Col nhận bản thảo, bắt đầu đọc lại từng dòng. Đúng như dự đoán, không hề có lỗi nào.
Vừa đọc lại chữ mình viết, ký ức về sự phấn khích, niềm vui xen lẫn cơn buồn ngủ giữa đêm và đau lưng khi chép từng chữ lại ùa về.
Nhưng Myuri kéo áo cậu.
Cô bé nhìn vào bản thảo, không phải nhìn chữ mà nhìn vào cả tờ giấy.
“Đây…”
Myuri bắt đầu lên tiếng, nhưng tổng giám mục cũng vừa cất lời.
“Dòng thứ tư từ dưới lên—chẳng phải trong nguyên bản là một đoạn cảm động, lặp đi lặp lại những lời ca ngợi Chúa đó sao?”
Dòng thứ tư từ dưới lên ư?
Cậu bắt đầu lần ngược lại để đọc.
Và cậu không kiềm được, bật thành tiếng.
“Cái gì?”
Cậu có thể cảm nhận Hyland đang ngoái lại nhìn mình, nhưng đó không phải điều làm cậu bận tâm lúc này. Cậu không thể tin nổi vào mắt mình. Đầu óc chao đảo, một cơn buồn nôn dâng lên trong cổ họng cậu.
Chuyện gì thế này?
“Col, có chuyện gì vậy?”
Cậu thậm chí không nhúc nhích nổi ánh mắt. Hyland bật dậy khỏi ghế, giật lấy tờ bản thảo từ tay cậu. Nhưng rồi ngay lập tức, ngài ấy cũng khựng lại, kinh ngạc nhìn lên. Người thanh niên đã chịu đựng thử thách khắc nghiệt cả ngày không chút lay động ấy giờ đây run rẩy toàn thân.
Nhưng ngài ấy không nhìn Col—mà nhìn về phía tổng giám mục.
“Không… Sao lại… Bằng cách nào mà…?”
Chính câu nói ấy đã cứu cậu. Đúng vậy—bằng cách nào?
Không thể nào lại là lỗi của mình được. Đoạn kinh văn lẽ ra phải là lời ca ngợi Chúa thì giờ lại miêu tả ngài ấy như một con lợn, mọi sự khôn ngoan đều bị thay bằng tiếng lợn kêu éc éc.
“Không có gì đáng ngạc nhiên cả; nét chữ vẫn giống hệt nhau. Không thể nhầm lẫn rằng vị học giả trẻ kia đã viết những dòng này dưới sự bảo trợ của ngài.”
Trước lời của tổng giám mục, Hyland cúi xuống nhìn bản thảo trong tay với vẻ đau đớn. Đúng là chữ viết hoàn toàn trùng khớp.
Nó giống Col đến rợn người.
Chỉ có thể tưởng tượng như có một con quỷ nào đó lẻn vào phòng lúc đêm khuya, thoải mái viết ra những điều ấy.
Và rồi—
“Anh trai, nó có mùi giống của mấy người chép văn.”
Khi Myuri thì thầm như vậy, Col lập tức hiểu ra tất cả.
Cậu đã nhờ ba người chép lại các bản sao. Một trong số họ không biết đọc. Nhưng chính điều đó lại đồng nghĩa anh ta là một người chép lành nghề. Vì sao? Vì với họ, chữ viết chỉ như hình vẽ, chép sao cho giống y nguyên là được coi là xuất sắc.
Mà với kỹ năng tái hiện bất kỳ chữ nào như thế, chỉ cần tráo đổi một vài từ thôi, họ có thể làm giả bất cứ gì. Một con sói có thể ẩn mình dưới lớp da cừu. Ai đó đã lẻn vào phòng Col và Myuri. Tất cả đều là một phần của kế hoạch. Lời cảnh báo của Myuri hoàn toàn đúng.
Col chỉ biết tự trách mình đã không kiểm tra kỹ càng hơn, nhưng giờ thì đã muộn.
“Người đáng trách chỉ là kẻ sử dụng thủ đoạn đê tiện như vậy thôi, Col.”
Chính lúc đó, Hyland lên tiếng gọi Col. Ánh mắt hai người gặp nhau, và vị trữ quân trẻ tuổi gật đầu chắc nịch.
“Có thể có ai đó đã tráo bản thảo trong lúc chúng ta không chú ý, lúc nghỉ giữa chừng. Chúng ta đã không cảnh giác đủ.”
Nếu bản thảo bị tráo từ hôm trước thì khả năng bị phát hiện cao hơn nhiều. Nghĩ như vậy, giả thuyết của ngài Hyland trở nên hợp lý nhất.
Dù trong lòng vẫn nhói đau, nhưng Hyland đã giúp Col bình tĩnh lại để suy nghĩ rõ ràng hơn. Dù sao, đây không phải lúc để tự trách.
Dù đúng là họ đã bị lừa, Col vẫn tự hỏi liệu có ý nghĩa gì không khi dùng một trò gian trá rõ ràng đến mức lộ liễu như thế. Rõ ràng, với việc làm giả vốn chẳng khó, cãi nhau xem ai thực sự viết cũng chẳng ích gì. Hơn nữa, câu văn bị gài vào quá lộ liễu, có chủ đích quá mức.
Liệu đây chỉ là cách tổng giám mục cố kéo dài thời gian? Nhưng nếu tin đồn lan ra rằng họ đã tranh cãi về chuyện như thế, thay vì tin rằng Hyland cùng thuộc hạ như Col đã hóa rồ, dân chúng sẽ dễ tin tổng giám mục đã dùng mánh khóe bẩn thỉu hơn.
Cậu chỉ có thể tưởng tượng rằng chuyện này đã phản tác dụng hoàn toàn những gì tổng giám mục toan tính.
Giả như nó đã gây ra chuyện, thì chuyện ấy sẽ là…
Khi nghĩ tới câu trả lời, máu rút khỏi mặt cậu như thủy triều.
“Kẻ viết ra những dòng này…” Tổng giám mục cất cao giọng. “…Chẳng phải dễ bị kết tội dị giáo hay sao?”
“Cái gì?!”
Tiếng Hyland thét lên, và lập tức cửa phòng họp bật mở.
Quân lính của thành phố xếp hàng, dàn đội hình ngay trước cửa.
“Dừng lại! Các người bị nghi ngờ tạo ra, sở hữu và lưu truyền văn bản dị giáo bị cấm!”
“Không thể nào!”
Cứ như tín hiệu, các cận vệ của Hyland đưa tay về phía chuôi kiếm. Họ không rút ra, bởi nếu làm vậy trong thánh đường sẽ lập tức thành tội phản bội.
Tội danh dị giáo.
Lúc này Col đã hiểu tổng giám mục đang toan tính gì, nhưng vẫn còn điều chưa rõ. Đội quân bảo vệ thành phố không thể tự ý hành động nếu không có lệnh của hội đồng thành phố. Mà hội đồng tự do như Atiph toàn là các quý tộc và thương nhân lớn. Họ chẳng phải đã thể hiện ủng hộ Hyland rồi sao?
Nếu cậu không nhầm, chắc chắn vẫn còn một mảnh ghép cuối cùng.
Ngay lúc ấy, chìa khóa của mọi chuyện xuất hiện trước mặt quân lính.
“Ngài… Ngài là…”
Hyland nuốt khan, Col cũng không tin nổi vào mắt mình. Các linh mục và tổng giám mục đều đứng dậy, tay đặt lên ngực làm dấu thánh.
Một người đàn ông trung niên xuất hiện từ hàng lính, khoác trên mình tấm áo choàng trắng tinh, nổi bật là phù hiệu đỏ thắm của Giáo hội. Người khoác lên mình tấm áo này thì được ban đặc quyền đi lại an toàn ở bất cứ nơi nào, không bị bất cứ thế lực nào ngăn cản.
Bởi trên người đó chỉ có một thứ duy nhất tối thượng, đó là Lời của Chúa.
Và vì ông ta đi khắp nơi, được trao toàn quyền đại diện cho Giáo hoàng trên trần gian—người này chính là một Sứ Thần Tòa Thánh.
“Ta tuyên bố nhân danh Đức Giáo hoàng—”
Ông ta nói bằng giọng nặng nề, không chút dư thừa, rồi rút ra một tấm bản chỉ duy nhất.
“Chúng ta công nhận những tư tưởng của Vương quốc Winfiel là dị giáo, và mọi văn bản không do chính Thiên Chúa truyền giảng đều bị cấm. Giáo hoàng đời thứ một trăm mười bảy, Einmel Desir thứ Mười bốn đã ký.”
Từ xa Col không nhận ra được dấu niêm phong sáp có thật hay không.
Tuy nhiên, nếu Sứ Thần Tòa Thánh dám làm giả thánh chỉ chính thức, đối tượng bị điều tra đầu tiên sẽ là tổng giám mục.
Chắc chắn phải là thật.
“Mọi kẻ dưới quyền Hyland đều bị bắt giữ nhân danh Chúa.”
Quân lính tràn vào phòng. Cận vệ của Hyland hạ mình chuẩn bị phản kháng, nhưng ngài ấy vội vã ngăn lại bằng một cái phẩy tay. Không còn lựa chọn nào khác. Bọn họ bị áp đảo về quân số, mà nếu dám rút kiếm rồi thất bại, chẳng ai dám nghĩ thanh danh của Hyland sẽ nhuốm nhục nhã tới mức nào. Máu đích thực là kẻ kể chuyện tài năng nhất.
Khi lính mang dây thừng áp sát, Hyland lướt mắt rất nhanh đánh giá tình hình. Về mặt cảm xúc, họ vẫn đứng về phía ngài ấy, nhưng đã có lệnh của Sứ Thần Tòa Thánh thì chẳng còn cách nào khác.
Vẫn còn một cơ hội xoay chuyển.
Muốn vậy, họ phải giữ mình vô tội.
“Chúa luôn đứng về phía người công chính.”
Bị áp giải ra khỏi phòng, Hyland nói với tổng giám mục. Ông ta tránh ánh mắt Hyland, gương mặt căng thẳng, rồi đột ngột quay sang nở nụ cười lấy lòng với Sứ Thần Tòa Thánh.
Col và Myuri cũng bị quân lính áp tải ra bằng cửa sau, cùng tất cả mọi người bị nhốt lên xe ngựa.
Họ không bị dẫn qua cửa trước, vì sợ dân chúng nổi loạn nếu chứng kiến.
Đoàn xe đi khá lâu dù thị trấn không lớn. Đám lính cũng không giấu sự cảm thông của mình, họ xếp Col và Myuri vào cùng một xe, có lẽ vì cô bé cứ bám chặt lấy cậu suốt quãng đường. Cậu muốn nắm tay Myuri, nhưng tay cậu đã bị trói chặt sau lưng.
Bánh xe rung lắc. Col nhận ra mặt đường đã chuyển từ lát đá sang đường đất cứng từ lúc nào.
Khi mọi người cuối cùng cũng được xuống xe, xung quanh là những vườn cây ăn trái và cánh đồng.
“Chúng ta… bị đưa ra ngoài thành rồi sao?” Myuri hỏi khẽ. Khi Col nghĩ về tù nhân bị đưa tới nơi vắng vẻ, chỉ một điều hiện lên trong đầu. Nhưng nhìn quanh, Col vẫn thấy được tường thành phía sau hàng cây. Chắc họ sẽ không bị xử tử ngay trong thành phố.
“Đi.”
Đám lính kéo dây, đưa tất cả vòng qua xe ngựa, và Col thở phào nhẹ nhõm.
Họ đã tới trước một dinh thự lớn, loại không lạ gì ở các vùng quê, chắc thuộc sở hữu của một vị quý tộc thành phố.


0 Bình luận