Hôm sau, Col tỉnh dậy trước bình minh. Đó là thời điểm trong đêm khi mặt trăng vẫn còn sáng rõ và không khí miền núi lạnh đến tê buốt.
Mọi người xung quanh thường khen ngợi cậu là người chăm chỉ, không ngại dậy sớm, nhưng thực tế là cậu vẫn buồn ngủ. Với cậu, tất cả chỉ là hình thức. Khi cậu đang lướt qua trong đầu danh sách công việc cần làm hôm nay tại nhà tắm, thì bỗng cảm thấy có điều gì đó lạ lùng.
Bên ngoài, có thể nghe thấy tiếng nói chuyện và bước chân dẫm lên sỏi đá.
Và phía trên là một trần nhà xa lạ, cậu đang nằm trên một chiếc giường khác với thường ngày.
“…A.”
Cậu nhớ ra rằng mình đã lên đường đi du hành.
Rồi khi cậu vừa động đậy định ngồi dậy, thì nhận ra còn có một người nữa đang nằm trên giường. Chính là Myuri, chỉ khi ngủ mới trở nên ngoan ngoãn. Tối qua cậu đã để cô bé ngủ ở chiếc giường bên kia, hẳn là cô đã tự mình đổi chỗ trong đêm.
Hơi ấm từ cơ thể và chiếc đuôi xù lông của cô bé khiến dưới chăn nóng hẳn lên.
Tối qua hai người đã cãi nhau chuyện này chuyện kia, và lý do khiến Myuri muốn lên đường cùng cậu có lẽ chỉ đơn giản là vì cô bé cảm thấy chán ngán ngôi làng. Tuy không hoàn toàn thoải mái, nhưng sự lo lắng của cô bé dành cho cậu là có thật.
Mái tóc bạc của cô bé dù không bị ướt hay bôi dầu nhưng vẫn trông như ẩm nhẹ một cách lạ kỳ. Nếu đưa tay luồn qua, các sợi tóc sẽ trượt qua kẽ tay một cách mềm mượt. Holo luôn tự hào về bộ lông đuôi óng ả của mình, còn Myuri lại tự hào về màu tóc bạc mà cô bé thừa hưởng từ cha.
Được cậu vuốt nhẹ mái đầu, đôi tai thú của cô bé khẽ giật, nhưng vẫn không có dấu hiệu tỉnh lại. Có lẽ dù có lắc vai cô bé mạnh đến đâu thì cũng chẳng dậy nổi. Cậu khẽ mỉm cười rồi nhẹ nhàng rời khỏi chăn.
Cậu mở cửa sổ, bên ngoài lạnh đến mức có thể nhìn thấy hơi thở bốc khói, dù trời không có tuyết hay gió.
Ở quảng trường phía trước, nơi đêm qua còn ồn ào náo nhiệt, đã có người qua lại, cùng với các bãi sông phía xa. Chắc họ đang đi ra chợ sớm ở các thị trấn ven sông.
Cậu đóng cửa chớp, khoác áo, cầm theo quyển Kinh Thánh và xuống tầng một. Giếng nước sau nhà đã có người đập tan lớp băng trên mặt, nên cậu múc nước vào thau, rửa mặt và đánh răng bằng đầu cành cây nghiền dập, rồi thực hiện bài đọc sách hằng ngày. Trong lúc ấy, vài vị khách khác cũng đến rửa mặt. Họ tiện thể cúi đầu lắng nghe lời tụng như để cầu mong được bảo hộ trên đường đi. Đây như một kiểu hứng mưa bằng chậu, nhưng cậu không ghét cái kiểu thực dụng thẳng thắn ấy của thương nhân.
Vấn đề là, dù cậu tụng kinh lâu hơn bình thường, mặt trời vẫn chưa mọc và sau đó cậu cũng chẳng còn việc gì để làm. Cảm giác buồn chán khiến cậu có chút bối rối.
Cuối cùng, để khỏi lãng phí thời gian, cậu đi đến bờ sông giúp người ta bốc dỡ hàng hóa. Khi bầu trời bắt đầu sáng lên, cậu quay lại phòng.
“Anh làm việc nhiều quá đấy, anh trai…”
Cuối cùng cậu cũng lay được một Myuri có thể ngủ xuyên qua mọi ồn ào dậy, và khi Col kể lại tất cả những việc mình đã làm từ sáng tới giờ, cô bé liền càm ràm về cái sự sốt sắng quá mức của cậu.
Dù cô bé ngồi dậy thẳng lưng, đôi mắt vẫn nhắm tịt vì còn buồn ngủ. Cô bé ôm đuôi để giữ ấm rồi ngáp dài.
“Đi cùng anh thì phải như vậy đấy. Em chịu nổi không?”
Đôi tai của cô bé dựng lên trong khi cố mở mắt ra.
“Kh-không công bằng chút nào!”
“Rất công bằng là đằng khác. Thôi nào, giấu tai đuôi lại đi, rửa mặt cho tỉnh táo. Không nhanh là anh bỏ lại đấy.”
“Xììì!”
Cô bé phồng má và xù đuôi, rồi lấy khăn tay cùng vài món khác từ túi ra. Nhìn kỹ thì thấy cô bé có hai cái lược và ba cái bàn chải. Cậu không hiểu tại sao cô cần nhiều đến vậy. Khi còn đang trăn trở với những câu hỏi khó hơn cả thần học, thì Myuri buông một câu kỳ lạ rồi rời khỏi phòng.
“Em sẽ chải tóc trong nhà tắm đây”
Khi Col quay lại nhìn, cửa đã đóng lại.
Rồi chẳng bao lâu sau, cô bé hớt hải chạy quay lại.
“A-anh trai, nhà tắm ở đâu thế?!”
“Nhà tắm?”
“Chỉ có… một cái giếng thôi à… và… khi em nhìn vào… có cả băng trong đó nữa… Không có nhà tắm thì em gội đầu kiểu gì được chứ?!”
Myuri gần như phát khóc, còn Col thì ngẩng đầu như một linh mục đang nghe lời than thở thấm thía. Rồi cậu từ từ gật đầu như thể đồng cảm sâu sắc.
Ở Nyohhira, nước suối nóng phun ra khắp nơi đến mức người ta còn thải bỏ đi, và Myuri đã sinh ra, lớn lên trong môi trường ấy. Có nhiều câu chuyện về những cô tiểu thư rời khỏi trang viên lần đầu và mới nhận ra mình đã sống sung sướng thế nào, nhưng cậu không nghĩ sẽ được chứng kiến câu chuyện kiểu ấy ngay trước mắt mình.
Sẽ là nói dối nếu bảo rằng cậu không cảm thấy một chút khoái trá hơi tàn nhẫn khi thấy cảnh tượng này.
“Ở đây không có nhà tắm. Đây không phải là Nyohhira đâu.”
“Ơ…”
“Nếu thấy khổ quá thì em có thể…”
“Không bỏ cuộc đâu! Không đời nào!”
Myuri tuyên bố mạnh mẽ rồi dậm chân bước ra khỏi hành lang với những bước dài đầy quyết tâm.
Ít nhất thì, điểm mạnh của cô bé là không dễ dàng bỏ cuộc.
Bí quyết chăm sóc tóc mà vũ nữ Helen đã chỉ cho Myuri như sau: Sau khi chải tóc bằng lược, phải chải kỹ bằng bàn chải lông ngựa lông dài, rồi bàn chải lông ngựa lông ngắn, và sau đó là bàn chải lông lợn. Col thấy kỳ lạ rằng chải tóc nhiều như vậy lại không làm hỏng tóc, nhưng dù sao thì việc gội đầu giữa tiết trời lạnh như thế quả là việc làm hành xác.
Khi cô bé quay lại phòng, môi tím tái và người run lẩy bẩy.
“…Thật là…”
Col cởi áo khoác ngoài rồi đắp lên người cô.
“Và trong lúc em đang… thực hiện nghi lễ thanh tẩy ngoài trời, thì có một bức thư được gửi đến này.”
Vì tôn trọng, cậu gọi hành động kiên cường khi gội đầu trong nước đá chỉ vì để giữ ngoại hình là “thanh tẩy”. Dĩ nhiên cậu cũng mang đầy ý mỉa mai trong đó, nên cô bé trừng mắt nhìn cậu đầy giận dỗi.
“C-c…cái…hắt xì! Th-thư á?””
“Hình như là được gửi từ Nyohhira bằng thuyền.”
Chắc do hôm qua thư đến muộn nên bị giữ lại tại một trạm kiểm soát phía thượng nguồn, rồi mới theo thuyền đầu tiên sáng nay đến được nơi này. Một số tiền không nhỏ đã được trả để chuyển thư, đến mức thuyền trưởng tưởng rằng đó là thư tuyệt mật của giới quý tộc.
“Là thư từ thầy Lawrence… và chị Holo.”
Cậu mở thư ra đọc và không kiềm được một nụ cười chua chát. Myuri, đang cuộn tròn trong chiếc áo khoác to gấp đôi người mình, nghiêng đầu như một chú mèo con. Col đưa thư cho cô bé, và cô bé nở một nụ cười khó đoán. Dù phải dạy rất vất vả, nhưng cô giờ đã có thể đọc kha khá rồi.
Trong thư, có vô số lỗi chính tả cho thấy Lawrence đã rất hoảng loạn khi hỏi về sự an toàn của Myuri, còn viết rằng anh sẽ lập tức đến đón cô bé, nhưng tất cả đều bị gạch chéo một cách không thương tiếc.
Rồi ở mép thư, có vài dòng khác được viết thêm bằng một nét chữ riêng biệt.
“‘C-chăm sóc,’ anh…Hắt xì!”
“Nó ghi là ‘Chăm sóc Myuri,’” cậu đáp lại với một tiếng thở dài, và Myuri, đang run lập cập với răng va vào nhau, trả lại bức thư. “Anh cũng hơi mong họ sẽ ngăn em lại đấy.”
Holo đã gạt phăng ý kiến của Lawrence sang một bên, dù anh là người đứng đầu trong nhà. Gia đình này đúng là toàn phụ nữ mạnh mẽ.
“Thương cho roi cho vọt m…Hắt xì!”
Cậu nhìn cô bé, và sau khi cô bé hít mũi một cái, một nụ cười toe toét lộ răng nanh liền hiện lên trên gương mặt Myuri.
“Em mới là người đáng được thương đây.”
Myuri định phản bác thì lại hắt hơi một cái rõ to nữa.
Sau khi viết thư hồi âm gửi cho Lawrence và Holo, họ dùng bữa sáng bằng đồ ăn thừa từ tối qua. Họ để lại thư cho chủ quán trọ, thu xếp hành lý xong xuôi rồi hướng ra bờ sông. Ở đó vẫn còn một đống lửa đang cháy, nên Myuri tranh thủ hong khô mái tóc ướt của mình. Những người phu thuyền đi ngang qua mỉm cười, tưởng rằng cô bé vừa rơi xuống giếng.
Họ mặc cả loanh quanh để tìm một chiếc thuyền đi Atiph, cuối cùng thì cũng thỏa thuận được một chuyến trên con thuyền chở củi, gà và vài loại hàng hóa khác theo lịch trình đến các thị trấn dọc đường. Không gian trên thuyền không lớn, chở khách chỉ là công việc phụ nên hành trình này chẳng mấy thoải mái gì.
Thế nhưng mặt trời đã lên, sưởi ấm cơ thể họ, và Myuri, lúc nãy còn lích rích như chim non bên cạnh, giờ đã ngủ thiếp đi, có lẽ vì chán. Như này thật dễ chịu.
Cậu có thể hình dung được giờ này ở nhà tắm sẽ ra sao, ai đang làm gì. Có lẽ đây chính là bước ngoặt để Col bỏ lại cuộc đời mà mình đã sống suốt hơn mười năm. Dù đã hứa với Myuri sẽ quay về để trấn an cô bé, nhưng cũng rất có khả năng cậu sẽ không trở lại. Lawrence và Holo đã tiễn cậu lên đường trong sự thấu hiểu điều đó. Cậu chỉ biết cảm tạ số phận đã giúp mình gặp được những con người tuyệt vời đến vậy.
Khi cậu đang chìm trong suy nghĩ, chiếc thuyền lướt nhẹ theo dòng nước. Dòng sông êm đềm, rộng lớn. Cuộc hành trình của hai người, vốn bắt đầu một cách hoàn toàn trái ý cậu, đã kết thúc ngày thứ hai một cách suôn sẻ, và ngày thứ ba cũng vậy.
Sáng ngày thứ ba, Myuri cũng lại muốn gội đầu, nhưng giờ cô bé đã rút được kinh nghiệm, liền nghĩ ra cách xin nước sôi từ bếp quán trọ.
Tuy nhiên, rồi cô cũng phát hiện ra một sự thật kinh hoàng: phải trả tiền cho củi và than. Có lẽ trước nay cô bé chưa từng tưởng tượng rằng để có nước nóng cũng tốn tiền.
Cuối cùng, cô vẫn phải gội đầu ở cái giếng gần như đóng băng, nhưng lần này đã biết điều hơn và không còn run lập cập như trước. Cậu tò mò không biết lần sau cô sẽ nghĩ ra cách gì.
Chẳng bao lâu, đá ở lòng sông thưa dần, thay vào đó là cảnh đồng cỏ trải dài. Những đồng bằng thoai thoải kéo dài đến tận những ngọn núi lờ mờ ở đằng xa. Có vẻ như họ đã đến được Đồng bằng Dolan. Col bắt đầu thấy buồn ngủ khi ngắm cảnh, nhưng Myuri thì lại vô cùng phấn khích vì lớn lên ở vùng núi cao. Cô bé hào hứng nhìn chằm chằm vào khung cảnh, vẫy tay với những người lữ hành đang đi dọc theo đường ven sông.
Cuối cùng, bên kia vùng đồng bằng thoai thoải, thị trấn Atiph hiện ra phía trên một ngọn đồi nhỏ, cùng với trạm kiểm soát nổi tiếng của nó.
“…!!”
Để giữ Myuri khỏi đứng phắt dậy trên thuyền thôi cũng là điều khó, nên Col rất lo lắng tai và đuôi của cô bé có thể lộ ra. Cô bé phát ra tiếng reo không lời vì quá phấn khích, và cậu phải rất vất vả mới gỡ được tay cô bé đang bám chặt lấy tay mình.
“Anh! Thị trấn! To quá! Dòng sông! Thật rồi! Chuỗi xích kìa!”
Cứ như thể cô bé quên mất cách ghép thành câu hoàn chỉnh vậy.
Nhưng cậu thực sự ngạc nhiên khi thấy thứ mà người thuyền trưởng trước đó đã miêu tả, nó hiện ra với dáng vẻ còn hùng vĩ hơn trong tưởng tượng. Đây không phải loại xích để khóa hòm kho báu—mỗi mắt xích to đến mức Myuri có thể đút cả tay vào. Các khớp nối được sắp thẳng tắp và sợi xích treo lơ lửng phía trên hai người họ.
“Th-thuyền trưởng! Nó sẽ không rơi xuống chứ?” Myuri hỏi, vừa mới trấn tĩnh lại phần nào, và vị thuyền trưởng, người có bờ vai xuôi và bộ ria mép dưới mũi, đáp lời mà không nở lấy một nụ cười.
“Nó rơi một lần mỗi năm, và những con thuyền bị nó chặn lại thì chìm hết. Năm nay nó chưa rơi, nên chúng ta vẫn đang gặp nguy hiểm. nhóc biết bơi chứ?”
Mặt Myuri co giật, cô bám chặt lấy Col và ngước nhìn lên sợi xích.
“Ông đừng trêu nó ạ, cô bé này sẽ tin thật đấy.”
“Cái gì cơ—?”
Myuri sững người, còn thuyền trưởng thì bật cười.
“Em thấy mấy tổ chim làm trong các mắt xích kia không?”
Col chỉ tay, và miệng Myuri há hốc khi sợi xích trôi qua ngay trên đầu họ.
“Nếu nó rơi và bị nước cuốn trôi mỗi năm, thì làm gì còn mấy cái tổ chim đó.”
“Cái xích thì không rơi, nhưng phân chim thì rơi suốt. Ngước lên há miệng thế kia là tự hại mình đấy.”
Myuri lập tức ngậm miệng lại khi nghe lời cảnh báo của ông thuyền trưởng.
Thuyền của họ nhập vào đoàn tàu thuyền đang hướng đến bến. Vì số lượng quá đông nên họ phải xếp hàng chờ đến lượt. Ai cũng đang dỡ hàng ở đây và chất lên những đống cá trích muối chất cao như núi để mang về.
Khi cuối cùng cũng cập bến, Myuri mệt mỏi nhìn cảnh dỡ cá xuống thuyền.
“Em mừng là không phải đi cùng đám cá đó. Em không muốn nhìn thấy cá muối thêm tí nào nữa đâu.”
Cá trích thì đầy rẫy nên rẻ vô cùng. Mùa đông nào cũng có mặt nó trên mọi bàn ăn, từ vùng duyên hải đến tận núi cao, và ai cũng rên rỉ chán ngán. Đó là loài cá đã nuôi sống họ suốt những mùa đông dài, và giờ nó sẽ tiếp tục được vận chuyển đến mọi trạm dừng tiếp theo của các tàu chở hàng.
“Thì, mùi đã đủ tệ rồi mà…”
Myuri hẳn đang rất khó chịu, bởi khứu giác nhạy bén của cô bé là do dòng máu sói. Ngay cả một người bình thường như Col cũng có thể dễ dàng ngửi thấy mùi tanh của cá lan tỏa từ những thùng hàng khắp cảng.
Tuy nhiên, lần này, cậu chỉ cảm thấy mùi đó thật ngon miệng.
“Tối nay ăn cá nướng muối nhé. Vị của nó khác hẳn cá muối thông thường đó.”
“Uwaa… Em muốn ăn thịt đỏ cơ…”
Myuri rên rỉ phản đối những bữa ăn của chuyến hành trình, khi họ len qua đám đông tại bến cảng để rời đi, nhưng rồi đột nhiên cô bé im bặt.
“Sao vậy?”
Col liếc nhìn, thấy cô bé đang há hốc mồm nhìn lên bầu trời. Cô bé dán mắt vào pháo đài bằng đá với những con chim biển xếp thành hàng trên đó. Đây là lần đầu tiên trong đời Myuri được thấy một thị trấn bên ngoài Nyohhira.
“Myuri, em đứng đó sẽ cản đường đấy.”
Cậu kéo tay cô bé, và cuối cùng cô bé cũng di chuyển, nhưng ngay lập tức lại bị thứ khác thu hút.
“Anh ơi, nhìn kìa! Người đó có nhiều chó quá!” Cô chỉ vào một người bốc vác đang mang thùng hàng, theo sau là một bầy chó. “Có phải người chăn chó không?”
“Người chăn chó?”
“Trên thế giới có người chăn dê, chăn cừu mà, đúng không?”
Theo logic đó thì tất nhiên sẽ có người chăn chó ở đâu đó.
“Anh không biết rõ về người chăn chó, nhưng cái thùng đó chắc là chứa cá trích muối. Bầy chó đang theo vì muốn liếm muối vương vãi ra đấy.”
“Ohhh.”
Chim biển kêu ầm ĩ trên đầu Myuri khi cô bé đứng ngẩn người, và một con mèo thì cuộn tròn ngủ trên đống thùng gỗ. Mọi thứ ở cảng đều mới mẻ và thú vị, nên Myuri liên tục hỏi hết chuyện này đến chuyện khác. Mỗi lần nghe được câu trả lời, mắt cô lại sáng lên và lắng nghe chăm chú từng lời của Col. Và dù dạo này cô bé đã khá tinh ranh, nhưng trông thấy cô bé như vậy khiến Col nhớ lại Myuri dễ thương, ngây thơ ngày nào, khiến cậu cảm thấy nhẹ lòng.
Tuy nhiên, cứ giải thích từng thứ nhỏ nhặt thì sẽ không đi đến đâu cả, trong khi họ còn phải chuẩn bị sau khi vào thị trấn. Trước tiên, họ cần tìm một nơi đổi tiền để có thể mua sắm trong thị trấn. Khi Col cuối cùng quyết định kéo cô đi để di chuyển tiếp—và vì đang lo giữ tay Myuri nên không chú ý đường đi—họ va phải ai đó.
“Ôi, xin lỗi.”
Cậu vội vàng xin lỗi một cô gái đang đội khăn trên đầu. Cô ấy khá cao, tay thon dài lộ ra từ tay áo xắn cao. Cô ấymặc tạp dề, có lẽ là con gái của chủ tàu. Tóc cô phai màu vì muối biển, hợp với đôi mắt màu hạt dẻ đặc biệt xinh đẹp.
Ánh mắt cô ấy chạm vào Col, rồi mỉm cười. Nhưng bất ngờ, cô ấy nhanh chóng bám lấy tay Col.
“Không sao! Tôi hoan nghênh những người đẹp trai như cậu mà!”
“Hử?”
“Cậu là khách du lịch đúng không? Lần đầu đến Atiph à? Có chỗ nghỉ chưa? Nếu cậu cứ đứng đây, mấy chỗ trọ tệ hại sẽ lôi cậu đi đấy.”
“Cái gì? Ờ thì—”
Cô nói quá nhanh, và đột nhiên ngực cô chạm vào tay cậu. Vòng một mềm mại ấy rõ ràng được nuôi dưỡng kỹ lưỡng nhờ cá, thịt và biển cả.
“Nhà trọ bọn tôi sạch sẽ và an toàn lắm. Vừa nhập rượu mới, giường có vải lanh xịn, không rệp không chấy, và cậu muốn chọn cô gái nào cũng được. Rồi mấy kiểu linh mục như cậu cũng được luôn! Tất cả các cô gái đó đều là con chiên sùng đạo, nên Chúa sẽ tha thứ cho chuyện này mà. Cứ kết hôn một đêm rồi ly hôn sáng hôm sau thôi.”
“Ch-chuyện đó thì, ờ…”
Col lập tức hiểu đây là loại nhà trọ đi kèm dịch vụ gái gọi. Ở những cảng đông đúc thủy thủ và thương nhân giàu có, mấy nhà trọ kiểu này nhan nhản. Cô gái càng áp sát ngực vào tay cậu hơn nữa và thì thầm sát tai cậu. Một mùi hương như bánh mì tươi mới nướng phảng phất trong không khí khiến cậu không dám nhìn thẳng vào cô.
“Hehe, nhìn mặt cậu đỏ lên đáng yêu ghê. Này, cậu đến từ đâu thế? Đến bằng tàu từ phía nam à? Kể cho tôi nghe chuyến đi của cậu tại nhà trọ nhé, ” Cô gái nói rồi định kéo tay cậu đi. Không, tôi không phải linh mục, và chúng tôi đã có chỗ nghỉ rồi—giọng nói của cậu khẽ văng vẳng trong đầu.
Cùng lúc đó, khi cậu cố đứng tại chỗ, cậu cảm thấy tay còn lại bị kéo về hướng khác.
“Nhìn đi, nhà trọ tụi tôi ở đằng kia… Ơ, hả?” Cô gái cau mày khi thấy cậu không nhúc nhích. “Ồ, đây là con gái anh à?”
Cậu nhìn xuống, thấy Myuri đang ôm tay còn lại của mình, trừng mắt nhìn cô gái kia như muốn ăn tươi nuốt sống.
“Chị chưa từng thấy cưng bao giờ. Cưng đến từ khu nào vậy?”
Sắc mặt cô gái thay đổi từ dịu dàng sang cảnh giác. Cô dùng từ "khu", có lẽ nghĩ rằng Myuri cũng là gái ngành. Quả thực, trang phục của Myuri không giống con gái tử tế nhà lành.
“Kh-không, đây là con gái của chủ tôi, và chúng tôi có lý do chính đáng để đi cùng nhau,” Col vội giải thích trước khi mọi chuyện rối rắm hơn. Cô gái nhìn chằm chằm, so sánh cô và Myuri tới ba lần, rồi mới chịu buông tay cậu.
“Cái mùi lưu huỳnh này chắc là từ Nyohhira về sau khi vui vẻ nhỉ. Tôi hiểu rồi.”
Cô gật gù như đã hiểu rõ, và tuy hoàn toàn hiểu sai, nhưng cũng quá phiền để sửa lại.
“Vậy thôi không cần nhà trọ nữa, nhưng cậu có thể đổi cho tôi ít tiền không?”
“Đổi tiền à?”
“Anh đến bằng thuyền thì chắc có nhiều tiền lẻ nhỉ?”
Cô gái chuyển chủ đề đột ngột khiến Col hơi lúng túng.
“Bọn tôi đang thiếu tiền lẻ trầm trọng. Tất nhiên tôi sẽ trả phí đổi tiền cho cậu. Như là hôn má hay để cậu gối đầu lên đùi chẳng hạn…”
Và rồi cô ấy lại sát gần Col, khiến Myuri gầm gừ thật sự.
“Chỉ đùa thôi. Nhưng thật sự anh có thể giúp một chút không? Chúng tôi đang cần gấp lắm.”
Có lẽ cô ấy chuyên dùng cách này để lừa du khách nhẹ dạ đổi tiền với tỷ giá tệ.
“Xin lỗi, bọn tôi cũng đang định đến chỗ đổi tiền,” cậu trả lời, và cô ấy không tiếp tục nữa.
“Vậy thì đừng đổi ngoài thành nhé. Ai không ngồi trên chiếuchiếu là không có giấy phép, sẽ đổi giá trên trời đấy. Cậu trông thật thà quá… Mà cậu có cô giám sát bé nhỏ bên cạnh rồi còn gì.”
Cô cười khúc khích, và khi Myuri vẫy tay chào nhè nhẹ, cô gái quay đi. Người này không còn để ý gì đến họ nữa mà nhìn quanh rồi đầy cố tình va phải một người đàn ông khác đang đi ngang qua. Anh này trông có vẻ thật thà, có lẽ vừa từ một trong những ngôi làng làm nông lận cận để lên thị trấn.
Cuộc trò chuyện của họ giống hệt lúc nãy, và khi chàng trai vừa định xin lỗi, cô gái lại áp sát, thì thầm bên tai anh ta. Col và Myuri từ xa cũng dễ dàng thấy chàng trai cứng đờ vì ngượng.
Dù cách làm không được ca ngợi, Col vẫn thầm ngưỡng mộ sự nhanh trí và kỹ năng bán hàng của cô.
“Thật là!” vang lên giọng nói lạnh lùng và sắc bén. “Không có em thì anh đúng là vô dụng!”
Col quay lại thấy Myuri đang nhìn cậu với vẻ chán nản. Cậu lại nhìn sang chàng trai kia—cô gái không thèm nghe anh ta ú ớ từ chối. Cô ấy nắm lấy tay anh chàng, rồi cứ thế kéo đi mất. Kẻ yếu đã bị săn.
“Mặt anh đỏ ửng cả lên còn gì!”
“Anh không có đ-đỏ mặt,” Col lúng túng phản bác, nhưng Myuri vẫn nhìn cậu đầy khinh bỉ rồi hừ một tiếng.
“Chỉ là chúng hơi to thôi mà.”
“Hả?” cậu hỏi lại, và Myuri buông tay cậu ra, nắm lấy tay cậu thay vì ôm tay nữa. Bàn tay cô bé nhỏ, cũng như chiều cao, đôi vai và chiếc eo—mọi thứ đều nhỏ nhắn. Có lẽ cô bé thấy ngượng khi so sánh bản thân với cô gái kia nên không ôm nữa. Tất nhiên, cậu không nói gì cả mà giả vờ như không nhận ra.
Thay vào đó, cậu nói, “Nhưng mà, em đã cứu anh. Cảm ơn em.”
Không hài lòng, Myuri nhìn chằm chằm Col rồi đột nhiên nở nụ cười rạng rỡ, cứ như bảng hiệu lật ngược.
Nếu cứ đứng một chỗ, sẽ lại có kẻ săn mồi khác tìm tới. Họ nhanh chóng rời đi, và sau khi Myuri đã phần nào thỏa mãn khi ngắm cảnh náo nhiệt nơi cảng, cô bé lên tiếng:
“Mà anh trai này? Anh đến đây làm gì? Lên giảng đạo ở góc phố hả?”
“Không, anh không định làm vậy. Chủ yếu là anh sẽ giúp Trữ quân Hyland.”
“Cái gì ấy nhỉ? Sách của…”
Vậy là cô bé thực sự đã nghe lỏm được. Giờ thì chẳng còn lý do gì để giấu nữa.
“Sách Lời Chúa của Chúng ta.”
“Là gì vậy?”
“Là kế hoạch của bọn anh nhằm dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ thông dụng.”
“À, em hiểu rồi,” cô bé nói, nhưng vẻ mặt thì lại cho thấy cô bé chẳng hiểu gì cả.
Col nhìn cô đầy ngạc nhiên, và cô bật cười đáp lại.
“Kinh Thánh được viết bằng văn tự của Giáo Hội. Ngày xưa, lời tiên tri của các vị ngôn sứ được ghi chép lại để lưu truyền, nhưng từ khi Giáo Hội lan rộng ra toàn thế giới, rất ít linh mục có thể đọc được văn tự gốc nữa. Người ta nói rằng đó là lúc Chúa ban cho chúng ta loại văn tự hiện tại của Giáo Hội.”
“Hả. Ngày xưa là bao lâu? Trước cả khi mẹ còn nhỏ à?”
Bất giác, cậu nhìn quanh, nhưng rồi cũng bình tâm lại, chắc chẳng ai quan tâm đến chuyện này đến mức tra hỏi họ đâu.
“Đó là một câu hỏi hay đấy. Có thể là thế.”
“Hả.”
Cô bé lại tò mò về một phần chẳng liên quan gì mấy đến câu chuyện, nhưng chủ đề chính vẫn còn ở phía sau, nên cậu đằng hắng rồi đưa cuộc trò chuyện quay lại đúng hướng.
“Dù sao thì, Kinh Thánh được viết bằng văn tự của Giáo Hội, mà đó không phải là chữ viết chúng ta thường dùng. Ngay cả loại chữ thông dụng hằng ngày, cũng ít người đọc được.”
Myuri cau có mặt mày, có lẽ vì nhớ lại những lần bị trói vào ghế học đọc và viết chữ.
“Vì thế, chỉ một số ít người có thể đọc Kinh Thánh. Nên nếu em vào nhà thờ, linh mục sẽ đọc và giảng giải lời dạy của Chúa cho em. Tình trạng này đã kéo dài rất, rất lâu rồi. Nhưng gần đây, người ta bắt đầu nhận ra điều này là không ổn. Kế hoạch của bọn anh là thay vì chỉ có linh mục đơn phương đọc và giải thích lời dạy của Chúa, thì mọi người đều có thể trực tiếp đọc Kinh Thánh, rồi tự quyết định điều gì là đúng.”
“Vậy nên mới gọi là Sách Lời Chúa của Chúng ta sao?”
“Ừ. Tên hay đấy chứ nhỉ?”
Myuri nhìn Col bằng đôi mắt sáng long lanh, rồi lên tiếng.
“Anh trai lúc nào cũng đối xử với em như con nít, nhưng anh cũng trẻ con chẳng kém đâu.”
“Sao cơ?” cậu hỏi lại, nhưng cô bé chỉ mỉm cười tinh quái.
Quả thật, Sách Lời Chúa của Chúng ta là một kế hoạch đầy tính phiêu lưu và thử thách, khiến cậu hừng hực khí thế.
“Vậy là anh định viết một cuốn sách à.”
“Nói thẳng ra thì đúng thế.”
Tuy nhiên, dịch Kinh Thánh không phải chuyện dễ dàng. Nó đầy rẫy những câu mơ hồ và ẩn dụ, đến mức các học giả thần học cũng mỗi người hiểu một kiểu. Ngoài ra, nó còn dùng rất nhiều từ ngữ cổ và không quen thuộc, khiến việc dịch thuật càng thêm gian nan.
Hơn nữa, Col cũng hiểu rằng không phải tất cả đều xuất phát từ đức tin thuần túy. Trên thực tế, đây là một nước cờ chiến lược, nảy sinh từ thế bế tắc giữa Giáo hoàng và Vương quốc Winfiel, tình trạng đã kéo dài quá lâu. Vương quốc đang cố chứng minh Giáo Hoàng sai lầm, và cắt đứt quyền lực của ông. Ai cũng có thể thấy rõ: khi Giáo hoàng tay cầm Kinh Thánh đứng trước nhà thờ tráng lệ với tháp chuông cao ngất, rao giảng sự khổ hạnh, thì lời nói và việc làm của ông lại hoàn toàn trái ngược nhau. Nhưng vì người dân không thể đọc Kinh Thánh, nên họ không thể chỉ ra những sai trái ấy, thậm chí còn không biết rằng họ đang bị lừa dối.
Dĩ nhiên, Giáo Hội cực kỳ phản đối kế hoạch này. Miễn là Kinh Thánh không được viết bằng ngôn ngữ thông dụng, họ có thể giới hạn số người tiếp cận, và giữ cho dân thường trong vòng u mê. Sách Lời Chúa của Chúng ta chính là cơn đau đầu lớn cho Giáo Hội.
Nhưng đối với Vương quốc Winfiel, vẫn có lý do chính đáng để thực hiện kế hoạch này. Khi các nhà thờ trên toàn quốc bị lệnh đóng cửa, chính phủ buộc phải trao quyền cử hành lễ rửa tội, lễ cưới và cầu siêu cho giáo dân tự thực hiện.
Hyland, người đề xuất kế hoạch Sách Lời Chúa của Chúng ta, quả thật có tầm nhìn xa. Có lẽ chính trí tuệ ấy đã khiến Công ty Debau quyết định ủng hộ vương quốc.
Tuy nhiên, cũng không quá khi nói rằng đây là nước cờ cuối cùng của một đất nước bị dồn vào chân tường. Việc đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo là một biện pháp khủng khiếp. Khi người thân hấp hối, dù bạn có muốn cầu nguyện cho linh hồn họ được siêu thoát, thì cũng chỉ linh mục mới có thể làm điều đó. Người ta cũng chẳng thể nhận được phép lành từ Chúa cho lễ cưới trọng đại của mình, một sự kiện lớn trong đời, Giáo Hội có quyền cử hành lễ hôn phối, nên từ đầu đã không có ai được kết hôn hợp pháp. Giáo hoàng đã hủy bỏ tất cả chỉ vì muốn thu thuế. Liệu ông có bao giờ nghĩ đến cuộc sống của người khác chăng? Tình yêu của Chúa là vô điều kiện; lời dạy của Ngài không phải để dùng làm công cụ trục lợi.
Col tin chắc: chính Giáo hoàng mới là người sai. Nếu cứ để ông tiếp tục chuyên quyền, thì những gì họ tin là đúng, thậm chí cả Chúa là gốc rễ của mọi chân lý ấy cũng sẽ bị cướp đi.
“Anh ơi.”
Khi cậu còn đang suy nghĩ miên man, Myuri kéo nhẹ tay áo cậu.
“Trông anh đáng sợ lắm.”
“…Anh chỉ đang nghĩ thôi. Có chuyện gì sao?”
“Cảng dừng ở đây rồi. Giờ chúng ta đi đâu? Tới thị trấn trên đồi kia hả?”
Khu vực xung quanh cảng trông hiện đại hơn nhiều so với thị trấn nhỏ ở xa. Có rất nhiều nhà kho lớn kiêm luôn đại lý thương mại hay đại lý vận chuyển. Phía sau còn nhiều công trình tiếp nối, và xa hơn nữa là những con đường nhỏ đầy các cửa hiệu mờ ám, nơi cô gái lúc trước đã kéo chàng trai trẻ kia đến. Và đúng như cô ấy nói, có vài người đang đứng ở các góc phố, không hề có giường chiếu gì mà trao đổi tiền bạc. Ngoài ra còn có lò rèn và xưởng mộc, nên chỉ riêng khu cảng thôi đã đủ để gọi là một thị trấn nhỏ.
Từ nơi họ đứng, có thể thấy rõ kích thước của thị trấn thực sự ở phía trên con đường lát đá dẫn lên đồi. Khắp nơi có giàn giáo dựng quanh các bức tường, cho thấy nơi này vẫn đang tiếp tục mở rộng.
Nếu Công ty Debau có văn phòng ở Atiph, thì chắc chắn phải nằm trong thị trấn ấy.
“Chúng ta vào thị trấn thôi.”
“Yay~!”
“…Yay?”
Cậu nhìn Myuri đầy nghi ngờ. Cô quay mặt đi, nhưng cậu biết cô đang nghĩ gì.
“Chúng ta sẽ không mua sắm hay ăn uống gì hết.”
“Aww… Nhưng em đã cứu anh khỏi kẻ xấu đó mà!”
“C-chuyện đó… Chính anh cũng từ chối rồi còn gì.”
Cậu đằng hắng, và Myuri nhún vai một cách tinh quái.
“Trước tiên, chúng ta không có tiền tiêu xài hoang phí.”
“Em có thể kiếm tiền bằng cách nhảy múa trong quán rượu mà.”
Cậu trừng mắt nhìn cô bé, còn cô bé thì lại nhún vai lần nữa và lùi một bước. Điều đáng ngại là có lẽ cô bé thực sự có thể kiếm tiền theo cách đó.
“Sự xa hoa là kẻ thù đó.”
“Em nghĩ khiết tịnh mới là kẻ thù của niềm vui sống cơ.”
Cậu lại trừng mắt, nhưng lần này cô bé chỉ mỉm cười đáp lại.
Hai bên con đường từ cảng đến thành phố đã chật kín các sạp hàng.
Trên con đường thử thách mà Chúa đặt ra cho các ngôn sứ, cám dỗ của ma quỷ xuất hiện ở từng bước chân.
Ôi lạy Chúa, xin bảo vệ con.
Cậu tự nhủ, rồi lặng lẽ khấn lại lời khấn khiết tịnh của mình.
Atiph là một thị trấn nhộn nhịp, nhưng lại khác hẳn với Nyohhira.
Những tiếng hô vang từ khắp nơi — ồn ào đến mức tưởng như ai cũng đang chạy hết tốc lực.
“Ê, tránh ra!”
“Thằng nào để mấy cái thùng này ở đây thế hả?!”
“Cá trích! Cá trích tươi chưa muối đây!”
“Này anh khách bộ hành! Mua thanh đoản kiếm này đi! Tác phẩm tuyệt hảo đấy, cắt được cả bò luôn!”
Col từng nghĩ mình cũng hiểu biết kha khá về thế giới bên ngoài, nhưng giờ cậu mới nhận ra kiến thức của mình đều từ hơn mười năm trước.
Sự náo nhiệt như muốn cuốn cậu đi, khiến đầu óc quay cuồng.
“Myuri, em ổn chứ?”
Dòng người xô đẩy, hơi nóng từ hàng trăm thân thể bao phủ quanh họ, mùi cá tanh, mùi máu từ những con cừu và heo bị giết lan khắp không khí.
Hòa lẫn vào đó là hương thơm của thịt chiên trong dầu, khói từ các bếp than bốc lên mù mịt.
Cậu lo lắng hỏi, đúng lúc cô bé vừa ăn xong một xiên lươn chiên.
“Hả?” cô bé đáp lại, vừa né chiếc xe đẩy chất đầy lồng gà, vừa xoay mình và vỗ đầu một con chó đi ngang qua. Có vẻ như cô bé đã nhanh chóng thích nghi với sự náo nhiệt của thị trấn.
“Ooh! Em muốn ăn món kia tiếp theo!”
Cô chỉ vào một tiệm đang bày bánh nhân thịt.
“…Lươn chiên ở cửa sông, dồi đen, lòng heo, rồi giờ đến cái gì nữa đây?”
“Cua nhỏ chiên muối ngon cực. Cá trích nướng muối tươi ngon hơn em tưởng. Cá trích không phải là đồ bỏ đi đâu.”
Cậu cảm thấy xấu hổ vì đã không chống lại nổi ánh mắt van nài của Myuri.
“Tham ăn là một trong bảy mối tội đấy. Em biết hết đống này tốn bao nhiêu tiền không? Mấy đồng lẻ anh mang từ Nyohhira giờ hết sạch rồi…”
Xem chừng các tiệm hàng đang thiếu tiền lẻ, nên mỗi khi cậu đưa đồng tiền lớn, chủ quán lại cau có ra mặt.
Có lẽ cô gái chào hàng lúc trước thật sự không kiếm được tiền lẻ chứ không phải đang lừa lọc.
“Thì ta cứ dùng bạc mà mua đồ. Mua nhiều một chút thì cần gì tiền thối.”
“Myuri!” col quát, nhưng cô bé chỉ lấy ngón tay bịt tai và quay mặt đi.
“Cha chắc chắn có chuẩn bị quà chia tay cho anh rồi, sao anh keo kiệt thế? Nếu tham ăn là tội lỗi thì bủn xỉn không phải cũng là tội lỗi à?”
“À—”
Cô bé lúc nào cũng giả vờ không nghe những bài giảng của cậu, vậy mà hóa ra lại nhớ rõ rành rành, thật khiến người ta đau đầu.
Bủn xỉn không nằm trong danh sách bảy mối tội đầu: tức giận, tham ăn, dâm dục, tham lam, đố kỵ, kiêu ngạo và lười biếng, nhưng nó cũng chẳng phải điều tốt đẹp gì.
“…Anh không keo kiệt. Anh chỉ đang biết tiết chế thôi.”
“Có khác gì nhau?”
Cô bé hỏi không phải vì không biết—mà vì biết rõ nó sẽ khiến cậu rối trí. Nếu tai và đuôi của cô bé lộ ra lúc đó, chắc chắn chúng đang ngoáy tít trong niềm vui thích.
Tuy thế này thật đáng xấu hổ cho một người đang muốn trở thành linh mục, Col buộc phải tung ra chiêu bài cuối cùng.
“Không là không.”
Myuri chu môi rồi quay đi giận dỗi, nhưng có lẽ cũng cảm thấy nên dừng lại, nên cô bé không cằn nhằn thêm nữa.
Col thấy đây là thời cơ, liền nói tiếp.
“Và em thực sự nên thay đổi cách ăn mặc của mình đó.”
“Hả?” Myuri đang yên lặng ngắm nhìn các tiệm hàng, tưởng tượng xem mai sẽ bắt cậu mua gì, liền ngạc nhiên quay lại.
“Gì cơ? Bộ đồ này không dễ thương à?”
Cô bé trông hơi buồn.
“…Không phải vấn đề dễ thương hay không.”
“Thế à? Nhưng nó dễ thương mà, đúng không? Tốt rồi.”
Cô bé cười toe toét, khiến cậu suýt nữa mềm lòng.
“Có thể nó hợp với em.” Cậu thử lại và cố tiếp tục. “Nhưng nó quá nổi bật. Nếu còn tiếp tục hành trình, em cần thay đồ khác. Anh sẽ mua cho em bộ mới.”
Myuri lúc nào cũng có lý lẽ để cãi, nhưng khi cậu nghiêm túc nói chuyện, cô bé sẽ lắng nghe đàng hoàng.
Cô bé nhìn lại trang phục mình đang mặc, nghiêng đầu nghĩ ngợi.
“Nếu anh đã nói vậy thì em sẽ thay… nhưng tại sao? Ai cũng khen em mà!”
“Chính vì thế đó.”
Cũng như sự hiểu nhầm của cô gái chào hàng trước đó, mỗi lần Col trả tiền cho món Myuri chọn ở các quầy hàng, cậu đều cảm thấy ánh mắt soi mói của chủ tiệm dán vào mình. Cậu đang đi dạo cùng một thiếu nữ ăn diện lòe loẹt, lại còn trẻ—có lẽ là quá trẻ—và mua thức ăn cho cô bé. Có thể nếu họ là con cháu quý tộc ăn chơi thì khác, nhưng Col đã xin Lawrence chuẩn bị quần áo du hành phù hợp với một linh mục. Không gì trong tình cảnh này là đứng đắn cả.
Col giải thích mọi điều cho Myuri, và cô bé có vẻ miễn cưỡng chấp nhận với vẻ mệt mỏi.
“Em không bận tâm người khác nghĩ gì… nhưng em không muốn gây rắc rối cho anh, anh trai.” Myuri thở dài rồi hỏi. “Vậy em nên mặc gì đây?”
“Phụ nữ đi đường thường chỉ có hai lựa chọn: mặc như nữ tu hoặc như con trai thôi.”
“Mẹ cũng hay mặc như nữ tu nhỉ? Loại áo dài, có nhiều viền và rất kín đó.”
“Hồi chị ấy còn đi du hành, trang phục nữ tu cũng rất hợp với chị ấy.”
“Vậy chắc cũng hợp với em thôi.”
Holo, hóa thân của sói đã sống hàng thế kỷ, vẫn trông như một cô bé suốt nhiều năm. Và Myuri khi lớn lên ngày càng giống mẹ như hai giọt nước.
“Có thể vậy. Nhưng không giống em, chị Holo rất điềm tĩnh và đoan trang.”
“Này!”
Đó chính là điểm khác biệt giữa họ, cậu thầm nghĩ.
“Em muốn mặc thứ gì dễ cử động. Và… em không muốn bị so sánh với mẹ đâu.”
Có vẻ con gái luôn mang một chút phù phiếm và kiêu hãnh.
“Vậy chúng ta sẽ nhờ ai đó ở Công ty Debau chuẩn bị cho em một bộ đồ giống phụ việc nam nhé.”
“Nếu em mặc còn đẹp trai hơn anh thì sao?”
Cậu chỉ cười gượng, nhưng quả thật khuôn mặt Myuri giống hệt mẹ.
Cô bé mặc đồ con trai chắc chắn sẽ rất hợp.
Hơn nữa, phụ nữ cải trang thành đàn ông luôn khó bị phát hiện hơn chiều ngược lại.
“Vậy thì đi thôi.” Col nói.
“Vâng!”
Thị trấn Atiph nằm trên một ngọn đồi ở phía nam con sông chảy từ đông sang tây. Quảng trường thị trấn nằm trên đỉnh đồi, và theo phong cách phương nam, những tòa nhà quan trọng như nhà thờ và tòa thị chính bao quanh nó. Giao thương phát triển mạnh ở đây, nên chắc nhiều vị lãnh đạo trong thị trấn là người phương nam.
Theo lời người dân ở các quầy hàng mà Col và Myuri nghe được, văn phòng thương mại của Công ty Debau nằm dọc theo con đường chính kéo dài từ quảng trường—một vị trí xứng tầm với quy mô của họ. Có lẽ dân địa phương sẽ đi theo các con đường nhỏ vắng vẻ hơn, nhưng vì đây là lần đầu họ đến đây, họ quyết định cứ theo đại lộ chính mà đi đến quảng trường.
Biết đâu ở đó cũng có quầy đổi tiền.
“Whoa…” Myuri thốt lên đầy kinh ngạc khi ngẩng đầu nhìn tòa thánh đường nguy nga trước mặt.
Pháo đài bằng đá ở cảng cũng từng khiến cô bé mê mẩn, nhưng dường như các công trình bằng đá nói chung vẫn còn khá mới lạ với cô bé. Những tòa nhà lớn nhất ở Nyohhira chỉ cao ba tầng và đều làm bằng gỗ. Nhà thờ trước mắt họ cao đến năm tầng, và tháp chuông còn vươn cao hơn thế nữa. Thật là một quy mô ấn tượng.
“Này, anh ơi… người ta xây cái này bằng cách xếp từng viên đá một à?”
“Đúng vậy. Cần rất nhiều công sức, nhưng càng khó thì càng thể hiện sức mạnh của đức tin. Ngoài ra, việc khai thác những tảng đá nặng dùng để xây nhà thờ cũng là một vinh dự lớn. Nếu nhìn kỹ, em sẽ thấy tên của những người quyên góp được khắc lên các phiến đá đó.”
“Wow…”
“Sao em không thử lại gần xem? Anh cần đi đổi lại số tiền lẻ mà ai đó đã tiêu hết rồi.”
Myuri từ từ hạ ánh mắt khỏi nhà thờ, nhìn anh với nụ cười toe toét.
“Nhớ đổi thật nhiều vào nhé.”
Cô bé chẳng hề giấu diếm mong muốn của mình.
“Đùa thôi. Em lo anh bị lạc nên sẽ đi cùng vậy.”
“…”
Col nhìn Myuri đứng cạnh mình, và thấy cô thực sự đang rất vui vẻ. Thay vì thở dài, anh chỉ biết cười. Có lẽ, người ta chỉ có thể mỉm cười trước sự vô tư của cô bé.
Sau đó, họ tiến đến những người đổi tiền ngồi trên các tấm chiếu rơm xung quanh bức tượng Đức Mẹ ở trung tâm quảng trường. Không chỉ có khách lữ hành, mà còn có cả người dân thị trấn đến đổi tiền để đi mua sắm, khiến các tay đổi tiền phải cau mày khi đặt từng đồng lên cân. Trong số đó, cặp đôi tìm được một người vừa xử lý xong hàng chờ và gọi ông ta.
“Chúng tôi muốn đổi tiền.”
“Được, cậu cần đổi gì?”
Không có lời chào hỏi xã giao nào— họ vào việc ngay. Col vội lấy ví ra, rút một đồng bạc trắng.
“Tôi muốn đổi đồng này sang xu đồng dip.”
“Đồng bạc thái dương, đúng chứ? Cậu sẽ nhận được ba mươi xu đồng dip.”
“Cái gì?!”
Vô thức, cậu hét lên vì sốc. Xu đồng dip là loại xu đồng mỏng lưu hành ở khu vực này, một đồng có thể mua được một ổ bánh mì hoặc một cốc bia. Trong khi đó, đồng bạc mặt trời là loại mạnh nhất trong vùng, thường dùng cho giao dịch đường dài, đủ nuôi cả gia đình bốn người trong một tuần và vẫn còn dư chút ít để ăn mừng ngày lễ.
Trước khi Col lên đường, chủ nhà tắm Lawrence đã nói về tỷ giá các loại tiền chính, và anh bảo rằng cậu có thể đổi được ít nhất bốn mươi—nếu may mắn thì năm mươi xu.
Cậu định nghĩ có lẽ mình bị bắt nạt vì là khách lạ, nhưng trước khi nói gì, người đổi tiền mở một cuộn da và đọc to.
“Thông báo từ hội đồng thành phố: Do tình trạng thiếu tiền lẻ gần đây, hội đồng thành phố đã quy định tỷ giá giữa đồng bạc thái dương và xu đồng dip là một đổi ba mươi.”
Ông ta có vẻ quá quen với việc bị du khách phàn nàn.
“Chúng tôi rất biết ơn nền kinh tế phát triển, nhưng vì vậy mà tiền tệ lưu thông không đủ. Những nơi khác cũng vậy thôi.”
Người đổi tiền cuộn lại tờ da và đặt dưới bàn cân.
“Cậu thấy đấy, có một nhà thờ lớn ở đây. Ai ai cũng mang tiền lẻ đến bỏ vào hòm quyên góp.”
Ông ta chỉ ngón tay cái về phía nhà thờ mà chẳng buồn nhìn.
“Thu thuế đã nhiều, mà còn gom hết tiền lẻ như thế… À, cha là linh mục lữ hành à?”
Người đổi tiền không hề tỏ ra áy náy như lời nói, và còn mỉm cười.
“Vậy cha có đổi không?”
“À… vâng. Xin đổi giúp tôi.”
“Cảm ơn.”
Col đưa đồng bạc, người đổi tiền kiểm tra hai mặt, cân so với bạc thô, rồi đưa cho cậu một bó đồng xu. Đúng ba mươi đồng. Có lẽ cô gái tiếp thị thực sự đang gặp khó khăn, và các chủ quầy hàng cũng chẳng muốn thối tiền.
Và chuyện Myuri mua đồ ăn giờ trở nên đắt đỏ hơn nhiều.
“Chàng trai trẻ, nhớ bảo họ đừng để tất cả tiền lẻ nằm yên trong hòm quyên góp như thế nhé. Giáo hội bây giờ chỉ toàn tiền bạc, tiền bạc, tiền bạc. Phải nhờ Vương quốc Winfiel ra tay thôi.”
Col chỉ cười khẽ, bỏ tiền vào túi và rời khỏi chỗ đổi tiền.
Tuy nhiên, tim cậu không đập nhanh vì lời chỉ trích Giáo hội, mà là vì khi nghe nhắc đến Vương quốc Winfiel. Nghe được sự bất mãn của dân chúng trực tiếp như vậy khiến cậu cảm thấy nhiệm vụ của mình càng chính đáng.
Làm sao Giáo hội có thể cứu rỗi linh hồn người dân nếu còn đang áp bức cuộc sống của họ chứ?
“Giờ mình đi đâu đây, anh trai?”
Cậu đáp lại đầy quyết tâm:
“Đến Công ty Debau.”
Cậu cần gặp Hyland càng sớm càng tốt.
Với tinh thần được khuấy động bởi sứ mệnh, cậu kéo Myuri còn đang ngơ ngác băng qua đại lộ.
Đi về phía nam từ quảng trường theo con đường lớn, họ bắt gặp một khu nhà với kiến trúc tương tự nhau. Tầng một luôn là khu vực dỡ hàng, còn tầng hai và ba treo đầy cờ hiệu. Những tòa nhà này thuộc về các thương hội lớn đang nắm nền kinh tế của thị trấn. Trong số đó, cậu thấy được lá cờ quen thuộc của Công ty Debau.
“Ồ… em thấy biểu tượng đó ở đâu rồi thì phải.”
Myuri nghiêng đầu.
“Nó in trên đồng bạc chúng ta vừa đổi đấy.”
“À, đúng rồi.”
Mặc dù Công ty Debau vẫn là một thương hội, nhưng họ có thể phát hành tiền bạc debau giá trị cao theo tiêu chuẩn riêng. Mặt của đồng bạc là hình mặt trời, nên nó được gọi là “đồng bạc thái dương.”
“Đó là đồng tiền họ tạo ra được nhờ công lao của cha mẹ em đấy.”
Đó là sự kiện cuối cùng làm rúng động chuyến hành trình của thương nhân và nữ thần sói. Col luôn thấy họ là những người phi thường, dù Myuri dường như chẳng cảm nhận rõ điều đó.
Tòa nhà Debau là một công trình rộng rãi nhìn ra phố, tầng một dùng để dỡ hàng. Những thương nhân vác gùi lớn hơn cả thân hình Col và những xe chở đầy hàng hóa qua lại tấp nập.
Người đàn ông trông như ăn mày đang ngồi chồm hỗm ở góc khu vực dỡ hàng chắc là được thuê để trông chừng, đề phòng trộm cắp giữa cảnh nhốn nháo, đổi lại được chút lòng từ thiện. Ngoài bọn trộm, còn có cả mèo và chó hoang quanh quẩn trong thị trấn, mong bắt được con lợn hay con gà nào đi lạc khỏi chủ. Điều này khiến Col nhớ lại khoảng thời gian cậu còn là một học sinh lang thang, sống bằng những công việc như vậy.
“Này, này, đứng chắn đường như thế làm gì đấy! Nếu muốn xin ăn thì tìm chỗ khác mà ngồi!”
Một người đàn ông trong khu vực bốc dỡ hàng, hơi nước bốc lên từ thân trên trần trụi, xua họ đi như thể xua chó mèo.
“À, tôi cần gửi một lời nhắn đến chủ nhà.”
“Hả?”
“Làm ơn nói với ông ấy rằng tên tôi là Tote Col. Kế hoạch đi đến Lenos đã đổi thành Atiph.”
“Hừm?”
Người đàn ông nhìn cậu với ánh mắt nghi ngờ, nhưng rồi nhún vai và biến mất vào bên trong.
Không lâu sau, ông ta quay lại.
“Ông ấy bảo vào đi. Cậu là bạn của vị tai to mặt lớn đó hả?”
Vậy là dường như Hyland đã đến đây rồi.
Cậu cảm ơn người đàn ông, rồi họ tiếp tục đi sâu hơn vào khu vực bốc dỡ.
Hàng hóa chất đầy khắp nơi, và phía trên một bậc là quầy tiếp tân lớn đến mức có thể ngủ trên đó, với một tấm chăn phủ bên trên. Hiện tại, chiếc bàn rộng ấy cũng bị chất đầy tiền xu và giấy tờ, và một người đàn ông đang vùi mình giữa đống đó, viết lách. Một tấm vải canvas lớn treo trên tường sau lưng ông ta. Trên đó được vẽ một thiên thần với kích thước lớn hơn người thật, đang lặng lẽ quan sát những thương nhân làm việc.
Bức tranh ấn tượng như vậy cũng thu hút ánh nhìn của Myuri, nhưng cô bé không có vẻ xúc động hay e dè; thay vào đó, cô bé nghiêng đầu đầy tò mò.
“Em không biết là thiên thần cũng đếm tiền nữa đấy. Nhưng sao lại cầm kiếm? Đe dọa để họ làm việc à?”
Thiên thần cầm một thanh kiếm trong tay phải và một chiếc cân trong tay trái. Col bật cười trước cách hiểu của cô bé.
“Thanh kiếm tượng trưng cho công lý, còn chiếc cân là sự công bằng. Nhưng… không hẳn là vậy, phải không?”
Cảm giác đó càng rõ hơn vì mọi người ở đây đều làm việc như thể có điều gì đó đang thúc đẩy họ. Nó giống như đang ở giữa một lò sưởi đang rực cháy. Cậu từng nghĩ mình đã hiểu đôi chút về sự siêng năng khi làm việc ở nhà tắm, nhưng công việc ở Nyohhira chẳng là gì so với nơi này. Đây mới là tốc độ mà thế giới thực sự vận hành.
Cậu có cảm giác như mình bị phủ một lớp cặn đá vôi từ nước suối nóng sau mười năm sống trong núi, và giờ đây nó đang dần bị bong tróc.
“A, là Ngài Col, đúng không ạ?”
Tòa nhà đông người đến mức họ đi mãi vẫn chưa tới cuối, và một thương nhân ăn mặc bảnh bao gọi cậu. Ông mặc một bộ đồ bằng vải xanh lá, được nhuộm từ nguyên liệu mà Col không rõ, tạo cho ông vẻ quý tộc và cho thấy đây là kiểu thương nhân chỉ tham gia vào các giao dịch lớn. Bộ ria mép của ông cũng được tỉa gọn với hai đầu cong vút như sừng bò. Có lẽ ông dùng lòng trắng trứng mỗi sáng để tạo kiểu.
“Tôi nhận được tin nhắn của ngài nên đã đến đây. Tôi là Tote Col.”
“Người đứng đầu chi nhánh chính đã dặn tôi chăm sóc ngài. Tôi là Stefan, người quản lý thương hội này.”
Họ bắt tay nhau, và Stefan, chắc chắn hơn Col tầm hai mươi tuổi, ngay lập tức chú ý đến Myuri, như thể là điều đương nhiên.
“Còn tiểu thư đây là?”
“Xin chào. Vì vài lý do, cháu đang đi du lịch cùng anh trai. Cháu tên là Myuri.”
Cô bé tự giới thiệu rõ ràng và tươi cười như thể đã quen với việc này. Cách cư xử tự nhiên đến mức Stefan cũng đành chấp nhận. Chuyện như vậy vẫn thường xảy ra.
“Chúng tôi đã chuẩn bị một phòng cho các vị. Các vị không phiền nếu dùng chung chứ?”
“Không đâu ạ. Mong là chúng tôi không gây phiền hà gì…”
“Không sao cả. Ngài đối xử với chúng tôi rất lễ độ, thưa Ngài Col.”
Stefan với vẻ ngoài thanh lịch đang đối đãi họ với sự lễ phép cao nhất, khiến Myuri ngạc nhiên tròn mắt. Tuy nhiên, Công ty Debau chịu ơn sâu nặng với Lawrence và Holo, nên điều này đơn giản là đang được truyền xuống Col.
“Trữ quân Hyland đã đến chưa ạ?”
“Rồi. Ngài Hyland đến đây bằng thuyền hai ngày trước và vừa trở về sau buổi họp với hiệp hội thương nhân—”
Stefan chưa nói hết thì bị cắt ngang.
Vừa lúc đó, tiếng bước chân dồn dập vang lên từ hành lang kết nối phía trong khu bốc dỡ, và mọi người dạt sang hai bên như thể biển cả đang tách ra.
Người vừa xuất hiện rõ ràng là một nhân vật có địa vị cao, đi cùng trợ lý, điều đó được thể hiện ngay từ bộ trang phục may đo đến khí chất toát ra từ anh, hoàn toàn khác biệt với tất cả những người khác. Có lẽ chính khuôn mặt ấy khiến đàn ông cũng phải ngoái nhìn, hay là mái tóc vàng rực rỡ thu hút ánh nhìn, thể hiện dòng máu quý tộc. Người ta dễ dàng hiểu được vì sao truyền thuyết về “con cừu vàng” vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay trong Vương quốc Winfiel.
Chính là Hyland.
“Ồ, thưa Trữ quân Hyland.”
Stefan lập tức ngừng lời và chào theo kiểu quân đội, nhưng Hyland giơ tay ra hiệu ông không cần làm thế.
Rồi ngài ấy quay sang Col, mỉm cười như gặp lại một người bạn cũ. Col vội vã bắt chước Stefan, cúi đầu chào.
“Có vẻ ngài vẫn khỏe mạnh, thưa Trữ quân Hyland.”
“Và cậu cũng không thay đổi gì, ‘Hiền nhân’ Col.”
Hyland, người trẻ tuổi hơn cậu, dùng giọng trầm đặc trưng mà chủ động gọi cậu là “hiền nhân.” Danh hiệu hiền nhân là một danh xưng quyền lực được Giáo hội ban cho, và phần lớn người mang nó đều thuộc các trường đại học. Cậu chưa bao giờ tưởng tượng mình có thể mang danh hiệu ấy, nhưng khi Hyland nói ra, cậu gần như đã tin. Cả Stefan và trợ lý của Hyland đều có vẻ ngạc nhiên, và cậu không khỏi đỏ mặt.
“Điện hạ khéo đùa. Danh hiệu hiền nhân là một danh hiệu đầy uy nghiêm đấy ạ.”
“Vậy sao lại khách sáo đến thế?”
Hyland vừa cười vừa trêu chọc.
“Col, ta đâu sánh được với học vấn của cậu, và chúng ta sẽ phải dựa vào tài năng của cậu. Tuy nhiên, lấy lòng ta không phải là nhiệm vụ của cậu đâu.”
Ngài ấy đã từng nói điều gì đó tương tự khi tranh luận trong nhà tắm, nhưng ngoài sự chân thành, lời nói ấy dường như cũng ẩn chứa một lời cầu khẩn.
Khi ngài ấy nói về việc lấy lòng như một công việc, Stefan nhã nhặn lại có vẻ như không hiểu chút gì, đến mức bất thường.
“Được rồi. Dù sao thì tôi cũng luôn nói chuyện kiểu này.”
“Tốt lắm.” Hyland mỉm cười như một cậu bé vô tư, rồi tiếp lời bằng nụ cười nhăn nhó. “Và cô bé này là ai? Tại sao lại ở đây?”
“Xì!”
Myuri thò đầu ra từ sau lưng Col, nhe răng gầm gừ với Hyland.
“Ha-ha, vẫn năng động như mọi khi. Ông Stefan, chúng ta có mấy viên kẹo đường và việt quất nhỉ? Tôi muốn cho cô bé này vài viên.”
Stefan đã đứng ngây ra nhìn, nhưng với bản lĩnh thương nhân lão luyện, ông nhanh chóng gật đầu lễ phép.
“Thế thì để dành cho bữa tối vậy,” Hyland nói rồi bước đi nhanh nhẹn.
Người trợ lý theo sát phía sau, và Col cảm thấy như bầu không khí nặng nề vừa được xua tan.
Đó hẳn là khí chất quý tộc.
“Myuri, đừng có vô lễ như vậy.”
Myuri vẫn trừng mắt nhìn theo Hyland rời khỏi tòa nhà, và khi Col lên tiếng, cô phồng má quay đi chỗ khác.
“Nhưng em vẫn lấy kẹo đó nhé.”
Cô bé càu nhàu, vẻ càng thêm bất mãn, khiến Col thở dài và nhẹ nhàng gõ vào đầu cô bé.
Phòng của họ nằm trên tầng ba. Đây là phòng thường được dùng cho các thương nhân đến thăm công ty. Chỉ có một chiếc giường, nên cậu bé dẫn họ lên phòng đã đề nghị chuẩn bị thêm một cái, nhưng họ không muốn làm phiền đến mức đó. Hơn nữa, Myuri ngủ rất ngoan, nên Col cũng không quá bận tâm. Dĩ nhiên, cậu cũng không xem cô bé như người khác giới.
Thay vào đó, họ yêu cầu một bộ quần áo cải trang cho Myuri.
“Anh trai này?”
Khi Col đang lục trong túi lấy ra vài cây bút cũ và bản Kinh Thánh đầy ghi chú chằng chịt, Myuri gọi.
“Chỗ này là đâu vậy? Đây là bản đồ thế giới, đúng không?”
Myuri đang đứng trước một tấm bản đồ lớn treo trên tường.
Bản đồ được vẽ trên một mảnh da duy nhất, đủ lớn để quấn quanh người Myuri. Nó không phải da cừu, mà có lẽ là toàn bộ tấm da của một con bò non.
“Chúng ta đang ở chỗ này.”
Giáo tỉnh lớn ở phía nam, nơi Giáo hoàng cư ngụ, nằm giữa bản đồ. Dựa vào đó, Atiph sẽ nằm khá xa ở góc trên bên trái.
“Thế còn Nyohhira ở đâu?”
“Đi ngược dòng sông từ Atiph, ở đây này.”
Col chỉ vào mép bản đồ, ngay dưới bộ râu của hình mặt trời trang trí có gương mặt người.
“Ah-ha-ha. Ở tận rìa thế giới luôn.”
“Thế mà người ta ở đó vẫn sống nhộn nhịp như vậy ha.”
“Hồi xưa anh cũng từng đi xa phải không? Khi đó là ở đâu vậy?”
“Ừm…” cậu thành thật trả lời, nhưng sự tò mò của Myuri dường như không có hồi kết. Một tiếng gõ cửa cắt ngang họ, và Col vui vẻ đón nhận sự gián đoạn đó.
“Myuri, đừng nhìn bản đồ nữa, thay đồ đi.”
Đến là một bộ quần áo con trai và những viên kẹo đường việt quất mà Hyland đã dặn Stefan chuẩn bị.
“Ôi, tuyệt quá!”
Tất nhiên, thứ khiến cô bé phấn khích không phải là bộ đồ con trai. Tai và đuôi của cô bật ra mạnh đến mức cậu gần như nghe thấy tiếng, và khi cô nhào tới, cậu vội vàng quay người cô lại.
“Em chỉ được ăn sau khi thay đồ xong thôi.”
Vì chênh lệch chiều cao khá nhiều, nên khi cậu giơ khay kẹo lên cao, Myuri không thể với tới. Cô bé nhìn cậu với vẻ đáng thương, nhưng khi cậu lắc đầu, nét mặt cô bé lập tức chuyển sang cau có. Với thay đổi biểu cảm nhanh như chớp ấy, cô bé giật lấy bộ quần áo.
“Hừ, phiền phức thật…”
Cô bé càu nhàu rồi đi thay đồ, và khi cô bé bắt đầu cởi đồ một cách hờ hững, cậu dĩ nhiên phải rời khỏi phòng.
“Gì vậy? Nhưng lúc tắm anh vẫn nhìn em mà!”
Myuri thắc mắc, nhưng vấn đề không nằm ở đó. Col tựa lưng vào cánh cửa và thở dài.
Mẹ của Myuri, Holo, gần như chẳng bao giờ ngại khoe da thịt, điều đó dĩ nhiên rồi, vì cô là hiện thân của loài sói.
Và vì vậy, nếu cậu quá phản ứng thì chẳng khác nào tự nhận là có ý đồ đen tối. Nhưng nghĩ kỹ lại, không, Myuri nên là một thiếu nữ đoan trang.
Tuy nhiên, khi nhìn thấy Myuri khỏa thân không có làn hơi nước mờ ảo của suối nóng Nyohhira che phủ, mọi thứ lại hơi khác. Từ lúc nào đó, những đường nét gầy gò, góc cạnh trên thân hình nhỏ nhắn và khá cơ bắp ấy đã bắt đầu mềm mại hơn. Dù cô bé chưa thực sự trưởng thành, nhưng Col đã có thể mường tượng được điều gì đang tới.
Cậu vừa mừng vì cô bé đang lớn lên đúng cách, vừa cảm thấy hơi buồn mà chẳng rõ lý do.
“Ôi ông anh thẹn thùng, em thay đồ xong rồi đây!”
Trong lúc đang ăn kẹo mà chẳng để tâm gì, Col nghe thấy tiếng gọi đầy vô tư từ sau cánh cửa.
Khi mở cửa bước vào phòng, cậu thấy một bé trai xinh xắn đang đứng đó.
“Ê-he-he, trông thế nào hả?”
“…Anh ngạc nhiên thật đấy. Đúng là vẻ ngoài quan trọng thật.”
Mặc dù bộ quần áo được may tinh xảo góp phần không nhỏ, nhưng chính chiếc quần được là phẳng, tay áo bó gọn, chiếc áo gi-lê mỏng không tì vết, cùng với dải dây dài quấn quanh eo mới khiến cô bé trở thành hình ảnh sống động của một cậu thiếu niên phục vụ bên cạnh một thương nhân vĩ đại.
“Nhưng tóc em thì sao đây? Em chỉ cần buộc lên giống anh là được chứ gì?”
Mặc dù Col để tóc dài vì lười cắt, nhưng tóc Myuri còn dài hơn nhiều.
“Có lẽ tốt nhất là nên tết gọn lại.”
“Okay.”
Cô bé kéo chiếc ghế từ dưới bàn đến chỗ Col, rồi thò tay giật khay kẹo từ tay cậu.
Sau đó, Myuri ngồi vào ghế, quay lưng về phía cậu.
“Mm.”
Cứ như thể cô đang ra lệnh cho anh tết tóc vậy. Anh không còn sức mà giận nữa.
Col lấy chiếc lược từ đồ của Myuri và bắt đầu chải tóc cho cô bé khi cô đang nhai kẹo đầy miệng một cách vui vẻ.
Những sợi tóc mềm mại, mát mẻ một cách lạ thường. Vì tóc khá nhiều, cậu quyết định tết thành hai bím rồi xoắn chúng lại với nhau.
“Thật là… Chuyện này thật phiền phức.”
“Gì cơ, ý em là việc chăm sóc em tốn nhiều công sức à?”
“Không phải!” Myuri nói, ngả người ra sau ghế để nhìn anh ngược từ dưới lên. “Ý em là việc phải giấu tai và đuôi, rồi còn phải giấu mình là con gái nữa.”
“Đó là cách thế giới vận hành. Ngồi thẳng lại đi nào.”
Cậu chọc vào đầu cô bé, và cô bé ngoan ngoãn ngồi lại ngay ngắn. Đã lâu rồi cậu không tết tóc cho cô bé, và làm điều đó lại khá thú vị. Trước kia, cô bé thường xuyên bắt cậu tết tóc cho mình. Khi cậu nhớ lại khoảng thời gian cô bé đã ngừng làm thế, Myuri lại cất tiếng.
“Anh trai này?”
“Gì vậy?”
Cậu vừa hoàn thành một bím tóc, vừa cầm lấy lọn tóc tiếp theo. Cậu chải lại tóc lần nữa, nhưng Myuri không nói gì tiếp theo.
“Có chuyện gì sao?” cậu lại hỏi, và bàn tay đang cầm viên kẹo của cô bé khựng lại. Giọng cô bé trở nên khó đoán.
“Trên bản đồ kia… có nơi nào em không cần phải giấu tai và đuôi không?”
Tay Col dừng lại ngay lập tức. Cậu ngẩng lên nhìn, và trước mặt Myuri là tấm bản đồ thế giới khổng lồ. Ngay cả một thành phố lớn như Atiph cũng chỉ chiếm một góc nhỏ trên bản đồ, và còn không chắc Nyohhira có nằm trên đó hay không. Thế giới quá rộng lớn, với vô vàn khả năng.
Và rồi cậu nhận ra một điều.
Có lẽ đó chính là lý do khiến Myuri muốn rời khỏi Nyohhira.
“Chuyện đó thì…”
Nhưng lời nói nghẹn lại nơi cổ họng.
Myuri gần như chưa từng được ra khỏi phòng trong nhà tắm cho đến khi cô bé đủ lớn để hiểu chuyện. Khi được phép ra ngoài, toàn thân cô bé đều bị quấn kín vải, chỉ để lộ khuôn mặt.
Cha mẹ cô bé nói với mọi người rằng cô bé yếu ớt, không chịu được hơi nước từ nhà tắm, nhưng thật ra là để giấu tai và đuôi.
Khi Myuri hiểu ra mọi chuyện, mẹ cô bé Holo đã kể cho nghe về dòng dõi của mình, về khái niệm bị quỷ ám, và rằng nếu bị phát hiện, họ sẽ không thể tiếp tục ở lại Nyohhira.
Cậu vẫn nhớ như in ngày đó, ngày mà Myuri biết sự thật và chạy đến tìm anh trong nước mắt với câu hỏi:
“Không ai muốn làm bạn với em nữa sao?”
Là người mơ ước trở thành linh mục lẽ, ra cậu nên trả lời: Khi em đau khổ, khi em buồn, khi em cô đơn, nếu em ngước nhìn lên bầu trời, em sẽ thấy người bạn đồng hành vĩnh cửu của mình. Nhưng khi đó, cậu đã nói điều khác.
“Ít nhất thì, dù có chuyện gì xảy ra với anh, anh vẫn luôn là bạn của em.”
Ngày hôm đó, Myuri đã biết rằng thế giới này là một nơi tối tăm và lạnh lẽo, và cô bé đã tuyệt vọng tìm kiếm điều gì đó để bấu víu. Cậu hiểu rằng, để những lời của mình chạm được đến trái tim cô bé, cậu cần một niềm tin mạnh mẽ hơn cả đá tảng. Linh cảm mách bảo rằng cậu phải nói ra điều mà cậu thực sự tin tưởng—những lời chỉ đại diện cho chính bản thân cậu. Cậu không thể thay mặt cho cha cô bé, Lawrence, chứ đừng nói đến một vị thần chưa từng để mắt đến cậu.
Chỉ cần cậu nói bằng trái tim mình, đó đã là một lời hứa vững chắc.
Khi ấy, Myuri đã mỉm cười. “Em vui lắm,” cô bé nói và cười.
Kể từ ngày đó, Myuri đã chấp nhận số phận, học cách giấu đi đôi tai và chiếc đuôi của mình, và sống ở Nyohhira như một cô bé (gần như) bình thường. Cậu tưởng cô bé đã vượt qua tất cả từ lâu rồi, nhưng có lẽ mọi chuyện không dễ dàng như vậy.
“Chuyện đó thì…”
Đôi tay đang tết mái tóc cô bé của cậu vẫn dừng lại.
Cậu cảm thấy nếu nói dối hay an ủi sáo rỗng, Myuri sẽ cảm nhận được điều đó qua từng động tác tay.
Hơn hết, coi thường cô bé như một người dễ bị lừa dối là điều mang tính xúc phạm.
“Chắc là khó lắm nhỉ.”
Thế giới được vận hành bởi Giáo hội, khi mà ngai vàng của Giáo hoàng nằm ngay trung tâm bản đồ. Ngay cả ở những nơi tôn trọng truyền thuyết địa phương, việc chấp nhận những người không phải con người vẫn là một canh bạc.
“Myuri, nhưng mà—”
“Không sao đâu,” Myuri nói, ngả người nhìn lại cậu. “Giống như mẹ có cha, em có anh mà. Đúng không?”
Nụ cười của cô bé đã trưởng thành hơn xưa. Cô bé đang cố gắng vặn vẹo cơ thể theo cách ngốc nghếch, và cậu nhận ra đó là cách cô bé giấu đi sự nghiêm túc trong lòng mình.
“…Phải. Anh bất ngờ là em vẫn nhớ, dù lúc nào cũng chẳng chịu nghe lời anh nói.”
Giống như Col và Lawrence, thế giới này vẫn sẽ luôn có những người hiểu được. Miễn là Myuri tìm được những người bạn như vậy, cô bé sẽ ổn.
Myuri nhắm mắt, nhăn mày, nhe răng với cậu. Cô bé ngả người ra sau như sắp ngã, và cậu vội đỡ lấy, nhưng có vẻ cô đã tin rằng cậu sẽ làm như vậy.
Vẫn nhắm mắt, Myuri có một vẻ mặt khá bình thản.
“Thế thì không sao cả. Chúng ta luôn bên nhau mà.”
Cô bé mở mắt, mỉm cười ngượng ngùng, rồi ngồi thẳng lại.
“Thôi nào, anh, nhanh lên tết tóc cho em đi. Em còn muốn đi xem hội chợ trong thị trấn nữa.”
“Hội chợ? Chúng ta không đến đây để vui chơi đâu,” Col quở trách.
Dù đôi vai gầy của cô bé run lên vì cười, nhưng từ phía sau, Myuri trông hơi cô đơn. Không giống mẹ mình là Holo, cô bé vẫn chưa sống qua hàng thế kỷ. Dù có thể khiến cả người lớn lúng túng trong tranh luận, cô bé vẫn chỉ là một cô bé nhỏ tuổi như vẻ bề ngoài. Từ giờ trở đi, cô bé sẽ phải trải qua nhiều khó khăn và thử thách. Cậu không thể bảo vệ cô bé khỏi tất cả, nhưng cậu muốn làm hết sức mình.
Cậu tết những cảm xúc ấy vào mái tóc của Myuri.
Cả hai đều không nói một lời.
Họ dành thời gian trong im lặng.
Khi Myuri chuẩn bị xong, họ đến gặp Stefan để hỏi về Sách Lời Chúa của Chúng ta, nhưng trước văn phòng vẫn đông đúc không khác gì khu bốc dỡ hàng hóa.
“Anh ơi, chỗ này là gì vậy?”
Rất nhiều người với đủ kiểu dáng từ sang trọng đến lam lũ đứng trước văn phòng của Stefan ở tầng một, và ai cũng mang vẻ mặt nghiêm trọng. Nhiều người còn đi cùng người hầu, và với việc các cậu bé sai vặt của Công ty Debau chạy loanh quanh nhận yêu cầu, nơi này trở nên chật chội hơn mức cần thiết.
Từ những gì Col nghe được từ cuộc trò chuyện, có vẻ mọi người đều đến để đưa ra các yêu cầu khác nhau.
Đang vào dịp thay mùa, có lẽ mọi người đến xin tiền trợ cấp.”
Có những người từ làng quê gần đó đến vay tiền để bổ sung hàng tồn kho đã cạn kiệt trong mùa đông, và cũng có những hội thợ thủ công muốn tăng hạn mức mua sắm. Cũng có cả những thương nhân đến từ vùng xa, mang theo quà lưu niệm.
Mùa đông đã kết thúc từ lâu vào thời điểm này trong năm ở phương nam, và thời gian đang chuyển động trở lại. Những thị trấn và làng mạc phía bắc, nơi cảng và đường xá đóng băng vào mùa đông, cần phải lấp đầy kho dự trữ, chuẩn bị cho lễ hội, đồng thời gieo hạt cho mùa xuân.
Bốn mùa thay đổi với tất cả mọi người, nhưng điều đó không có nghĩa là hàng hóa được phân phối đồng đều.
Và vì thế, mọi người tụ tập tại các công ty lớn như thế này với hy vọng giành được chút lợi thế.
“Mọi người đều đến gặp ông ta sao? Một người quan trọng như vậy lại ra tiếp anh nữa.”
“Em đổi ý về ông ta rồi hả?”
“Ừ. Em vừa nghĩ là mẹ và cha đã từng giúp đỡ ở một nơi thật tuyệt vời.”
Myuri mỉm cười với cậu, và cậu cũng mỉm cười đáp lại.
Vài giây sau, cô bé nói vui vẻ: “Anh đừng có cau có thế chứ.”
Trong lúc trò chuyện, Col đã kéo một cậu bé lại và trình bày lý do họ đến. Thường thì họ phải chờ đến lượt, nhưng nhìn kiểu gì thì cũng không ai đang theo thứ tự. Một nhóm đàn ông, rõ ràng đến từ quốc gia khác—với đầu quấn khăn, cổ đeo vàng, da rám nắng—vừa từ phía sau bước ra thì đã được gọi vào văn phòng.
Là tiền bạc? Quyền lực? Địa vị?
Chúa sẽ không trừng phạt Col nếu cậu dùng ảnh hưởng của Hyland, cũng như mối quan hệ với Lawrence và Holo.
Cậu bé giúp việc len qua đám đông và vào văn phòng, rồi quay lại không lâu sau đó.
“Mọi người đến quá đột ngột, nên họ đang xử lý lượng yêu cầu lớn hiện tại.”
Cậu không thể trách họ. Mọi chuyện đang quá hỗn loạn.
“Vậy thì chúng tôi sẽ tập hợp người và dụng cụ.” Chàng linh mục tập sự tuyên bố ý định, rồi tiếp lời. “Chúng tôi lo các khoản thanh toán cho các vị nhé?”
“Chúng tôi sẽ chi trả tất cả các khoản chi của các vị, thưa Ngài Col.”
“Cảm ơn cậu,” Col đáp, rồi ra hiệu bằng mắt cho Myuri và rời khỏi tòa nhà đông đúc.
Bên ngoài cũng ồn ào không kém, nhưng không có mái che, không khí như vô tận.
“Wow, anh ơi, anh có nghe không?”
Đó là điều đầu tiên Myuri nói khi ra ngoài.
“Họ nói sẽ trả tiền hết á. Vậy nên anh không cần lo về khoản tiết kiệm của mình đâu.”
“Chúng ta không ra phố để mua đồ ăn vặt.”
“Ơ, tại sao vậy ạ?”
“Trả tiền giúp là cách họ thể hiện sự kính trọng. Ta nên cư xử sao cho xứng đáng với sự kính trọng đó. Nếu cứ suốt ngày đòi ăn vặt rồi bắt họ trả tiền, em nghĩ họ sẽ nghĩ gì về chúng ta?”
“Ừm… Là chúng ta đói bụng…”
“…”
Cậu bắt đầu cảm thấy nhức đầu và chỉ lẳng lặng bước tiếp.
“Tiết chế không chỉ là giảm bớt số lượng. Đó là một bổn phận đạo đức, là phải biết kiềm chế bản thân, không để bị lôi kéo bởi ham muốn—từ những thứ em muốn ăn, uống hay mua,” cậu nói. Cậu cũng chợt nhận ra sự khác biệt giữa tiết chế và keo kiệt. “Thế nên kẻ hà tiện không phải là người biết tự điều chỉnh, mà là kẻ bị ám ảnh bởi việc thu vén mọi thứ—trong trường hợp này là tiền bạc. Em hiểu chứ?”
Cậu từng nghe rằng bài giảng không chỉ để khai sáng cho người khác mà còn là để khai sáng cho chính mình, nhưng đây là lần đầu tiên cậu thực sự cảm nhận được điều đó.
“Chắc là em có hiểu một chút đấy…”
Cô bé đi đến bên cạnh cậu, khuôn mặt tỏ vẻ không vui hơn cả trước đó.
“Vậy là tiết chế chẳng mang lại gì cả, đúng không? Vậy sao phải làm thế?”
“À.”
Đây không phải là một trong những câu hỏi mà cô bé cố ý đưa ra để làm khó cậu. Cậu biết ngay rằng đó là một sự nghi hoặc thật lòng. Thế nhưng câu hỏi thẳng thắn ấy lại có chiều sâu kinh ngạc.
Tại sao? Vì điều gì?
Nhiều câu trả lời có vẻ hợp lý đã lên tới đầu lưỡi, nhưng tất cả đều không đúng.
Trong lúc đang bước đi, mải mê suy nghĩ, suýt chút nữa cậu bị một chiếc xe ngựa tông phải. Người túm lấy tay áo cậu và dốc toàn lực kéo ngược lại chính là Myuri.
“Anh trai ngốc quá đi mất!”
“Anh xin lỗi.”
Tuy nhiên, lời xin lỗi đó không phải là vì suýt bị xe tông. Mà là vì cậu không thể trả lời được câu hỏi đơn giản của cô bé.
Tầm quan trọng của tiết chế, dĩ nhiên, được Kinh Thánh răn dạy, cũng như được coi là một đức hạnh. Nhưng có rất nhiều điều tốt không được viết trong đó. Khi cậu cố nghĩ tại sao tiết chế lại là điều đúng đắn, cậu cảm thấy như thể… lý do ấy không tồn tại.
Nếu có, thì có lẽ chỉ là một điều duy nhất.
“Có lẽ, chỉ đơn giản vì nó có vẻ đúng.”
Myuri nhìn cậu với vẻ nghi ngờ.
“Chắc chắn có những người không chịu nổi, nhưng ngay cả họ hẳn cũng hiểu được sự tốt đẹp của tiết chế.”
“…”
Cậu lại tự hỏi bản thân lần nữa, bỏ ngoài tai biểu cảm nghi hoặc của Myuri dần chuyển sang lo lắng.
Có lẽ, việc mù quáng theo đuổi một quan điểm chỉ vì nó được cho là lẽ thường là sai lầm.
Cậu chợt nhớ đến một triết gia cổ từng nói rằng: cái gì tự nhiên thì cái đó là thiện.
“Nhưng nếu thế thì lời khấn khiết tịnh sẽ thế nào…?”
Hôn nhân là chuyện đáng mừng, nhưng giới giáo sĩ lại khuyên phải dẹp bỏ ham muốn tự nhiên gắn liền với nó.
Vậy việc không có dục vọng có phải là tự nhiên?
Ai sẽ đồng ý rằng tiết dục là điều tự nhiên?
“Hmm…”
Khi một người bắt đầu chất vấn những điều mình vẫn coi là lẽ thường, họ có thể phát hiện ra những thứ trước giờ chưa từng nghĩ đến đang nằm trên con đường phía trước. Khi cậu còn đang đứng giữa phố, suy nghĩ miên man, có người kéo tay áo cậu.
Là Myuri, với đôi mắt long lanh sắp khóc.
“Anh ơi… Em sẽ không đòi hỏi ích kỷ nữa đâu, nên anh tha thứ cho em nhé…”
“Gì cơ?” cậu hỏi lại, và cô bé liền nhào đến ôm lấy cậu. Có vẻ cô bé nghĩ việc cậu dừng lại đứng bất động là vì giận chuyện cô bé muốn mua đồ ăn. Cậu nhìn xuống Myuri đang bám lấy mình, một ý nghĩ chợt lướt qua tâm trí.
Có lẽ lần sau, cô bé sẽ nắm tay mình.
“À, anh chỉ đang nghĩ nhiều quá thôi,” cậu nói, rồi đặt tay lên đầu Myuri, xoa tóc cô bé để trấn an. Nhưng vì câu hỏi bất ngờ đó mà đầu óc cậu cứ quay vòng như một con chim không tìm được cành cây để đậu xuống.
Dù đang thấy bất an và hoang mang, cậu lại có chút háo hức chờ xem con chim ấy sẽ bay về đâu.
Thành phố này được chia thành các khu, với quảng trường ở trung tâm, nên nếu có ai bị lạc thì chỉ cần tìm tháp chuông, thứ có thể nhìn thấy từ mọi nơi, là sẽ quay lại được quảng trường. Một bố cục rất hợp lý.
Col bước đi, Myuri theo sau, không còn mè nheo đòi đồ ăn nữa, và cả hai hướng về khu phố thợ thủ công. Với vị thế là một thị trấn cảng, Atiph có vô số xưởng làm gỗ. Dưới mái hiên của một xưởng cưa, nhựa cây đen đặc được quét lên các thanh gỗ. Col nghĩ rằng Myuri, người từng trốn trong một thùng nhựa cây như thế, sẽ nhăn mặt vì mùi quen thuộc, nhưng cô bé lại nhìn công việc chăm chú.
“Thì ra là dùng như vậy nhỉ.”
“Hình như người ta dùng thứ này để chống nước và chống mốc. Trên mấy tàu buôn đi xa hay tàu ra trận, họ dùng nó để đóng gói thịt để không bị hỏng.”
“Ồ. Mùi khói như vậy chắc ăn sẽ ngon lắm.”
Ra là vậy… tùy theo góc nhìn mà thôi, cậu nghĩ.
Cả hai tiếp tục đi đến khu xử lý da thú. Ở những xưởng mở tại tầng một ngoài trời, các thợ thủ công đang làm từng công đoạn thuộc da và chế tạo dây da.
Một hàng lông chồn trắng sắp ngay ngắn, trông rất ấm áp, và cậu tự hỏi không biết quý tộc nào sẽ mua chúng.
Cứ thế đi tiếp, họ đến một tiệm treo một tấm da bò khổng lồ ngay trước tường quay ra phố, chắc hẳn chủ tiệm dùng thay bảng hiệu.
“Có phải da như vậy dùng để làm bản đồ không anh?”
Myuri ngửi tấm da, và một người đàn ông đang loay hoay với cán dao cạo trong xưởng chú ý đến họ.
“Cần gì à?”
Myuri ghé tai Col thì thầm, “Da của ổng chắc cũng bán được đấy,” khiến cậu suýt bật cười. Gã đó quả thật là một thợ thủ công rậm rạp, to bè cả chiều ngang lẫn chiều cao, chẳng khác gì một con gấu.
“Không hay thấy một linh mục trẻ và cậu nhóc chạy việc của công ty Debau đi cùng nhau đâu. Hai người đến tìm giấy viết à?”
Col khẽ cụng đầu cô bé Myuri nghịch ngợm rồi hắng giọng, đáp:
“Tôi cần giấy vụn, mực, giấy da và phấn bột.”
Cậu định mài nhỏ bột phấn rồi chà vào giấy da không bằng phẳng để làm mịn nó.
“À, để tôi lo cho!… là điều tôi muốn nói, nhưng hôm qua mới nhận một đơn hàng lớn, nên bọn tôi đang làm thêm giấy da đây.”
Gã thợ giống gấu nhún vai, vẫy tay về phía tấm giấy da đang đặt trên bàn làm việc.
“Tấm này tôi sẽ cắt ra được năm tờ. Thợ bình thường chỉ cắt được ba thôi đấy.”
Gã cứ thế khoe khoang tay nghề của mình, mà thật sự năm tờ là con số ấn tượng. Vì giấy da được làm từ da động vật, khác với giấy vải cũ, nên độ mỏng của từng tờ phụ thuộc vào kỹ năng người làm.
“Những xưởng khác cũng đang bận rộn vì các đơn hàng tương tự sao?” Col hỏi, và gã thợ gấu ngẩn người giây lát, rồi phá lên cười.
“Cha chắc đến từ thành phố lớn rồi. Ở cái thị trấn này, chỉ có xưởng tôi và hội thợ của tôi là làm giấy da thôi. Đây không phải là nơi có hàng ngàn công chứng viên lúc nào cũng đặt hàng giấy tờ đâu.”
“Vậy à…”
Nếu vậy thì đã xảy ra chuyện gì?
Cậu khẽ rên rỉ, và gã thợ gấu chợt như nhớ ra điều gì đó.
“Ơ khoan, nhắc mới nhớ, đơn đặt hàng hôm qua là gửi cho công ty Debau thì phải.”
“Gì cơ?”
“Ừ, đúng rồi. Giờ tôi mới nhớ. Có cả nhóm ăn mặc đẹp đẽ tới đây, hỏi mua hết số giấy bọn tôi có… Tôi mừng quá vì bán sạch giấy da nên quên khuấy mất.”
Với thông tin rằng một nhóm người ăn mặc sang trọng đã đến gom toàn bộ giấy da để gửi về công ty Debau, trong đầu Col chỉ hiện ra một khả năng duy nhất.
Ngay lúc đó, một ông lão gầy gò với bộ râu trắng, trái ngược hoàn toàn với gã thợ gấu, bước ra từ bên trong tiệm.
“Ồ, có khách à.”
“Ơ, Sếp Già ơi, người đặt đơn hàng lớn hôm qua là ai ấy nhỉ?”
“Ể? Cái đầu anh lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện xẻ da sao cho mịn nhất à? Làm ăn kiểu đó thì mãi chẳng khá lên nổi đâu. Đơn đặt hàng đó là từ một quý tộc ở Vương quốc Winfiel đấy.”
Vậy là từ Hyland.
“Thật á? Một quý tộc ở đảo quốc ra tận đây làm gì vậy?”
“Trời ơi... Chẳng phải ta đã bảo anh phải chịu khó đi họp công hội rồi sao? Anh còn nhớ chuyện vương quốc đang tranh chấp với Giáo hội về thuế thập phân chứ? Vương quốc cho rằng thứ thuế đó quá vô lý, và vị quý tộc này là người phát ngôn cho họ. Hắn đến để thuyết phục Giáo hội ở Atiph hợp tác. Có vẻ như hắn muốn lấy lòng dân chúng trước, nên mới đến gặp từng công hội. Cả sáng nay ta cũng vì vậy mà bận rộn đây.”
“À… Vậy à…”
Gã thợ thủ công trông rõ là chẳng mấy quan tâm, cứ nhìn chằm chằm vào cái dao cạo. Nhìn cảnh đó, Col lại thấy thông cảm với ông già râu dài hơn.
“Vậy à? Anh chỉ nói thế thôi à? Đồ ngốc. Nếu quý tộc đó thành công, thì chúng ta không còn phải nộp thuế cho Giáo hội nữa đâu.”
“Ồ, thế thì tốt quá. Người ta đồn mấy bữa tiệc của giáo hoàng xa xỉ lắm. Không phải móc hầu bao nuôi họ nữa thì còn gì bằng.”
Cách nói thì có phần thô lỗ, nhưng những gì ông thợ nói có lẽ chính là suy nghĩ thật lòng của người dân nơi đây.
“Nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến đơn hàng chứ?”
Vừa vuốt lưỡi dao, ông già lập tức lấy tay gõ vào đầu gã kia một cú rõ đau. Một tiếng cốc vang lên giòn giã.
Rồi ông quay lại phía hai người họ, nheo mắt như thể đang nhìn vào ánh sáng chói lòa.
“Nếu cha dẫn theo một cậu bé của Công ty Debau, vậy là cha đến giúp quý tộc đó sao?”
“À, vâng.”
“Trời ạ, tôi đã biết về vương quốc từ lâu rồi, nhưng hôm nay mới thật sự được khai sáng trong buổi họp. Nhất là Trữ quân Hyland kia đúng là một con người tuyệt vời. Ngài ấy nghĩ ra những điều mà tôi chưa từng tưởng tượng nổi,” ông già vừa nói vừa bắt tay Col, rồi tranh thủ nắm luôn tay Myuri và cúi đầu thật sâu.
“Chúng tôi, những con người thấp cổ bé họng, xưa nay cứ tưởng chuyện của Giáo hội hay vương quốc nào có liên quan gì đến mình. Nhưng không ngờ có ngày Kinh Thánh lại được dịch sang ngôn ngữ thường dân, lại còn khuyến khích chúng tôi tự mình đọc những lời dạy của Chúa! Thật là điều kỳ diệu.”
Nói đến đó, ông bắt đầu nghẹn ngào.
“Thứ lỗi cho tôi… Dù sao thì, chúng tôi đã quá ngán ngẩm sự xa hoa và thiếu tiết chế của Giáo hội cùng Giáo hoàng rồi, nhưng cũng chẳng có đủ sức để phản kháng. Đây là một thị trấn cảng. Chỉ có Chúa mới biết liệu sẽ có tai nạn khi ra khơi. Nếu bị lệnh cấm hết các hoạt động tôn giáo, thì nguồn sống của thị trấn này cũng sẽ lụi tàn. Không có lòng tin mạnh mẽ, thì chẳng ai dám cho thuyền ra khơi trong gió rét mùa đông. Và tai nạn thì không bao giờ dừng lại. Ai sống ở đây cũng có người thân làm nghề biển cả hết.”
Sau khi thất bại trong việc thương lượng với Tòa Tổng Giám mục ở Lenos, thì có quá đủ lý do để chuyển sang Atiph. Người dân địa phương đặt tên thánh cho thuyền, chạm khắc tượng Đức Mẹ và các thiên thần lên mũi tàu để cầu bình an. Chỉ cần nhìn lượng cá tuyết và cá trích cập cảng là hiểu nơi này có bao nhiêu ngư dân. Hơn nữa, đây không phải là vùng biển ấm áp phía nam. Ngoài khơi kia là đại dương lạnh xám, rơi xuống là cầm chắc cái chết.
“Được giúp một tay là vinh hạnh lớn với chúng tôi. Như cha thấy đấy, tôi già rồi, còn con gấu kia thì chỉ trông cậy được vào tay nghề thôi.”
Xem ra ai cũng nhìn gã thợ kia như một con gấu. Myuri cúi đầu, cố nén cười.
“Bọn tôi đã bàn trước với các người bạn làm nghề chép văn bản rồi, nên cứ yên tâm để việc sao chép cho bọn tôi. Mỗi khi bản dịch của cha có tiến triển, bọn tôi sẽ làm ra nhiều bản sao hơn nữa, rồi phát tán khắp nơi cho thiên hạ thấy Giáo hội lố bịch đến mức nào!”
Những con người này và dân chúng nơi đây chưa bao giờ hoài nghi về sự bảo hộ của Chúa. Họ chỉ bất mãn với lối sống sa đọa của giới lãnh đạo Giáo hội, những kẻ đại diện cho Ngài nơi trần thế.
Col lại một lần nữa nhận ra rằng việc Vương quốc Winfiel đang làm không phải là man rợ, mà là điều cần thiết.
Thế giới mà cậu tin tưởng đang nằm ngay phía trước.
Giáo lý đích thực của Chúa là thứ mà Hyland đang hướng đến.
“Chúng ta cùng nhau cố gắng nhé,” Col nói, siết chặt tay ông già kia.
“Myuri, giờ em đã thấy Trữ quân Hyland tuyệt vời đến mức nào chưa?”
Col hỏi Myuri trên đường từ xưởng về, và cô bé khẽ gật đầu, dù có vẻ vẫn hơi miễn cưỡng.
Cả hai đi dạo quanh thị trấn thêm một lúc. Họ đứng trên đồi ngắm bức tường thành đang xây và mặt biển xám trước khi trở về thương hội.
Tối hôm đó, họ được mời dự bữa tiệc có Stefan chủ trì, với Hyland là khách danh dự. Trong bữa tiệc, những lời nói ra không tốt mà cũng chẳng xấu, nhưng Col có cảm giác Stefan khiêm nhường với Hyland không đơn thuần chỉ là khách sáo.
“Lạ thật. Khi nói chuyện với người dân trong thị trấn, ai cũng ngạc nhiên khi biết ta đang ở trọ tại thương hội Debau. Nghe nói ngài Stefan, chủ nhân thương hội, hình như là cùng quê với Giáo hoàng và có mối quan hệ sâu rộng nhờ việc chuyển hàng cho bên ấy. Thật khó tin khi ông ấy lại chấp nhận cho ta, người chống đối Giáo hội, tá túc. Nghe nói ông ấy chỉ miễn cưỡng đồng ý vì được cấp trên yêu cầu. Thương nhân như ông ấy thì luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu hơn là chính nghĩa. Kể cả khi không còn thuế thập phân, nếu Giáo hội hết tiền, thì số lượng giao dịch cũng sẽ giảm theo, và ông ấy chỉ nghĩ đến vậy thôi.”
Sau bữa ăn, Hyland gọi hai người vào phòng riêng. Col khi nãy mải giữ vẻ mặt vui vẻ nên không nhớ rõ mình đã ăn gì. Myuri thì ngược lại, ăn uống ngấu nghiến, lúc đầu còn than no quá không đi nổi, nhưng khi biết sẽ có kẹo, lại lon ton theo không chút ngượng ngùng.
“Thế là Công ty Debau rốt cuộc cũng không phải một khối thống nhất nhỉ,” Col nói.
“Một công ty lớn như vậy thì chẳng khác gì một vương quốc. Mong họ đồng lòng là điều bất khả thi, chưa kể họ còn là thương nhân. Gió xoay chiều nào là họ xoay theo chiều đó nhanh hơn cả chong chóng trên mái nhà cơ.”
Lawrence, người mà Col luôn kính trọng, từng là thương nhân, nên cậu chỉ cười nhẹ cho qua. “Dù vậy, khi tôi đến xưởng giấy để sắp xếp việc sao chép, nghe chuyện họ kể, tôi mới thật sự bị thuyết phục. Việc chấm dứt hoàn toàn các hoạt động tôn giáo đúng là sai lầm.”
“Ta cũng bất ngờ khi nói chuyện với các hội nhóm trong thị trấn, phản ứng của họ khác hẳn với Lenos. Cứ như tôi biến thành vị cứu tinh vậy.”
Hyland cười khẽ, giọng khàn và nâng ly rượu lên môi.
“Nơi này vốn là đất ngoại đạo. Thị trấn được lập nên bởi những người từ phương nam đi thuyền đến định cư. Họ sợ thế giới bên ngoài tường thành. Họ tin rằng trong lòng biển sâu có quái vật, và con người bất lực trước chúng. Niềm tin vào Chúa ở đây mạnh mẽ hơn nhiều nơi khác. Nhưng mà…”
Hyland mỉm cười hiền hậu, tựa cằm lên tay, khuỷu tựa vào ghế, nhìn Myuri. Cô bé chẳng mảy may quan tâm gì đến thần thánh, chỉ ôm khay táo sấy tẩm đường mà gặm rôm rốp. Những món ngọt như vậy rất phổ biến vì tầng lớp giàu có hay mang theo khi lênh đênh ngoài biển dài ngày để xua đi nỗi chán.
“Con người phần lớn hành động vì lợi ích vật chất. Họ không chịu nổi khi phải đóng thuế.” Hyland liếc nhìn Myuri, người đã bám theo chỉ vì nghe nói có kẹo. “Các vị cũng đã thấy tường thành đang xây và con đường lát đá từ cảng rồi đấy.”
“Quả là một thị trấn tuyệt vời.”
“Chính xác hơn là nó đang cố gắng trở thành một thị trấn tuyệt vời. Hiện tại, họ đang kiệt quệ vì khoản thuế áp lên đầu. Dù hoạt động có vẻ tấp nập, nhưng thị trấn này chẳng giàu có gì mấy.”
Có vẻ như Công ty Debau đã cung cấp thông tin về chuyện đó.
“Thêm nữa, ngai giám mục tại thị trấn này có lịch sử khá ngắn và vị thế thấp trong Giáo hội. Quan trọng hơn, vị tổng giám mục tại đây chưa từng được bổ nhiệm tại một thành phố có nền kinh tế phát triển.”
Nụ cười của những người ở địa vị cao đôi khi lại lạnh lẽo đến tàn nhẫn.
“Ông ta vươn lên và cho rằng toàn bộ số tiền chảy vào Giáo hội là của mình. Thế nhưng, dân trong vùng lại đều nói ông ấy là người chăm chỉ làm việc.”
Tham lam mà lại tận tụy vì Giáo hội—hai điều đó chẳng thể liên kết nổi trong đầu Col.
Hyland nhìn cậu và bật cười.
“Col, ngài nên nhìn xa hơn thế giới trong sách vở.”
“…Tôi xin lỗi.”
“Ý ta là: một thanh trường kiếm có ưu điểm riêng, nhưng không thể dùng như đoản kiếm được.”
Hyland rót thêm rượu vào chén rồi tiếp tục nói.
“Ta chắc rằng ông ta chẳng phân biệt nổi giữa nhà thờ và nhà riêng. Cho nên, dù ông ta tận tụy hết mình với công việc thiêng liêng ấy, thì mặt khác lại coi nhà thờ như của riêng và sống chìm trong ích kỷ. Có lẽ bản thân ông ta cũng không thấy đó là ích kỷ. Nhưng từ bên ngoài nhìn vào thì rõ ràng. Dân trong vùng còn nói rằng người phụ nữ giàu có nhất thị trấn chính là vợ của tổng giám mục.”
“Chuyện đó…”
“Dĩ nhiên, bà ta không phải là vợ chính thức, nhưng ai cũng biết cả. Dù vậy…”
Hyland nhún vai.
“Không có gì vinh quang khi tấn công ta chỉ vì ta là con ngoài giá thú cả.”
Chuyện quý tộc hay hoàng thân giao du với những phụ nữ không phải vợ mình là điều không lạ, và ngay cả giới giáo sĩ từng thề sống độc thân cũng không khác là bao, một bí mật đã lộ rõ từ lâu.
Hiện thực chính là như vậy.
“Tuy nhiên, vị tổng giám mục ở đây lại không xử lý được việc đó một cách khéo léo. Cha ta từng bị ép cưới cháu gái của Giáo hoàng hay gì đó, nhưng người dân lại thấy tình yêu đích thực giữa ông và mẹ ta. Mà bản thân ta cũng thấy ông là một người rất có sức thu hút.”
Lời nói của Hyland mang hàm ý nào đó, và Col hiểu ngài ấy muốn nói gì.
“Mặt khác, vì quá tận tụy với công việc, tổng giám mục trở nên độc đoán. Việc nắm quyền lực là điều cần thiết, nhưng có vẻ ông ta không hiểu điều đó. Ông ta rất nghiêm khắc với tính thất thường và ngoại tình, nhưng người dân lại đặt câu hỏi rằng: ông lấy tư cách gì để nói những lời như vậy với chính hành vi của mình? Khi ông ta thuyết giảng về sự tiết độ, người ta chỉ có thể cười nhạt mà nghe.”
Cả người thợ rèn to lớn kia cũng từng nói: các bữa tiệc tối ở nhà thờ lúc nào cũng xa hoa.
“Thế nhưng, người dân vẫn ghi nhận niềm đam mê công việc nơi ông ta khi ông khóc khi có người qua đời, khóc trong lễ cưới, khóc khi có trẻ ra đời. Chính vì thế, họ mới mong muốn làm gì đó để xoá bỏ những cảm xúc mâu thuẫn mà họ đang có với Giáo hội. Giới giáo sĩ thật sự khiến người ta lo lắng vì sự hai mặt của họ: sống sa hoa với đồng tiền bóc lột từ thuế má dân chúng, nhưng lại rất đáng tin khi cử hành thánh lễ.”
“Không phải vì người dân không muốn kính trọng họ.”
“Đúng hơn là, mượn lời của Chúa, họ muốn yêu quý những người ấy. À mà, ‘kính trọng’ chắc sẽ phù hợp hơn.” Hyland mỉm cười.
Một khi dòng nước đức tin chảy đúng hướng, thế giới sẽ trở nên sáng rõ hơn.
“Đó là lý do tại sao kế hoạch Sách Lời Chúa của Chúng ta lại được lòng dân đến vậy. Có người còn liên tục đòi ta cho xem những phần đã được dịch xong.”
“Khi tôi đến xưởng chuẩn bị giấy và mực, ông chủ cũng cổ vũ tôi nhiệt tình lắm.”
Hyland mỉm cười rồi ra hiệu cho người hầu đang chờ ở góc phòng. Rồi một chàng trai trẻ trạc tuổi Col, có dáng vẻ là một công chức, liền đưa đến một bó giấy da .
“Phụ vương ta đã đồng ý với kế hoạch này từ rất sớm và hiện đang tập hợp các giáo sĩ rỗi rãi khắp đất nước, chủ yếu dưới danh nghĩa giảng dạy về giáo lý. Không làm thì không có gì ăn, mà họ lại có thiện cảm với phụ vương tôi nên mọi chuyện đang tiến triển thuận lợi. Tuy nhiên, những kẻ sống mãi trong tháp ngà thì gặp khó khăn với văn nói bình dân. Họ rất muốn nghe ý kiến từ các học giả từ phía phản đối.”
Dù ngài ấy không dùng từ “hiền nhân”, việc bị gọi là “học giả” cũng khiến Col thấy không thoải mái.
Dường như hiểu được cảm xúc đó, Hyland bật cười.
“Col. Ta cũng xem khiêm nhường là một đức tính, nhưng ngài sẽ thấy người khác nhìn nhận ngài thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai là người cất tiếng trước.”
Ngài ấy đang bảo cậu hãy tự hào về bản thân.
“Tôi sẽ cố gắng hết sức.”
Hyland mỉm cười nhẹ nhõm.
“Bản dịch đang tiến triển tốt, và những phần đầu đã được chép ra đây rồi, nhưng ta muốn ngài thúc đẩy nhanh hơn nữa. Khi ta gửi chúng về nhà, đó sẽ là một sự giúp đỡ rất lớn.”
Cảm giác choáng ngợp là điều không tránh khỏi, nhưng đây chính là đối mặt với một lý tưởng lớn lao. Col lấy hết quyết tâm và nhận lấy bó giấy da. Việc dịch kinh sách sang ngôn ngữ thông thường sẽ khai sáng cho dân chúng, và có thể xem đây là một cuộc chiến để sửa chữa những điều phi lý của Giáo hội. Khi nghĩ đến chuyện công việc này sẽ trở thành vũ khí, trở thành tấm khiên của mình, Col cảm thấy trọng trách đó càng nặng nề hơn.
“Tôi hiểu rồi,” cậu đáp lại đầy cương quyết, và Hyland nở nụ cười mãn nguyện.
“Và ta mong ngài làm việc chăm chỉ để đền đáp lại tất cả đống kẹo mà tiểu thư kia đã ăn.”
Với ánh mắt dịu dàng, Hyland nhìn Myuri đang liếm sạch đường dính trên ngón tay khỏi chiếc khay trống. Khi mọi người cùng nhìn cô bé trong lúc còn đang mút tay, đến chính Myuri cũng có chút ngại ngùng.
“Trước mặt ta, chỉ có những tên hề được bao bọc trong đặc quyền và con gái họ mới dám làm những điều như thế.”
“Tôi thành thật xin lỗi… Myuri!”
Col quở trách Myuri, và cô bé cúi đầu lườm lại một cách bướng bỉnh.
“Không sao đâu. Chúng ta đang dấn thân vào một cuộc chiến chống lại quyền uy. Mà quyền uy thì làm người ta mù quáng, tước đi khả năng suy nghĩ, và cả dũng khí để chỉ ra điều bất thường. Thật nói không ngoa khi nói rằng ta đặt nhiều kỳ vọng vào các vị. Nào… cô bé biết đọc không?”
Myuri ngơ ngác nhìn Hyland trước câu hỏi bất ngờ.
“Chữ viết bình thường. Chứ không phải chữ của Giáo hội đâu.”
“À, biết một chút ạ,” Col trả lời thay, khiến Hyland vui mừng.
“Vậy thì, chuyện này có thể hơi nhàm chán với các tiểu thư như em, nhưng ta muốn em đọc thử một chút kinh văn. Biết đâu em lại nhìn ra những chân lý vượt quá tầm với của bọn ta.”
Myuri ra vẻ tự hào, nhưng Hyland hẳn đã đánh giá quá cao cô bé.
“Trữ quân Hyland, điện hạ nói vậy chứ—” Col định góp ý.
“Không phải ta đang tâng bốc đâu. Ta có cảm giác gì đó về cô bé. Bà chủ nhà tắm nơi tôi từng ở cũng thế… Có khi nào cô ấy xuất thân từ một dòng dõi cao quý khong?”
Col khẽ giật mình trước lời suy đoán ấy. Nếu nói huyết thống của Holo và Myuri là danh gia vọng tộc, thì điều đó quả thực vượt khỏi tầm hiểu của loài người. Chỉ những dòng hoàng tộc quyền quý nhất thế giới mới dám tuyên bố có huyết thống từ thần thánh hay sinh vật siêu nhiên.
“Thấy chưa, anh? Người hiểu chuyện là hiểu liền ấy mà.”
Tuy nhiên, Myuri lại ưỡn ngực đầy tự hào, chẳng hay biết gì về lo lắng của Col. Không hề có một chút khiêm nhường nào.
“Ha-ha-ha. Tiểu thư này thật sự biết rõ cách vận hành của thế giới.”
Nếu cái đuôi cô bé để lộ ra, thì hẳn giờ này đang vẫy tít rồi.
“Đừng có tin vào bề nổi của lời người ta nói chứ,” Col cảnh báo, nhưng cô bé chẳng có vẻ gì là nghe theo.
“Thôi được, ta sẽ không điều tra đâu. Kinh Thánh cũng có dạy vậy mà.”
Chuyện ẩn giấu, rồi cũng sẽ bị hé lộ.
Lúc này chưa thể biết điều đó là tốt hay xấu.
“Và ta tin tưởng vào ngài.”
Col nghe thấy câu nói ấy với tai của một người từng đứng ở vị trí cao, quen thuần hóa thuộc hạ. Không phải vì Col có ác cảm gì với Hyland, vốn là quý tộc, nhưng nếu không tự nhắc mình rằng cậu và Myuri là người ngoài, họ sẽ bị cuốn phăng đi. Hyland là một con người đầy cuốn hút, và nếu được trở thành giáo sĩ sở hữu giáo đường riêng dưới quyền ngài ấy, thì hẳn sẽ rất tuyệt vời.
Tuy nhiên, cậu muốn hợp tác một cách chân thành nhất có thể, không mang lợi ích cá nhân. Vì điều đang được đặt cược, còn lớn hơn lợi nhuận của bất kỳ ai.
“Cho bước đầu tiên nhằm chỉnh đốn thế giới.”
Hyland chúc tụng và nâng cao ly rượu.


0 Bình luận