• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

One-shot

Chương 03: Mảnh vỡ quá khứ tại hòn đảo say ngủ

0 Bình luận - Độ dài: 17,723 từ - Cập nhật:

Sau khi kể hết những gì mình còn nhớ, tôi thở dài một hơi thật dài tới mức phổi như xẹp lại. Chúng tôi đã rời khỏi quán đồ ngọt ở tầng ba ga Sendai và đang ở trong một quán cà phê gần nhà ga. Phía tây của quán được lắp kính toàn bộ, nhìn xuống dưới có thể thấy dòng người qua lại.

“Chị Isuzu đó…”

Anh Kazuki ngồi đối diện tôi, uống nước ép đào và lẩm bẩm.

“Không biết chị ấy có gặp rắc rối gì không nhỉ. Gã đàn ông và cuộc điện thoại đó, thật đáng lo ngại.”

“… Em không biết ạ. Dù muốn biết, thì giờ cũng đã không còn có thể…”

Vừa trả lời, tôi có một cảm giác kỳ lạ. Tôi nhìn chằm chằm anh Kazuki đang uống nước ép bằng ống hút. Nhận ra ánh mắt của tôi, anh Kazuki nhướng mày “Sao thế?”.

“… Không ạ, trông anh có vẻ tin lời em nói. Em tự hỏi tại sao…”

“Ơ, vậy là nãy giờ xạo hả?”

“Không ạ, tất cả đều là thật. Nhưng người thường đâu có tin vào mấy chuyện kỳ lạ này. Nó phản khoa học, viễn tưởng này… Chẳng phải mọi người đều nghĩ như thế sao?”

Sau khi trở về từ năm 2070, tôi mới biết sự mất tích của mình đã gây khá nhiều xôn xao.

Sau khi bất tỉnh và được phát hiện tại mũi Thần Giáng, tôi đã được đưa đến bệnh viện. Cảnh sát, thầy cô trong trường,… nói chung là đã có rất nhiều người lớn thay phiên đến, hỏi tôi một tháng rưỡi vừa qua đã làm gì, đã ở với ai. Giọng điệu thì tỏ ra lo lắng, nhưng thực chất là đang rặn hỏi tôi. Tôi đã nói sự thật. Bởi tôi không phải là một đứa giỏi giấu giếm, cũng không phải là một đứa nhóc đủ thông minh để bịa chuyện.

Thế nhưng, không một ai tin câu chuyện tôi đã du hành đến năm 2070. Sau rất nhiều lần bị hỏi đi hỏi lại những câu tương tự, tôi nhận ra những người lớn đã suy diễn câu chuyện thành việc Isuzu đã bắt cóc tôi.

Tôi ra sức phủ nhận. Tôi giải thích rằng mình chắc chắn đã ở thị trấn Kuratsu của tương lai, rằng Isuzu đã ra tay cưu mang tôi như thế nào. Nhưng không một ai tin cả. Một viên cảnh sát sau khi nghe câu chuyện của tôi còn nở một nụ cười như đang dỗ dành một đứa trẻ đáng thương:

“Chuyện này nói ra cũng hơi khó… Nhưng chắc là cháu đã bị người phụ nữ kia lừa gạt rồi cũng nên.”

Kể từ đó tôi khóa chặt miệng. Bất kể có ai đến hỏi điều gì đi chăng nữa, tôi cũng không bao giờ hé nửa lời về khoảng thời gian mà mình đã mất tích. Cuộc điều tra về “kẻ bắt cóc” vẫn được tiến hành, nhưng một người sinh năm 2045 như Isuzu chắc chắn sẽ không thể bị bắt vào năm 2011 được. Dù có bị người lớn mắng mỏ ép phải kể rõ mọi chuyện, bị bạn bè trêu chọc, tôi vẫn nhất quyết im lặng. Một thời gian sau cuộc điều tra được dừng lại, thời gian trôi đi và vụ lùm xùm bắt cóc của tôi cũng dần chìm vào quên lãng.

“Đúng là nếu mới gặp nhau lần đầu mà kể câu chuyện đó, chắc anh cũng không tin được. Nhưng vì anh đã quen biết với em một thời gian, nên cũng hiểu em không phải là một người giỏi bịa chuyện.”

“… Em không biết nên buồn hay nên vui nữa ạ.”

“Với lại, chính anh cũng đã từng trải nghiệm nên anh biết. Rằng trên đời này đôi lúc sẽ xảy ra những chuyện vô cùng lạ kỳ.”

Anh Kazuki dùng ống hút khuấy ly, những viên đá bên trong ly thủy tinh va chạm vào nhau tạo nên những tiếng trong trẻo.

“… Trải nghiệm mà anh nói, là việc anh đã từng gặp người đến từ quá khứ ấy ạ?”

“Ừm.”

“Anh có thể… kể cho em câu chuyện đó không?”

Ừm, anh Kazuki khẽ gật đầu, sau đó lặng lẽ kể cho tôi nghe. Câu chuyện xảy ra vào mùa hè bốn năm trước, tại hòn đảo biệt lập mà anh Kazuki và anh Ozaki đã cùng nhau trải qua những năm tháng cấp ba.

Anh Kazuki đã gặp cô gái tên “Nanao” đến từ năm 1974.

“Để ý mới thấy, cả hai đều có số trong tên nhỉ. Số năm trong ‘Isuzu’[note78924], số bảy trong ‘Nanao’.”

Anh Kazuki tuy cười như thế, nhưng sâu trong mắt anh lại ẩn chứa nỗi đau. Chỉ cần thế thôi cũng đủ hiểu rằng mối quan hệ của cả hai người họ đã từng như thế nào.

Rồi một ngày, cô ấy đột nhiên biến mất trước mắt anh Kazuki và quay trở về thời đại của mình.

“Nếu năm 1974 cô ấy 16 tuổi, vậy năm nay cô ấy cũng được 63 tuổi rồi? Nếu vậy thì bây giờ vẫn…”

“Không.”

Giọng của anh Kazuki tĩnh lặng như một đêm đông tuyết phủ.

“Cô ấy đã mất rồi. Ngay tại thời điểm anh gặp cô ấy vào năm 2017, cô ấy vốn đã…”

Tôi đã không thể hiểu ngay ý nghĩa của câu nói đó. Đến khi hiểu được thì tôi đã không nói nên lời.

“… Nhưng tại sao ạ? Vì bệnh tật sao?”

“Ừm, nghe nói là bệnh nặng. Cô ấy mất khi còn khá trẻ.”

Dù có là sự trêu chọc của thời gian đi nữa, mọi thứ cũng thật quá đáng. Tôi thấy trong lòng nặng trĩu. Người mình đã gặp gỡ và trở nên thân thiết, thực chất đã mất ngay tại thời điểm ấy… Thế nhưng đôi mắt của anh Kazuki lại tĩnh lặng không chút gợn sóng.

“Nhưng khi đọc của lá thư sau này, cô ấy đã nói rằng điều đó có thể là lẽ đương nhiên. Việc hai người giống nhau cùng tồn tại ở một thời điểm là điều phi lí, thế nên sau khi phiên bản trưởng thành của cô ấy mất đi, phiên bản 16 tuổi của cô ấy mới có thể đến năm 2017.”

Sau đó như chợt nhận ra điều gì, anh Kazuki nhìn về phía tôi.

“… Xin lỗi. Anh không có ý ám chỉ đến em của năm 2070 đâu. Đây chỉ đơn giản là suy đoán của cô ấy thôi.”

Anh Kazuki quả thật rất nhạy bén và tinh ý., tôi chỉ có thể cười gượng và nói rằng mình không để tâm. Với lại, tôi đã từng nghĩ đến điều đó.

Khi tôi định tìm mình ở năm 2070, Isuzu đã ngăn tôi lại. Liệu tôi của tương lai vào lúc đó, có ở đâu đó tại Nhật Bản hay đâu đó trên thế giới? Nếu có thì sẽ thành ra phiên bản chín tuổi và phiên bản năm 68 tuổi của tôi cùng tồn tại vào một thời điểm. Một câu chuyện quả thật rất hoang đường.       

Vì vậy, tôi cảm thấy suy đoán của chị Nanao hoàn toàn có lý. Có khả năng tôi đã không còn sống vào năm 2070.

Nghĩ đến điều đó, tôi không thấy sợ lắm. Có thể đó là chuyện của tương lai xa vời nên tôi không có cảm giác gì mấy. Hơn nữa, kể từ khi đột ngột quay trở về từ năm 2070, tôi có cảm giác như mình chỉ đang sống cho hết phần đời còn lại vậy. Kể từ khi chia xa Isuzu, cảm giác đó đã luôn đeo bám tôi.

 “Em nói là có chuyện muốn hỏi anh… Cho anh hỏi trước có được không?”

Giọng điệu của anh Kazuki thay đổi một cách tinh tế. Một giọng nói cho thấy những màn hỏi han từ nãy đến giờ chỉ là một màn dạo đầu dông dài, và giờ anh ấy mới thực sự vào chủ đề chính.

“Nơi mà em đã đi đến vào năm 2070, là mũi Thần Giáng ở thị trấn Kuratsu nhỉ. Em có thể dẫn anh đến đó không?”

Aa, biết ngay mà. Nhìn vào đôi mắt thẳng thắn của anh Kazuki, lồng ngực tôi dâng trào một cảm giác nóng ran, vừa đau đớn, vừa xót xa. Cả hai chúng tôi đều ở đây vì muốn hỏi cùng một câu hỏi.

“Em có thể dẫn anh đến mũi Thần Giáng. Đó là nơi có thể tự do đi lại… Nhưng em không nghĩ nó có thể giúp anh du hành đến tương lai, hay về quá khứ đâu ạ.”

Thấy anh Kazuki định mở lời, tôi dùng ánh mắt ngăn lại, như muốn nói “Xin hãy nghe em nói hết đã”.

“Em đã thử rồi. Kể từ khi quay trở về từ năm 2070, em đã thử hàng chục, hàng trăm, thậm chí có thể là hàng nghìn lần. Mỗi ngày em đều đến mũi Thần Giáng, vì em muốn gặp Isuzu thêm một lần nữa… Nhưng không lần nào thành công.”

Đến giờ, tôi vẫn thấy đau đớn mỗi khi nhớ lại khoảng thời gian đó. Tôi bơi qua khe nứt của tảng đá khổng lồ, lòng không ngừng cầu nguyện. Thế nhưng đã không có chuyện gì xảy ra, một lần cũng không. Tôi lặp đi lặp lại cho đến khi tuyệt vọng, rồi bật khóc khi nhận ra rằng đó là điều không thể. Dẫu vậy, ngày hôm sau tôi vẫn cứ tiếp tục. Tôi chỉ hoàn toàn từ bỏ khi vào cấp ba, khi cảm xúc muốn gặp lại Isuzu đã hoàn toàn chai sạn.

“Em cũng không nghe ai khác có trải nghiệm tương tự. Và chính em cũng không hiểu, tại sao lúc đó mình lại đến được tương lai. Nên là, dù có muốn tái hiện điều đó thêm một lần nữa…”

“… Vậy sao.”

Anh Kazuki là người vốn ít khi thể hiện cảm xúc buồn bã mà thường chỉ bộc lộ niềm vui và sự lạc quan, vậy mà giờ vẻ mặt của anh chùng xuống thấy rõ. Nhìn dáng vẻ tuyệt vọng đến mức không thể che giấu của anh ấy, lòng tôi đau đớn.

“… Anh muốn gặp lại chị Nanao đó ạ?”

Ngay lập tức, tôi hối hận vì đã hỏi câu đó. Bởi vì anh Kazuki để lộ ánh mắt buồn đến vô vọng, giống hệt như khoảnh khắc thoáng qua ở buổi tiệc sau Eki-con.

Trong quán có nhiều khách nữ, tiếng cười đùa rộn rã khắp nơi. Cầm lấy ly soda chanh mà bản thân hầu như chưa động tới, tôi uống một hơi hết nửa ly để lấy dũng khí.

“Em cũng muốn hỏi anh điều tương tự.”

Anh Kazuki như thể đã nhìn thấu tất cả, trả lời “Ừm”.

“Dù chỉ một lần nữa thôi cũng được, em muốn gặp Isuzu. Chị Nanao đã đến năm 2017 từ năm 1974, và sau đó quay trở về thời đại cũ. Chị ấy đã làm như thế nào ạ? Xin anh hãy chỉ cho em biết.”

Anh Kazuki im lặng vài giây, rồi mở lời.

“Hòn đảo mà anh sống hồi cấp ba có tên đảo Tokishima, ở hòn đảo đó có một nơi gắn liền với truyền thuyết cổ. Có lẽ cô ấy đã đến năm 2017 từ nơi đó.”

“Vậy thì ở đó…”

“Nhưng anh không khuyến khích đâu. Hay nói đúng hơn là không được.”

Khi tôi nhướng mày hỏi tại sao, anh Kazuki tiếp tục với một giọng nói cao hơn chút.

“Phương pháp du hành thời gian đó rất nguy hiểm. Khi cô ấy biến mất, anh cũng đã có mặt ở đó. Ban đầu anh cũng lầm tưởng rằng có lẽ cô ấy đã chết rồi.”

“Nhưng chị Nanao không sao và đã quay trở về năm 1974 nhỉ.”

“Đó chỉ là ăn may thôi, không có gì đảm bảo em làm điều tương tự mà vẫn bình an vô sự. Kể cả có du hành thời gian thành công, cũng không chắc em sẽ đến được năm 2070. Nếu bất cẩn, có khi lại thành mất mạng cũng nên.”

“Không sao ạ, em xin anh.”

Giọng của tôi khẩn khoản đến mức chính tôi cũng ngạc nhiên. Nhưng dù đó là cách nào đi chăng nữa, tôi cũng muốn gặp lại Isuza. Gặp rồi làm gì thì tôi không biết, nhưng tôi muốn gặp cô ấy, nghe giọng cô ấy. Tôi muốn cô ấy gọi tên tôi. Dù chỉ là một hy vọng nhỏ nhoi, tôi cũng sẽ không từ bỏ.

“Em xin anh.”

Tôi cúi đầu bằng tất cả tấm lòng của mình.

Trong một lúc, chỉ có tiếng ồn ào trong quán vang lên. Tiếng đá va vào ly kêu “cạch”. Tôi ngẩng đầu lên, anh Kazuki đã rời tay khỏi chiếc ống hút.

“Sau khi thi xong, nhân kỳ nghỉ hè này anh định đi đến hòn đảo. Em cũng đi chứ?”

Tôi sững sờ, điều đó có nghĩa là…

“Em đi ạ! Em muốn đi! Xin hãy cho em đi!”

“Nhưng phải xem còn vé máy bay với xe buýt cao tốc không đã. Để anh tra thử, em đợi chút. Với lại, việc di chuyển sẽ mất gần cả ngày, chi phí cũng khá tốn kém đấy. Em chịu chứ?”

Tôi gật đầu lia lịa. Anh Kazuki lấy chiếc điện thoại màu xanh navy ra, im lặng thao tác trong vài phút, rồi hướng khuôn mặt đẹp trai như hoàng tử về phía tôi.

“Vẫn còn vé. Vậy ta đi thôi nhỉ.”

Giọng điệu như thể đang rủ tôi đi xem phim vậy.

*

Đó là một hòn đảo xa xôi ở vùng Chugoku, tên của nó là đảo Tokishima. Thật ngại là tôi chưa từng nghe đến cái tên này bao giờ.

Cả tôi và anh Kazuki đều có lịch thi cuối kỳ kéo dài một tuần bắt đầu từ đầu tháng Tám, vì vậy chúng tôi chốt lịch lên đường là vào thứ Hai của tuần tiếp theo. Lịch trình là tập trung tại ga Sendai từ sáng sớm, từ đó đi tuyến sân bay để đến sân bay Sendai. Sau đó bay đến sân bay Itami, đi ba chuyến xe buýt, rồi đi phà từ cảng Matsue, cuối cùng là đến đảo vào tầm chiều tối. Tổng thời gian di chuyển khoảng mười hai tiếng, một hành trình khá gian nan.

Khi tính toán chi phí đi lại khứ hồi, đó là một con số khiến ví tôi biểu tình, nhưng nhờ khoản lương hậu hĩnh ở Alphard mà tôi có thể xoay sở được mà không cần đụng đến tiền tiết kiệm. Hơn nữa, trong hai đêm ở lại đảo, một người quen của anh Kazuki sẽ cho chúng tôi ở nhờ nhà. Không chỉ chỗ ở mà cả bữa ăn cũng được cung cấp miễn phí hoàn toàn, thực sự rất biết ơn. Chắc hẳn đó là một người rất thân thiết với anh Kazuki. Có điều, tôi lại cảm thấy có gì đó bí ẩn khi anh Kazuki bảo tôi đừng quên mang theo đàn violin.

“Hở, cậu không về quê à?”

Khi tôi nói với Madoka rằng mình sẽ đi xa ba ngày hai đêm với anh Kazuki, Madoka đang đắp mặt nạ dưỡng da tròn mắt, trông như một quái nhân đeo mặt nạ.

Sau khi trở về từ chuyến đi đến đảo Tokishima, tôi vẫn còn phải làm thêm ở Alphard nên khó có thể về thị trấn Kuratsu…

Đó thực ra chỉ là một cái cớ, kỳ nghỉ hè kéo dài gần hai tháng đến cuối tháng Chín, nên nếu muốn thì tôi hoàn toàn có thể sắp xếp thời gian.

Nhưng tôi không có ý định làm vậy. Năm nay, năm tới, và cả những năm sau đó nữa.

“… Em sẽ liên lạc với chú và dì. Nên là, xin hãy cho em ở lại đây trong kỳ nghỉ hè”

“Không cần phải trịnh trọng thế đâu. Đây cũng là nhà của cậu còn gì.”

Madoka cười khổ, từ từ gỡ miếng mặt nạ trên mặt ra và vứt vào thùng rác. Trên chiếc ti-vi được bật để căn phòng không chìm vào tĩnh lặng, một bộ phim truyền hình mà tôi không hiểu bối cảnh trước sau đang được chiếu. Madoka nhìn ti-vi một lúc rồi buông một câu.

“Hay là năm nay chị về quê nhỉ.”

“Hở…?”

“Lâu rồi chị không về, với lại cũng bỏ bê việc viếng mộ hơi nhiều rồi.”

Quả thực, Madoka đã không về thị trấn Kuratsu trong một khoảng thời gian khá dài. Tám năm kể từ lúc đặt chân lên Sendai để học đại học, chị ấy chỉ về quê cỡ hai, ba lần vào những ngày giỗ hay cưới hỏi của họ hàng.

Là do tôi chiếm chỗ của Yuuta trong nhà Nishijo, hay do chị ấy không muốn đặt chân lên vùng đất đầy đau thương đó, tôi chưa từng hỏi Madoka về cảm xúc của chị ấy. Chúng tôi chưa một lần nào nghiêm túc ngồi xuống và nói về những chuyện đó.

Trong lúc tôi còn đang ngạc nhiên khi một người luôn tránh xa quê nhà như Madoka lại đột ngột nói muốn về thị trấn Kuratsu, chị ấy đã rút điện thoại ra và nói chuyện bằng giọng điệu vui vẻ thường ngày.

“Đảo Tokishima, Tokishima… Ồ, có cà ri ốc này. Trông ngon thế. Souta, mua về cho chị đi, khoảng mười gói để ăn dần.”

Tôi gọi điện cho chú Nishijo và nói rằng kỳ nghỉ hè này tôi sẽ không về quê. Chú có vẻ rất thất vọng, nhưng tôi đã xin lỗi và được chú thông cảm.

Với Kei và Chiharu, tôi đã đắn đo, nhưng cuối cùng chỉ nói rằng mình sẽ đi du lịch một chuyến. Kei vốn lớn lên ở Sendai đã có kế hoạch đi du lịch Đài Loan cùng gia đình vào kỳ nghỉ hè, còn Chiharu quê ở Akita thì có vẻ sẽ về nhà cho đến hết lễ Obon.

Không cần biết điểm số ra sao, kỳ thi đã kết thúc tốt đẹp và ngày lên đường đã đến.

Lưng đeo ba-lô, vai vác theo hộp đàn violin. Tôi đã đến điểm hẹn tại ga Sendai vào 5 giờ 20 phút, sớm hơn giờ hẹn mười phút. Ánh nắng ban mai trong vắt nhuộm vàng cả thành phố Sendai, những cơn gió đem theo hơi nóng nhẹ cho thấy hôm nay sẽ lại là một ngày oi ả.

Theo thông tin tôi tra được, đảo Tokishima nằm ở tít phía Nam so với Sendai, khả năng là sẽ rất nóng. Hầy, biết vậy đã đem theo mũ rồi. Một đứa sinh ra và lớn lên ở vùng Tohoku như tôi liệu có sống sót nổi không đây? Thời gian cứ thế trôi đi trong sự bồn chồn của tôi và anh Kazuki mãi vẫn chưa thấy tăm hơi đâu.

Khi còn ba mươi giây nữa là đến giờ hẹn, tôi trông thấy một bóng người trên cầu vượt đang lảo đảo tiến về phía này. Người đó mặc áo cổ chữ V, lưng đeo ba-lô, đi giày thể thao, hành trang cũng thuận tiện cho việc di chuyển giống như tôi.

Có vẻ anh ấy cũng nhận ra rằng mình sắp trễ giờ nên mới chạy đến đây, nhưng dáng vẻ đảo qua đảo lại kia trông thật nguy hiểm, khiến tôi bất giác phải chạy tới chỗ của anh Kazuki.

“Kịp… không…?”

“Kịp ạ, sớm tận mười giây.”

“… Anh thức lúc bốn giờ rưỡi rồi, nhưng chớp mắt cái lại thành quá năm giờ…”

Anh Kazuki thở hồng hộc với giọng nói đứt quãng, có vẻ như anh ấy không phải là người giỏi dậy sớm.

“Vất vả cho anh rồi.”

Tôi vừa động viên, vừa đẩy lưng cùng chạy với anh Kazuki. Tuy rất muốn để cho anh nghỉ lấy sức, nhưng chỉ còn vài phút nữa là chuyến tàu đi  tới sân bay Sendai sẽ khởi hành. Nếu lỡ chuyến này thì sẽ lỡ cả chuyến bay đã đặt trước, nên không thể chậm trễ được.

Ngay khi chúng tôi vừa mua vé và đặt chân lên sân ga, một đoàn tàu với thân vỏ màu xanh bạc mát mắt lướt tới. Thở phào nhẹ nhõm bước lên đoàn tàu, tôi với anh Kazuki ngồi xuống ghế đối diện nhau.

Đoàn tàu khởi hành với tốc độ ngày một nhanh dần, khung cảnh bên ngoài cửa sổ lần lượt lướt qua.

Vì cổ họng khô khốc, nên tôi đã lấy chai nước khoáng mua từ trước và tu một ngụm. Ngay khi dòng nước mát lạnh trôi tuột xuống dạ dày, bụng của tôi bỗng réo lên một tiếng. Anh Kazuki đang ngắm cảnh ngoài cửa sổ cũng phải tròn mắt nhìn, còn tôi thì chỉ biết đỏ mặt.

“Mikiya có làm sẵn hai phần cơm nắm, em ăn một cái không?”

“… Em cũng không biết phải nói gì ạ.”

“Thực ra sáng nay anh định ăn nhẹ rồi lên đường cơ, nhưng vì ngủ quên nên không còn thời gian nữa. Đang lúc cuống cuồng thì Mikiya đã làm xong cơm nắm rồi bảo anh ăn trên đường. Cái tròn này là nhân mơ muối, còn cái tam giác kia là nhân củ cải miso.”

“Anh Ozaki chu đáo quá ạ, này là bảo mẫu của anh luôn rồi ấy chứ.”

“A, em tinh ý đấy. Biệt danh hồi cấp ba của cậu ta là ‘Bảo mẫu’ đó.”

Nam sinh cấp ba mà có biệt danh “Bảo mẫu” ư?

Trong lòng dâng lên một niềm kính nể xen lẫn sợ hãi trước người sư phụ ngày càng bí ẩn của mình, tôi biết ơn nhận lấy nắm cơm củ cải miso được bọc trong giấy nilon.

Cảm nhận hương vị trong miệng, độ cứng và độ mặn vừa phải, thực sự rất ngon. Trong khi tôi đang ăn lấy ăn để, anh Kazuki lại từ tốn nhai kỹ từng hạt cơm.

Chưa đầy ba mươi phút sau, chúng tôi đã đến sân bay Sendai. Tôi chưa từng đi máy bay lần nào, nên chỉ biết lơ ngơ ngó trước ngó sau đi theo anh Kazuki như một chú gà con. Dù chỉ mới là sáng sớm, nhưng sân bay mùa nghỉ hè đã đông nghịt người.

Vì hành lý không có gì nhiều, nên sau khi làm thủ tục lên máy bay ở quầy tự động, chúng tôi chỉ cần qua cổng kiểm tra an ninh nữa là xong. Lúc đi qua chỗ dò kim loại, do căng thẳng nên mặt tôi trông rất kỳ cục, anh Kazuki còn hớn hở cười nữa.

“Thực ra… em hơi sợ độ cao một chút…”

“Vậy sao? Máy bay thường sẽ bay trên mười nghìn mét đấy.”

“Anh có ý gì khi nói cụ thể như thế ạ!?”

Sau khi chúng tôi trò chuyện như vậy trên máy bay một lúc, thông báo cất cánh vang lên và máy bay bắt đầu lăn bánh. Tôi sợ đơ người, hai tay nắm chặt lấy thành ghế. Anh Kazuki nhìn thấy bộ dạng đó của tôi mà cười tủm tỉm, đúng là đáng ghét. Máy bay bắt đầu tăng tốc đột ngột, cả người tôi như bị ép chặt vào ghế. Và rồi cùng với tiếng gầm rú của động cơ, tôi cảm nhận thấy thân máy bay đã rời khỏi mặt đất. Tôi liếc nhìn qua đầu của anh Kazuki, nhìn thấy cảnh vật bên ngoài cửa sổ ngày càng nhỏ dần, tôi vừa sợ nhưng cũng vừa phấn khích.

Anh Kazuki lấy từ trong ba-lô ra một chiếc hộp nhỏ.

“Cho anh đeo bịt tai nhé. Anh không chịu được tiếng ồn của máy bay.”

“A, vâng.”

“Anh vẫn nghe được giọng, nên có gì thì cứ quay sang nói với anh.”

Anh Kazuki xoa chiếc nút bịt tai rồi thuần thục đeo nó vào tai, anh tựa đầu vào cửa sổ rồi nhắm mắt lại. Dù có vẻ ngoài hiền lành, nhưng anh Kazuki lại là một người theo chủ nghĩa cá nhân. Nhưng tôi không ghét điều đó, ngược lại còn khiến tôi thấy thoải mái khi đi cùng anh. Hơn nữa, việc anh không đeo bịt tai ngay từ đầu, có lẽ là vì lo cho một đứa chưa bao giờ đi máy bay như tôi.

Máy bay thỉnh thoảng rung lắc khiến tôi sợ giật mình, nhưng anh Kazuki thì vẫn ngủ say sưa. Từ hồi Eki-con tôi đã cảm nhận được rồi, con người này quả là có khí chất của một nhân vật tầm cỡ.

Máy bay hạ cánh xuống sân bay Itami sau một tiếng rưỡi, tôi lay con người đang say sưa ngủ kia dậy, rồi bước xuống mặt đất thân thương. Chỉ khi đặt chân xuống đất, tôi mới có thể thở phào nhẹ nhõm.

Từ đây, chúng tôi đi đến ga Shin-Osaka. Vừa định cất bước hướng về đến bến xe buýt, hương thơm của một thứ sốt mê hoặc nào đó khiến cho tôi lẫn anh Kazuki phải dừng chân. Nơi phát ra mùi hương ấy là một quán takoyaki nằm ở bên kia đường.

“Hasekura, em có thích takoyaki không?”

“Thích tới nỗi ăn liền một tuần cũng được ạ, nhưng xe buýt sắp…”

“Cho tôi một hộp ‘vị sốt mayo đặc biệt’!”

“Tốc độ thế!”

Anh chàng bán hàng với nụ cười rạng rỡ vừa hô “Cảm ơn quý khách!” vừa nướng bánh bằng những thao tác điệu nghệ. Món takoyaki ngon đến mức khiến chúng tôi quên bẵng cả giờ xe buýt, cả hai cứ thế im lặng vừa thổi vừa ăn những viên bạch tuộc nướng nóng hổi. Một hộp có tám viên, tôi được anh chia cho một nửa nên định gửi lại tiền thì anh Kazuki nghiêm túc từ chối: “Thôi, lúc về để em mua cho anh là được.”

Chúng tôi lên kịp xe buýt, đi khoảng ba mươi phút là đến ga Shin-Osaka. Chuyến hành trình bây giờ mới thực sự bắt đầu đây. Tiếp theo chúng tôi lên xe buýt cao tốc đến ga Matsue, nhưng thời gian di chuyển mất đến tận bốn tiếng. Sau đó chúng tôi lại đổi chuyến khác và đi thêm khoảng một tiếng, rồi lại lên phà mất thêm hai tiếng. Đây đúng là một cuộc chiến trường kỳ.

Trong lúc chờ xe buýt cao tốc, anh Kazuki đã truyền đạt cho tôi rất nhiều kinh nghiệm đi đường dài. Như là nên đi vệ sinh trước, hay chỉ nên đem bánh mì hoặc cơm nắm lên xe bởi vì đồ ăn nặng mùi sẽ làm ảnh hưởng đến người khác. Tôi nghe theo lời khuyên của đàn anh, giải quyết nhu cầu xong là chạy đến quầy hàng mua bữa trưa.

“Anh Kazuki, mỗi năm anh đều một mình đi đến đảo ạ? Anh Ozaki không đi cùng ư?”

“Nói là mỗi năm, chứ đây chỉ mới là năm thứ hai thôi. Khi sống cùng một nơi thì người ta sẽ hiếm khi đi ra ngoài cùng với nhau nữa. Với lại, cha của Mikiya nhập viện nên năm nay cậu ấy sẽ về quê. Cậu ấy cũng lên đường vào ngày hôm nay đấy, nhưng miệng thì luôn càm ràm không muốn đi.”

“Còn anh thì sao ạ?”

“Anh về hồi nghỉ lễ tháng Năm rồi, lúc đó cũng có nói chuyện nhiều với nhau. Cả nhà đã cùng đi ăn lưỡi bò nướng.”

Tưởng tượng ra cảnh gia đình đang ăn lưỡi bò nướng xèo xèo, tôi bất giác mỉm cười, anh Kazuki cũng cười nhẹ. Đúng lúc đó, một chiếc xe buýt bật đèn xi-nhan tiến vào bến. Tôi và anh Kazuki đeo ba-lô lên rồi bước lên xe.

Xe buýt cao tốc có ba hàng ghế đơn nên có thể ngồi rất thoải mái, trên xe còn có cả nhà vệ sinh. Cứ khoảng chừng một tiếng rưỡi cho đến hai tiếng, xe lại vào trạm dừng chân cho khách nghỉ ngơi khoảng mười phút. Tại điểm dừng thứ hai, có thể nhìn thấy rõ đỉnh Daisen, ngọn núi cao nhất ở vùng Chugoku. Ngọn núi hùng vĩ trên nên trời trong xanh thật tuyệt đẹp, đúng lúc tôi lấy điện thoại để chụp ảnh thì anh Kazuki lại thò mặt vào khung hình để phá đám.

Hơn hai giờ chiều, khi vai và lưng đã bắt đầu mỏi vì ngồi quá lâu, chúng tôi đã đến ga Matsue. Hầu hết hành khách đều xuống xe tại đây. Tôi và anh Kazuki cũng vậy, chúng tôi đi đến bến xe để bắt chuyến tiếp theo đi ra cảng biển. Không mất quá nhiều thời gian để đợi, khi chúng tôi đến được cảng thì đã là khoảng ba giờ rưỡi chiều.

Chúng tôi mua vé ở bến phà và đợi một chút. Sau khi có thông báo lên phà, chúng tôi đi qua cây cầu ống lồng để vào bên trong. Ngay lối vào là sảnh chính, có cả quầy hàng, máy bàn hàng tự động, nhà vệ sinh và cả ti-vi.

Dường như cũng có các khoang hạng nhất dành cho giới nhà giàu, nhưng đám sinh viên không một xu dính túi như tôi và anh Kazuki chỉ ở khoang hạng hai với giá bình dân. Khoang hạng hai giống như một sảnh lớn được trải thảm. Vì ở đây có khá nhiều gia đình chen chúc nên tôi và anh Kazuki quyết định ra boong tàu ngồi. Trên boong tàu có mái che đơn giản với mấy hàng ghế dài, gió biển cứ thế mà thổi vào. Lũ mòng biển bay trên mặt nước như đang chạy đua với con phà, tiếng lanh lảnh của chúng vang vọng.

Lâu lắm rồi mới được tiếp xúc với mùi vị biển cả, nó khiến lòng tôi xao động. Hồi còn ở thị trấn Kuratsu, gió lúc nào cũng mang theo cái mùi mằn mặn ấy. Cảm thấy có phần khó chịu, tôi ngoảnh mặt khỏi biển thì:

“Không sao chứ? Em say sóng ư?”

Gương mặt anh Kazuki đột nhiên xuất hiện trong tầm mắt, khiến tôi giật mình.

“Không ạ… Em không sao. Không có gì đâu.”

“Vậy thì tốt. Nếu thấy say thì uống nước ngọt vào nhé, sẽ thấy dễ chịu hơn đấy.”

Tôi chỉ cười đáp lại, rồi tựa hộp đàn đang đặt trên ghế lên vai và ôm nó vào lòng. Làm vậy khiến tôi cảm thấy bình tĩnh hơn chút, tôi ngước nhìn mũi tàu đang băng băng tiến về phía trước.

“Đảo Tokishima là một nơi như thế nào ạ?”

“Một nơi rất tuyệt vời đấy. Tuy không có cửa hàng tiện lợi hay nhà hàng gia đình, nhưng thời gian ở đó trôi rất chậm, mang lại một cảm giác yên bình.”

Giọng của anh Kazuki khi nói về hòn đảo, nghe thật dịu dàng.

“Còn nữa, hồi anh học lớp 11 thì đảo có mở một lò luyện thi công lập. Vì do thị trấn quản lý nên học phí rẻ hơn so với so với các lò tư thục rất nhiều, mà sát bên cạnh lại còn có thư viện nữa chứ. Trước đây trên đảo chưa từng có thư viện nên ai nấy cũng đều vui mừng. Đó cũng là kế hoạch do vị hiệu trưởng ấy khởi xướng đấy, phải mất rất nhiều năm mới có thể khiến nó trở thành hiện thực. Các giáo viên toàn là những người thú vị cả, nào là một cựu quan chức đến từ Kasumigaseki[note78925], nào là một người từng ngao dư khắp các nước nên biết rất nhiều tiếng lóng.”

“Vị hiệu trưởng ấy tuyệt vời thật. Vì hòn đảo mà thực hiện biết bao cải cách.”

“Ừm... Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi vấn đề đều được giải quyết.”

Khuôn mặt của anh Kazuki trầm đi đôi chút.

“Anh nghĩ dù là chuyện gì thì cũng vậy, dù cho có nỗ lực và đạt được thành công, nhưng việc duy trì được trạng thái đó là rất khó. Đúng là dân số trên đảo đã tăng, nguồn thu từ thuế cũng nhiều lên, và danh tiếng của hòn đảo cũng lan rộng. Nhưng vào khoảng thời gian anh tốt nghiệp cấp ba thì phần chìm của tảng băng đã dần hiện ra. Tuy chỉ là từ từ, nhưng dân số trên đảo đã bắt đầu giảm, đặc biệt là những người trẻ. Những cải cách mà cô hiệu trưởng đã thực hiện có thể ví von như một liều thuốc nổ, hay nói đúng hơn là một cuộc đại phẫu thuật, mạnh tay loại bỏ những thứ mục ruỗng và ra sức cứu chữa. Giờ đây, họ phải nỗ lực để duy trì thể trạng cho hòn đảo. Phải làm sao để dù cho nhiều năm, nhiều thập kỷ nữa trôi qua, dù cho nhiều thứ đã đổi thay, thì những người dân trên đảo vẫn có thể sống một cuộc sống hạnh phúc.”

Tôi cảm nhận được một ý chí vừa mạnh mẽ, vừa tĩnh lặng từ khuôn mặt ấy.

“Anh Kazuki… Có phải vì vậy mà muốn học về suy giảm dân số? Không lẽ anh muốn quay trở lại hòn đảo sau khi tốt nghiệp ạ?”

Mái tóc màu sáng của anh Kazuki khẽ bay trong gió, đôi mắt anh ấy nhìn xa xăm về phía trước.

“Anh vẫn chưa biết. Hồi cấp ba, anh đã có dự định rằng sau khi tốt nghiệp mình sẽ xin vào làm công chức ở ủy ban thị trấn trên hòn đảo. Bởi vì anh nghĩ đó là điều duy nhất mà mình có thể làm. Nhưng các thầy cô, rồi những người đã giúp đỡ anh đều một mực ngăn cản. Họ nói: ‘Đừng quyết định tương lai của mình khi chỉ mới nhìn thấy thế giới chật hẹp hiện tại. Hay ra biển lớn, đến nhiều nơi để quan sát và suy nghĩ. Nếu sau đó vẫn thấy đó là điều mình nên làm thì lúc đó mới quay trở về’. Thế nên anh mới tìm hiểu và đăng ký vào trường đại học hiện tại, dù hiện tại vẫn đang nghiên cứu… nhưng anh không biết. Đâu mới là điều tốt nhất và mình có thể làm được gì.”

Rồi anh nhìn tôi, cười ngượng nghịu: “Tự dưng anh lại nói nhiều quá…”

“Còn em thì sao?”

“Dạ?”

“Em muốn trở thành thầy giáo đúng không? Dạy ở quê nhà hả?”

Tôi chẳng thể thốt nên lời nào trọn vẹn. Tôi chỉ đành cười trừ rồi đưa mắt về phía mặt biển, đáp rằng mình vẫn chưa biết nữa. Chỉ cần lấy được bằng sư phạm, tôi sẽ rời đi tỉnh khác. Dù chưa biết sẽ đi nơi nào, nhưng có một điều duy nhất mà tôi đã quyết định chắc chắn.

Rằng tôi sẽ không bao giờ quay trở về thị trấn Kuratsu thêm một lần nào nữa.

2

Khoảng hai tiếng sau, bóng của hòn đảo dần hiện ra phía trước con tàu đang lướt trên mặt biể. Đảo Tokishima, từ những đỉnh núi nối liền nhau tạo thành đường con kiều diễm, những vách đá đỏ dựng đứng, cho đến vùng đất bằng phẳng được chấm phá bằng những ngôi nhà, tất cả đều được bao phủ bởi một màu xanh tràn đầy sức sống. Hòn đảo được chiếu rọi bởi ánh hoàng hôn vàng óng, trông như một viên ngọc lục bảo khổng lồ thô ráp lộ ra nô ra giữa biển khơi.

Sau hai tiếng rưỡi, con tàu cập cảng, tôi đặt chân lên đất liền và thở phào nhẹ nhõm. Cứ ngỡ thế là yên, ai ngờ chân tôi lại bắt đầu chòng chành như thể vẫn còn đang ở trên biển. Là say đất liền.

Bến cảng được quy hoạch giống như một công viên nhỏ với những hàng ghế dài và mái vòm nghỉ chân. Cũng có cả quầy hàng và trung tâm thông tin dành cho du khách. Trên con đường đi bộ bằng bê tông chạy dọc bờ biển, có khoảng mười người dân đảo đang đứng đợi những hành khách từ trên tàu xuống.

Nhân tiện, người tốt bụng cho tôi và anh Kazuki ở nhờ có tên là “Takatsu Tsubaki”.

“Người đó hơi nhút nhát, nhưng tốt bụng và thú vị lắm. À, nụ cười cũng dễ thương nữa.”

Anh Kazuki đã nói như thế. Vì vậy, người tên “Takatsu Tsubaki” trong đầu tôi mang dáng vẻ của một cô gái đáng yêu với nụ cười đầy ngọt ngào.

Nhìn qua bên này, một người phụ nữ lớn tuổi tươi cười chào đón cô gái trẻ. Nhìn qua bên kia, hai người đàn ông vỗ vai nhau nói rằng ‘Đã lâu không gặp!’. Những người dân đợi ở cảng lần lượt rời đi với những vị khách xuống phà. Chẳng mấy chốc, chỉ còn lại một người phụ nữ mặc tạp dề chừng hai mươi tuổi, và một người đàn ông mặc đồ đen đang ngồi xổm hút thuốc gần mái nghỉ trông chẳng khác gì một gã bất hảo. Tôi nhìn người phụ nữ mặc tạp dề, thầm nghĩ rằng chắc là cô ấy rồi, thế nhưng…

“Anh Takatsu.”

Anh Kazuki lại tiến về phía người đàn ông đang phì phèo điếu thuốc kia, khiến tôi điếng người vì kinh ngạc.

Người đàn ông đó buộc túm hết cả tóc mái lên, giữa mùa hè nóng nực mà lại mặc một chiếc áo sơ mi đen kịt. Chân đi dép lê, miệng ngậm điếu thuốc. Thú thật, trông cực kỳ bặm trợn.

Vị này mà là “Một người hơi nhút nhát nhưng tốt bụng và thú vị” á? Mà đợi đã, “Tsubaki” là tên con trai ư!? Bao nhiêu cú sốc ấp đến khiến tôi không nói nên lời.

Anh Takatsu đứng dậy, lấy từ túi quần jeans ra một chiếc gạt tàn di động va dập tắt điếu thuốc. Dáng người anh ta gầy nhưng tương đối cao, toát ra khí chất sắc bén như một thanh katana sáng bóng. Anh Takatsu nhìn xuống anh Kazuki, nheo mắt lại.

“Mặt chú mày vẫn y hệt hồi cấp ba. Có thật là sinh viên năm hai không đấy?”

“Anh cũng vậy nhỉ, luôn toát ra khí chất của một gã bất hảo.”

“Im đi.”

“Năm nay cũng mong được anh giúp đỡ. Còn đây là quà của em và Mikiya. Chúc mừng anh đã nhận được giải Tokito ạ.”

Anh Kazuki lấy từ trong ba-lô ra một túi giữ lạnh. Tôi chẳng biết giải Tokito là gì, nhưng người tên Takatsu này hẳn phải là một chuyên gia tầm cỡ nên mới nhận được giải thưởng ấy. Anh Takatsu nhăn mặt với vẻ khó chịu.

“… Sao chú mày lại biết.”

“Tin tức trên mạng đầy mà anh.”

“Đừng có lo chuyện bao đồng. Anh mày không thích mấy trò khách sáo đó đâu.”

“Không phải chén mừng bằng vàng hay gì đâu, chỉ là ít lưỡi bò ngon lành thôi nên anh đừng lo. Cứ dùng làm đồ nhắm nhé.”

 Vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, anh Kazuki chìa túi lạnh ra, anh Takatsu cười khổ rồi nhận lấy. Vẻ ngoài tuy đáng sợ, nhưng lúc cười thì anh ấy trông hiền lành đến lạ thường. Vừa nghĩ vậy, ngay khoảnh khắc tiếp theo anh Takatsu nhìn về phía này làm tôi phải nín thở. Ánh nhìn của anh Takatsu, hình như gọi là mắt sanpaku[note78926], tỏa ra một khí chất đặc biệt đầy áp lực.

“Đây là thằng đệ mà chú mày nói trong mail à?”

“Em nào có viết như thế, là đàn em thôi ạ.”

“Em là Hasekura Souta, rất mong được anh giúp đỡ. Em cảm ơn ạ.”

Tôi căng thẳng cúi đầu, nhưng anh Takatsu chỉ hất cằm một cách cộc lốc rồi bước đi. Anh Kazuki cũng thản nhiên đi theo, nên tôi đuổi theo hai người.

“Đúng lúc lắm. Ông Nogi, cho bọn tôi đi nhờ với.”

 “Hửm? Cậu ấm nhà Takatsu? Có chuyện gì mà dắt theo hai đứa trẻ măng thế kia… Ồ? Cậu trai này trông quen nhỉ.”

“Cháu tốt nghiệp trường Shima năm ngoái ạ, hiện tại cháu đang học đại học ở Sendai.”

“Ồ, về đảo chơi à, mừng quá. Còn cậu đằng kia là bạn cháu sao? Chào mừng đến đảo nhé.”

Phía trước hợp tác xã nông nghiệp gần bến cảng, một ông lão đang chất đồ lên xe bán tải. Ông không chỉ niềm nở với anh Kazuki, mà còn cười đùa vui vẻ với tôi như thể xem tôi là con cháu trong nhà. Anh Takatsu mở cửa ghế phụ chiếc xe bán tải trắng, rồi hất cầm kêu chúng tôi ra ngồi ở thùng sau chở đầy những bao phân bón.

“Mình được chở người trên thùng sau xe ạ?”

“Dưới danh nghĩa người trông đồ thì chắc là được đấy.”

Vừa trò chuyện với nhau, tôi và anh Kazuki leo lên thùng sau của xe bán tải, ngồi bó gối bên cạnh những bao phân bón.

Từ thùng xe bán tải kêu lọc cọc, tôi ngắm nhìn phong cảnh hòn đảo thay đổi dần theo những con đường. Khác với màu biển xanh chàm của phương Bắc, màu biển của phương Nam trong vắt như màu bút xanh lam. Cây cầu vắt ngang mặt biển ánh lên sắc vàng trong ráng chiều. Sự hoang sơ của những bờ đá bao quanh biển, cùng với vẻ hùng vĩ của những vách đá đất đỏ. Trên cánh đồng, những chú bò trông như những bóng đen đang gặm cỏ. Lũ trẻ đang chơi ven đường thấy chúng tôi đang ngồi co ro liền vẫy tay chào. Vừa cùng anh Kazuki vẫy tay đáp lại, trong lòng dấy lên một cảm giác xao động khiến tôi khó thở.

Hòn đảo này, sao mà giống đến thế.

Nó giống hệt quê hương của tôi, nơi mà tôi muốn rời xa và cuối cùng cũng đã toại nguyện, nhưng nó vẫn chìm sâu ở góc nào đó trong trái tim tôi, không tài nào xóa nhòa được.

Sau khi cảm ơn ông lão Nogi tốt bụng cùng chiếc xe bán tải, tôi đứng trước cổng nhà anh Takatsu mà chẳng thốt nên được lời nào.

“Đây, có thật là nhà của một người bình thường không ạ…?”

“Hệt như dinh thự của một lãnh chúa nhỉ. Hồi đầu mới đến anh cũng bất ngờ lắm.”

“Anh Takatsu… Có khi nào là vua dầu mỏ không ạ?”

“Chú mày ngốc chẳng khác gì Kazuki nhỉ. Thôi tán dốc mà vào lẹ đi.”

Tôi căng thẳng bước qua cánh cổng của tòa dinh thự nguy nga, trông giống như phim trường của một bộ phim cổ trang. Cảnh vật trong sân tuyệt vời, hệt như khu vườn của một nhà hàng cao cấp lâu đời. Thế nhưng, tại một góc của khu vườn xa hoa ấy, không hiểu sao lại trồng và đóng cọc những cây cà chua, cà tím,… Vườn rau tại gia? Trồng tại một khu vườn lộng lẫy như thế này? Đúng là một việc làm kinh thiên động địa, như thể gắn thêm tay cầm cho một chén trà quý để biến nó thành cái cốc vậy.

Bên trong dinh thự của anh Takatsu cũng rộng lớn không nằm ngoài dự đoán. Tôi và anh Kazuki được chia cho mỗi người một phòng. Phòng này mà thuê ở lữ quán thì chắc phải tốn mấy chục nghìn yên một đêm, một đứa thường dân hèn mọn như tôi chỉ dám nhẹ nhàng đặt ba-lô và hộp đựng violin vào góc nhỏ trong căn phòng rộng lớn.

 “Rửa tay các thứ rồi ra phòng khách đi. Cơm chắc dọn ra bàn rồi đấy. Ăn xong thì đi tắm rồi ngủ đi.”

Sau khi tôi và anh Kazuki dọn hành lý xong xuôi, anh Takatsu chỉ nói như vậy rồi biến đi đâu mất. Làm theo lời anh ấy nói, tôi rửa tay rửa mặt rồi đi đến phòng khách ngay cạnh. Ở đó đã bày sẵn hai suất ăn thịnh soạn chẳng kém gì so với một khu nghĩ dưỡng suối nước nóng cao cấp. Nó lộng lẫy đến mức một đứa dân thường như tôi chẳng dám nhìn thẳng.

“Em… Có thể cọ rửa nhà tắm hay dọn dẹp sân vườn không ạ? Mấy việc đó em làm khá giỏi. Em cũng giỏi chùi cặn trên bồn rửa mặt nữa.”

“Anh cũng từng nói vậy rồi, nhưng anh Takatsu nhất định không cho anh làm cơ, cả tiền cũng tuyệt đối không nhận. Nên là anh luôn chơi piano cho anh ấy nghe, coi như trả thay cho tiền trọ. Năm nay em cũng chơi violin với anh nhé.”

“A, hóa ra đó là lý do anh bảo em mang theo violin ạ?”

“Ừm. Nhưng nói trước nhé, anh Takatsu sành nghe lắm nên hơi bị khắc khe đó.”

Nếu bị đôi mắt sanpaku đó nhìn thẳng rồi phán cho một câu “Đồ kém cỏi”, chắc tôi sẽ hóa thành cát bụi mất. Món sashimi cá sòng, cá tráp và mực vô cùng tươi ngon, thịt giòn sần sật. Món trứng hấp thì mềm mịn như tan ra, còn món thịt bò nhúng tái thì ngon đến độ muốn rụng tim. Nhưng mà, để chỉ hai đứa tôi ăn một bữa ăn xa hoa thế này thì thật lãng phí, tôi bất giác nhìn về phía cánh cửa giấy thông ra hành lang.

“Anh Takatsu không ăn ạ?”

“Anh ấy ăn ít hơn vào mùa hè thì phải. Trong vậy thôi, chứ anh Takatsu nhạy cảm lắm đấy.”

“Vậy ạ… Cho em hỏi, anh ấy làm nghề gì vậy ạ?”

“Hở? Nhà điêu khắc đấy, anh chưa nói với em ư?”

Anh Kazuki ngơ ngác nhìn tôi. Tôi chắc chắn, thề bằng cả tính mạng này, anh ấy chưa từng nói điều đó.

“Nhà điêu khắc… Ý anh là điêu khắc chuyên nghiệp luôn ấy ạ? Đây là lần đầu em gặp được người làm nghề đó luôn, ban nãy anh nói anh Takatsu có nhận được giải thưởng gì đúng không?”

“Ừm, hình như là một giải thưởng truyền thống nổi tiếng. Có ảnh của tác phẩm trên mạng đấy, em xem thử không?”

Tác phẩm của anh Takatsu mà anh Kazuki cho tôi coi trên điện thoại, nói thật là trông y như người sống. Đó là bức tượng toàn thân của một thiếu nữ. Cô gái đeo một khăn voan dài trong suốt trên đầu, quay ngửa mặt về phái này. Gió đang thổi từ hướng mà cô nhìn, nó được thể hiện rõ qua mái tóc thướt tha và tấm khăn voan tựa như tấm áo lông vũ của tiên nữ đang tung bay trong không trung. Cô đưa ngón tay như đang chỉ về một điều gì đó. Sự mềm mại của đôi tay, đôi chân thon dài, đường nét tinh xảo của các khớp cong nhẹ, cùng vẻ trong veo của đôi mắt xếch như mắt mèo. Mọi chi tiết đều mỹ miều đến mức không thể tin được là do bàn tay con người làm ra.

Bức tượng toát lên một điều gì đó, như một tia hy vọng. Trông như cô ấy đang chỉ cho chúng ta thấy một ánh sáng nhỏ nhoi ở nơi xa cùng tận.

“Em không giỏi nhận xét… Nhưng mà nó tuyệt thật.”

“Em nói đúng. Đó giờ anh luôn nghĩ rằng thế giới mà anh Takatsu đang nhìn thấy có độ phân giải khác hẳn so với chúng ta.”

Anh Kazuki nhìn vào màn hình, ánh mắt của anh ấy dịu dàng nhưng phảng phất nỗi buồn. Tôi chợt có một suy nghĩ, về gương mặt nghiêng của cô cô ấy, một cô gái trạc tuổi học sinh cấp ba.

Có lẽ nào, tôi nghĩ, nhưng tôi lại không thể mở lời.

Sau đó chúng tôi lại tiếp tục bữa ăn, nhưng tôi để ý thấy anh Kazuki, trong lúc gắp món thịt bò nhúng tái, lại liên tục chớp mắt. Anh còn dụi mắt nữa. Đây là dấu hiệu của...

“Anh buồn ngủ ạ?”

“… Ừm. Xin lỗi nhé, chắc anh đi ngủ trước. Giờ mà tắm thì chắc anh ngủ luôn trong đó mất.”

“Vâng ạ.”

Anh Kazuki loạng choạng đứng dậy và mở cánh cửa kéo của phòng bên cạnh. Anh định trải nệm ra nhưng bước chân trông không vững chút nào, nên tôi cũng vội vàng vào giúp anh trải nệm.

“Phòng tắm ở cuối hành lang, rẽ trái…”

“Vâng ạ, em hiểu rồi.”

“Xin lỗi em nhé, nơi đó, chắc để ngày mai…”

“Không sao đâu ạ. Hôm nay em cũng mệt rồi, anh cứ yên tâm ngủ đi.”

“Ừm”, anh Kazuki gật đầu như một đứa trẻ, rồi ngã phịch xuống nệm. Anh ấy chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Nghĩ lại thì chúng tôi đã đi dường dài từ sáng sớm, dù không nói gì nhưng chắc chắn anh ấy đã luôn lo lắng cho tôi. Tôi nhẹ nhàng đắp chiếc chăn mỏng lên người anh Kazuki rồi rời khỏi phòng.

Sau khi rón rén đi khắp nơi và tìm ra nhà bếp để rửa đống chén bát ban nãy, tôi đi dọc theo hành lang dài theo lời chỉ dẫn của anh Kazuki rồi vào phòng tắm. Dù chứng kiến phòng tắm bán lộ thiên lát đá, tôi cũng chỉ biết im lặng nghĩ rằng đây là điều bình thường ở nhà Takatsu. Sau khi gội đầu, rửa mặt và tắm xong, tôi ngâm mình trong một góc bồn tắm như một chú khỉ con đến suối nước nóng. Vì hòn đảo này ở phía Nam hơn Sendai nên lúc xuống phà tôi thấy khá nóng, nhưng khi tắm xong, không khí ban đêm lùa vào hành lang lại mát mẻ và trong lành. Ra ngoài hóng gió chắc sẽ dễ chịu lắm. Tôi đi chân trần trên hành lang sàn gỗ, định hướng ra cửa chính thì thấy một cánh cửa kính kiểu cũ nhìn ra vườn đang mở toang. Tôi dừng chân và nhìn ra ngoài.

Trong khu vườn tăm tối, có một ánh sáng cam nhỏ lóe lên rồi tắt.

Đom đóm? Không phải. Khi tôi nheo mắt nhìn kỹ, bóng dáng của một người dần hiện ra trong màn đêm. Anh Takatsu đang ngồi hút thuốc ở một tảng đá bên bờ ao.

“… Dạ.”

Tôi mượn đôi dép ở dưới hiên nhà, căng thẳng tiến lại gần. Anh Takatsu miệng vẫn ngậm điếu thuốc, ánh mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó không phải trời cũng chẳng phải đất. Nhận ra tôi, anh ấy dập điếu thuốc vẫn còn khá dài vào gạt tàn di động.

“Ăn cơm chưa?”

“Rồi ạ, ngon lắm ạ. Cảm ơn anh vì bữa ăn. Anh Kazuki thấy mệt nên đã đi ngủ trước rồi ạ.”

“À… Thằng nhóc đó thấy mệt là lăn ra ngủ ngay ấy mà.”

Ở đây chỉ có ánh sáng le lói của mặt trăng, mặt nhau cũng chỉ có thể thấy lờ mờ, nhưng tôi cảm nhận được khuôn mặt của anh Takatsu lại dịu dàng đến kỳ lạ. Có thể anh ấy đang cười. Cơ thể tôi như được thả lỏng.

“Em xin lỗi vì đã tự tiện, nhưng vì anh Kazuki không ăn hết cơm nên em đã cất phần thừa vào trong tủ lạnh. Chén bát em cũng rửa rồi ạ.”

“Chững chạc ra phết nhỉ, chú mày là đàn em của nó?”

“Cũng không hẳn ạ, chúng em học khác trường.”

“Thế ư? Sao thằng nhóc đó chẳng nói mấy thông tin cơ bản đó chứ. Nếu khác trường, đám chú mày quen nhau câu lạc bộ liên trường hay gì à?”

“Dạ không, nói ra thì hơi dài… A, anh biết anh Ozaki đúng không ạ? Em và anh Ozaki làm thêm cùng một chỗ.”

“Làm thêm… Là cái câu lạc bộ ở Kakubuncho hả? Chú mày á?”

Anh Takatsu nhìn chằm chằm tôi. Ừ thì, tôi cũng biết là vẻ ngoài của tôi chẳng hề hợp với một câu lạc bộ đêm cao cấp.

“Em quen biết anh Kazuki thông qua anh Ozaki… Chuyện là, em và bạn đại học đã cùng nhau lập một nhóm nhạc tứ tấu để biểu diễn cho một sự kiện, nhưng đến sát ngày, một thành viên lại vắng mặt. Khi đó, anh Kazuki đã chơi piano thay cho cậu ấy.”

“Thằng nhóc đó chơi piano trước mặt người khác ư?”

Gương mặt anh Takatsu bỗng trở nên nghiêm túc, nên tôi có chút nao núng.

“Vâng ạ… Anh ấy chơi hay lắm. Lần đầu tiên em nghe người khác trình diễn mà nổi cả da gà.”

“Nó có định chơi cùng với đám chú mày trong tương lai không?”

“Không ạ, bạn của em có ngỏ lời nhưng đã bị anh Kazuki từ chối.”

“Vậy sao…”

Giọng nói của anh ấy như một tiếng thở dài rơi xuống đáy màn đêm. Tôi cảm nhận được, con người này biết rõ những muộn phiền mà anh Kazuki đang gánh vác. Có lẽ còn nhiều hơn những gì mà tôi biết, theo một cách rất sâu sắc. Nếu vậy thì bức tượng cô gái kia, quả nhiên là…

“Em đã xem tác phẩm mà anh nhận được giải Tokito. Mặc dù chỉ là ảnh mạng, nhưng nó thực sự rất đẹp ạ.”

“… Đừng có xem. Chẳng có gì ghê gớm đâu.”

“Bức tượng cô gái đó, không lẽ… là chị Nanao ạ?”

Anh Takatsu đang khó chịu quay mặt đi, nhưng nghe thấy thế liền ngước nhìn tôi. Vẻ mặt không có nhiều thay đổi, nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự ngạc nhiên của anh ấy.

“… Nó tự kể với chú mày sao?”

“Cũng không hẳn là tự kể… Do hoàn cảnh đưa đẩy, nói sao nhỉ, cũng hơi khó giải thích ạ.”

Vừa trả lời, tôi nghĩ có lẽ nào anh Takatsu đã biết mọi chuyện, từ chuyện cô ấy đến từ quá khứ, lẫn chuyện cô ấy đã quay trở về với thời đại của mình? Có phải vì vậy mà giữa anh Takatsu và anh Kazuki, dù khác độ tuổi, nhưng lại có một mối liên kết cực kỳ mạnh mẽ, khác hẳn sự thân thiết bề ngoài?

“Vừa nhận giải là đám phòng tranh lẫn tụi môi giới đã ùa đến, nhưng anh mày đã từ chối hết. Bức tượng đó, sẽ do thằng nhóc ấy mua lại trong vòng hai mươi năm tới.”

Nói rồi, anh Takatsu lấy từ trong túi quần jeans bao thuốc lá, ngậm một điếu rồi đứng dậy.

“Chú mày cũng mệt rồi, ngủ đi. Bữa sáng ngày mai anh để sẵn trong tủ lạnh đấy, sáng dậy cứ lấy mà ăn. Kazuki thì khỏi lo.”

Và rồi anh Takatsu rảo bước quay về nhà chính, dáng vẻ không cho người khác cơ hội bắt chuyện thêm. Còn lại một mình, tôi bất giác nhìn lên bầu trời và thốt nên một tiếng. Vô số ngôi sao đang lấp đầy bầu trời đêm, giống như một cơn lũ ánh sáng. Tôi sững người, chợt nhận ra một điều hiển nhiên: Phía bên kia bầu trời chính là vũ trụ.

Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi được nhìn thấy dải ngân hà.

Dinh thự nhà Takatsu thật là một nơi nguy hiểm. Đồ ăn ngon đến mức khó tin, bồn tắm bán lộ thiên giống như lữ quán khiến xương cốt mềm nhũn cả ra. Chiếc nệm mềm mại cùng với tấm chăn như hòa làm một cùng làn da, khiến tôi vô thức tắt báo thức để chìm vào giấc ngủ nướng.

Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy với bộ dạng như một kẻ kiệt sức gục ngã bên đường. Tay cầm điện thoại, nhìn vào thì đã quá chín giờ, tôi giật mình bật phắt dậy.

Tôi cuống cuồng thay đồ, vừa gọi vừa kéo cánh cửa ở phòng bên cạnh ra, nhưng không thấy bóng dáng anh Kazuki đâu. Nệm cũng đã được xếp ngăn nắp. Tiếp theo, tôi vào phòng khách nhưng vẫn không thấy anh, chỉ có chiếc điện thoại màu xanh navy được đặt trên bàn.

Mở cánh cửa dẫn tới phòng khách, tôi bước ra hiên nhà nhìn ra khu vườn. Trong lúc tự hỏi anh Kazuki đã đi đâu, tôi thông qua cửa kính trông thấy anh Takatsu ở khu vườn lộng lẫy. Tại một góc vườn được cải tạo thành vườn rau đầy phá cách, anh Takatsu đang dùng vòi tưới nước cho đám rau củ. Hôm nay anh vẫn mặc chiếc áo len đen ngột ngạt, chân xỏ dép lê, miệng ngậm điếu thuốc.

“… Chào buổi sáng ạ. Em xin lỗi vì đã dậy trễ.”

“Hả? Chú mày có phải đi học đâu, buồn ngủ thì ngủ tiếp đi.”

Vẻ mặt cau có cùng giọng điệu cộc lốc của anh Takatsu khiến tôi nghĩ rằng anh đang giận chuyện gì đó, nhưng dần dà tôi hiểu rằng đây chỉ đơn giản là bản tính của anh ấy mà thôi. Hơn nữa, ngay khi tôi đến gần, anh ấy lại mau chóng dập tắt điếu thuốc còn dài bằng vòi nước. Anh ấy quả là người tốt đúng như lời anh Kazuki nói.

“Anh có biết anh Kazuki đã đi đâu không ạ?”

“Nó không có trong phòng à?”

“Vâng, nệm đã được gấp, anh ấy cũng không có trong phòng. Chưa kể còn để lại điện thoại nữa.”

Anh Takatsu hướng vòi nước sang luống dưa chuột trồng bên cạnh đám cà chua. Hôm nay trời cũng trong xanh, những tia nắng trắng xóa như thiêu đốt mặt đất. Ở đầu vòi nước có gắn một thiết bị chuyển tia nước thành dạng phun sương, một cầu vồng nhỏ được tạo nên từ những tia nước li ti đang tưới cho luống rau.

“Chắc đang ở mộ đấy.”

“Mộ… Ý anh là…”

Tôi định hỏi mộ của ai, nhưng rồi nuốt lời lại. Bởi đáp án đã rõ ràng.

Anh Takatsu lấy từ túi quần sau một chiếc kéo tỉa cành và cắt lấy một quả cà chua mọng nước lấp lánh những giọt sương.

 “Đợi tí nữa là nó về thôi, nhưng nếu lo thì chú mày cứ đến đó đi.”

“… Em tới đó được ạ?”

“Nó đã kể cho chú mày chuyện của nó rồi còn gì.”

Anh Takatsu vẽ cho tôi một tấm bản đồ trên tờ giấy ghi chú. Tấm bản đồ đẹp đến mức khiến tôi phải nghi ngờ đôi mắt của mình, con người này quả xứng danh một nhà điêu khắc đại tài. Lúc tôi chuẩn bị đi, anh còn gói hai phần sandwich trứng vào giấy bóng cho tôi và dặn: “Cầm theo đi. Mười hai giờ là ăn trưa, nhớ về trước lúc đó”. Nhờ sự tốt bụng ấy, tôi đâm ra quý anh Takatsu lúc nào cũng cau có chau mày.

Tay cầm tấm bản đồ và túi sandwich trứng, tôi rảo bước trên con đường nhỏ len lỏi giữa những cánh đồng lúa non đang rì rào trong gió.

Đi được một lúc tôi mới nhận ra, hòn đảo này hình như không có lấy một cây đèn tín hiệu giao thông nào. Ít nhất là trong tầm mắt tôi, tuyệt nhiên không có một cái nào cả. Giờ thì tôi đã hiểu ý của anh Kazuki khi nói rằng thời gian ở đây trôi thật chậm.

Tôi mất khoảng hai mươi phút đi bộ từ nhà Takatsu để đến ngôi chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trên một ngọn đồi cao ven biển. Suốt quãng đường leo dốc lên cổng tam quan, bên tay trái tôi luôn là mặt biển lấp lánh dưới nắng hè. Khi vào trong khuôn viên, tôi thấy nghĩa trang nằm bên cạnh chính điện. Nhưng tấm bản đồ của anh Takatsu lại chỉ dẫn tôi đi sâu vào phía sau nghĩa trang.

Tôi đi theo chỉ dẫn trên bàn đồ, và ở phía xa sau nghĩa trang, một đồng cỏ xanh mướt hiện ra. Và cả bóng dáng của một người đàn ông đang đứng lặng lẽ ở đó.

“Anh Kazuki.”

Tôi cố hết sức khẽ gọi, nhưng anh Kazuki vẫn giật mình như bất ngờ bị ai đó vỗ vào vai. Anh nhìn tôi với vẻ mặt như vừa tỉnh giấc khỏi giấc mộng.

Nơi đây mang dáng vẻ hơi khác so với những nghĩa trang thông thường. Cái nơi nhìn từ xa trông như một đồng cỏ, thực chất lại là một không gian nhân tạo được trải thảm cỏ vô cùng đẹp đẽ. Trên tấm thảm cỏ rộng lớn ấy, những tấm bia bằng đá hoa cương khoảng năm mươi centimet vuông được xếp cách đều nhau. Chúng đúng là những ngôi mộ, nhưng lại toát ra bầu không khí khác xa so với những ngôi mộ mà tôi thường thấy.

“Đây là một nghĩa trang mộc thụ táng[note78927]. Tro cốt sẽ được trở về với đất, và dù không có gia đình hay người thân chăm sóc mộ phần, nhà chùa vẫn sẽ lo hương khói vĩnh viễn nên không cần phải lo. Đây là một sáng kiến nằm trong cuộc cải cách của hòn đảo, nghe nói hiện tại còn có những người ngoài tỉnh muốn đăng ký chôn cất ở đây nữa. Có rất nhiều người lớn tuổi sống một mình lo lắng về chuyện sau này, mà phong cảnh nơi này lại rất đẹp nên có lẽ họ muốn được yên nghỉ tại nơi này.”

Giọng anh Kazuki vẫn bình thản như mọi khi, nhưng góc nghiêng của anh lại tĩnh lặng đến mức khiến người ta khó lòng cất lời. Những bông hoa được đặt trước mộ có lẽ là do anh mang đến. Bỗng một cơn gió biển thổi tới, một cánh cúc trắng bay đi, tựa như bông tuyết trái mùa.

“Ngôi mộ này…”

“Ừm. Nghe nói cô ấy cũng có mộ gia đình ở đất liền, nhưng chính cô ấy đã bày tỏ nguyện vọng được chôn cất trên đảo. Chắc hẳn cô ấy đã rất trân quý hòn đảo này.”

Anh Kazuki chắp tay lại và nhắm mắt. Gió biển như trêu đùa, làm rối tung mái tóc màu sáng của anh. Dẫu vậy, anh Kazuki không hề nhúc nhích.

Dáng hình cầu nguyện cho người đã yên giấc, khiến lồng ngực tôi nói đau.

Chắc hẳn anh Kazuki rất trân quý người ấy, dù đã bốn năm trôi qua. Liệu anh Kazuki có bao giờ mơ về người ấy? Liệu sau khi tỉnh giấc, anh có phải nín thở chịu đựng nỗi cô đơn như xé nát cõi lòng? Lần đầu tiên đứng trước ngôi mộ của người đột ngột nói lời từ biệt với mình, liệu lúc đó anh Kazuki đã có cảm xúc như thế nào?

Anh Kazuki từ từ mở mắt, hạ đôi tay đang chắp xuống. Sau đó anh nhìn quay lại nhìn tôi đang đứng ngây ra đó, tròn mắt bất ngờ.

“Ơ, sao em lại khóc?”

“… Em không có khóc. Là mồ hôi rơi xuống mắt thôi ạ.”

“Bị vậy là hơi xót đó.”

Anh Kazuki mỉm cười nhàn nhạt với khuôn mặt bối rối, như muốn nói rằng “Em không cần phải bận tâm đâu”. Tôi dùng tay áo quệt đi nước mắt, rồi chìa ra chiếc túi mà anh Takatsu đưa cho.

“… Anh Takatsu bảo em mang theo bữa sáng. Là sandwich trứng ạ.”

“A, anh quên mất là mình đang đói meo đấy. Mình tìm chỗ nào ngồi ăn đi…”

Anh Kazuki vừa gạt đi những lọn tón trước mắt, vừa nói.

“Sau khi ăn xong, anh sẽ dẫn em đến nơi đó.”

Khi đứng trước một khu rừng rậm rạp với những cây cổ thụ chắc đã sống qua mấy mươi năm, tôi bất giác nín thở. Nơi đây tỏa ra một luồng khí tức áp đảo, có lẽ là ma lực của tự nhiên. Sợi dây thừng shimenawa[note78928] cũ kỹ có gắn những dải giấy trắng giăng ngang lối vào khu rừng càng làm tăng thêm bầu không khí đặc biệt.

“Lối này.”

Anh Kazuki băng qua sợi dây thừng một cách quen thuộc, rồi bước đi trên con đường nhỏ được bao quanh bởi hàng cây. Gọi là đường, nhưng nó chỉ là một nơi mọc ít cỏ hơn so với những chỗ xung quanh. Bên trong khu rừng khá tối, những tia sáng luồng lách qua khe hở từ cành lá. Tiếng côn trùng vo ve bên tai khiến tôi giật thót, nhưng anh Kazuki vẫn tỉnh bơ nói rằng “Anh xịt thuốc chống côn trùng rồi”. Đúng là xấu xa.

Vừa chịu đựng cái nóng và sự tấn công của đám côn trùng, tôi tiếp tục bước đi. Dần dà, những bụi cây thưa đi và một không gian bừng sát hiện ra trước mắt. “Oa”, tôi bất giác thốt lên.

Nơi đó là một bãi cát nhỏ rộng khoảng chừng ba mươi mét, được bao bọc bởi những vách đá hiểm trở như muốn bao bọc lấy nó. Bức tường đá ngăn cách vịnh nhỏ với biển khơi, chỉ chừa lại một khe hẹp ở phía xa, và qua khe đá ấy, tôi có thể trông thấy một đường chân trời bé xíu như đồ chơi. Màu nước biển giống hệt viên kẹo vị soda, trong đến mức có thể nhìn rõ cát dưới đấy. Đó là một nơi đẹp đẽ đến mức dù có ngắm nhìn mãi cũng không chán, và trên hết, bầu không khí của nơi này giống hệt với mũi Thần Giáng của thị trấn Kuratsu. Thật khó diễn tả, nhưng đó là một cảm giác thần bí như cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.

“Chúng ta sẽ đi lên kia.”

“Hả!? Th… thật ạ…!?”

“Không sao, có chỗ đặt chân mà. Nhưng bất cẩn thì vẫn rơi xuống như chơi, nên hãy cẩn thận.”

Cái “chỗ kia” mà anh Kazuki nói, là một cái cầu thang được dựng từ chân vách đá bên trái cho đến tận đỉnh. Dù nói là cầu thang, nhưng thực chất chúng chỉ là những miếng gỗ được chen vào giữa các tảng đá để làm chỗ đặt chân, đến tay vịn còn chẳng có. Với một đứa sợ độ cao như tôi, chỉ cần nhìn thôi cũng đủ để nổi da gà. Vậy mà anh Kazuki chẳng hề nao núng, cứ thế bước đi trên cầu thang một cách nhẹ tênh. Tôi cũng nghiến chặt răng, bám lấy vách đá hiểm trở, đặt chân lên những miếng gỗ phủ đầy rêu. Nếu có thể gặp lại Isuzu một lần nữa, không gì là tôi không làm được.

Tôi nghĩ độ cao của vách đá bao quanh vịnh nhỏ rơi vào khoảng hai mươi mét hơn một chút. Khi nhìn xuống chân mình giữa chừng, tôi thấy mặt đất đã ở tuốt phía dưới, tưởng chừng như có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Khi lên đến đỉnh với một đống mồ hôi lạnh túa ra, tôi đã khụy xuống vì kiệt sức.

“Hasekura, em ổn chứ?”

“… Hoàn toàn ổn ạ. Em muốn quan sát hoa lá một chút, anh đợi em mười giây có được không?”

Đỉnh vách đá là một nơi yên bình, cỏ dại mọc um tùm, xen lẫn những bông hoa trắng, đỏ và hồng, đôi lúc còn nghe thấy tiếng chim hót. Một con bướm trắng bay lượn lờ như muốn cổ vũ tôi rằng hãy cố lên, rồi biến mất ngay sau đó.

Lau đi giọt mồ hôi trên trán, tôi đứng dậy. Anh Kazuki nhìn tôi như đang kiểm tra lần cuối, rồi ra hiệu bằng mắt bảo tôi đi theo và bắt đầu cất bước.

Anh Kazuki đi về phía rìa vách đá nhô ra biển. Càng đến gần biển, tiếng sóng vỗ và gió thổi vào càng lúc càng mạnh. Mép đá được bao quanh bởi một hàng rào kiên cố, dường như là để chống rơi ngã, chiều cao khoảng tầm hông của tôi. Anh Kazuki dừng lại trước hàng rào ấy, rồi quay người lại.

“Cô ấy đã nhảy từ đây để đến năm 2017, và dùng cách tương tự để quay trở về năm 1974.”

Tôi cứng đờ người không thể di chuyển. Nơi mà ngón tay anh Kazuki đang chỉ, nằm ở khoảng không bên kia hàng rào, về vùng biển nơi những con sóng dữ dội xô vào vách đá rồi vỡ tan ra. Ở độ cao hơn hai mươi mét như thế, việc rơi xuống đó chắc chắn sẽ mất mạng.

“Trên hòn đảo này có truyền thuyết về ‘Thần giấu’. Vịnh này cũng vì thế mà được gọi là ‘Vịnh Mất Tích’. Hình như ngày xưa thỉnh thoảng có người mất tích tại nơi này nên mới có cái tên đó. Có lẽ quanh khu này có một thứ gì đó khiến cho thời gian bị xáo trộn.”

Tiếng nuốt nước bọt vang lên một cách kỳ lạ trong tai tôi, tiếng song biển đang gào thét.

“Khi biết được cô ấy đến từ năm 1974, anh đã từng thử điều tra về những người mất tích tại vịnh nhỏ. Hầu hết những người mất tích đều không rõ tung tích., nhưng cũng có những người đã có thể quay trở về thời đại của mình sau khi bị lạc đến dòng thời gian khác. Người đó cũng đã dùng cách tương tự với cô ấy để quay trở về.”

“Chỉ là”, giọng của anh Kazuki tiếp tục, tĩnh lặng đến đáng sợ.

“Không có gì đảm bảo em sẽ có thể du hành thời gian khi nhảy xuông từ đây. Ngược lại, khả năng em chết hoặc bị thương nặng còn cao hơn. Mà giả sử em có du hành thời gian được đi nữa, cũng không chắc đó là năm 2070 mà em muốn đến. Rất có thể đó là một thời đại hoàn toàn khác. Dù vậy…”

Dù vậy, em vẫn dám nhảy chứ? Tôi có cảm giác như bị tra hỏi bởi ánh nhìn xoáy sâu của anh Kazuki.

Tôi muốn gặp lại Isuzu, một lần nữa.

Tôi có làm bất cứ điều gì, đánh đổi mọi thứ miễn là nó có thể giúp tôi đạt được mong muốn. Tôi đã nghĩ như thế kể từ khi nghe được câu chuyện của anh Kazuki. Cho đến lúc nãy và cho đến tận bây giờ, suy nghĩ của tôi vẫn chưa bao giờ thay đổi.

Thế nhưng, con người thật của tôi lại đang đứng chết trân, bất động trước khả năng có thể dẫn đến Isuzu. Nếu tôi nhảy từ đây, và lỡ như may mắn đến được một thời điểm khác, nhưng đó lại không phải là năm 2070 mà tôi đã ở cùng Isuzu thì sao? Liệu tôi có thể quay trở lại thời điểm hiện tại này không? Liệu những chuyện thuận lợi như vậy có xảy ra nhiều lần không? Chẳng phải là tôi sẽ trở nên đơn độc ở một nơi xa lạ, một nơi không chắc sẽ có người giúp đỡ mình như Isuzu sao?

Hơn nữa, nếu nhảy xuống mà không chết thì sao? Cho dù có không chết, nhưng tôi phải sống trong cảnh tàn phế suốt đời thì sao?

Tôi chỉ đang tìm kiếm những lý do để không phải bước tới, và tôi cảm thấy bản thân thật thảm hại khi đôi chân cứ chùn lại một cách hèn hạ. Tình cảm của tôi, chẳng lẽ chỉ đến mức này thôi sao? Sức mạnh của mong muốn được gặp lại Isuzu chẳng lẽ lại thua một vách đá và vùng biển này ư? Không, chắc chắn là không, vì vậy tôi phải bước tới. Ấy vậy, đôi chân tôi không chịu bước đi.

“Hasekura.”

Giọng anh Kazuki tĩnh lặng, như đang thấm sâu vào tai tôi.

“Nếu em vẫn nói là mình muốn nhảy, chắc chắn anh sẽ đánh em để ngăn lại và lôi em quay về. Nên là, hãy từ bỏ đi.”

Tôi gượng quay cái cổ cứng đờ của mình. Trong mắt anh Kazuki, không hề có một chút sự chế giễu nào, mà chỉ có một cái nhìn sâu thẳm đầy bao dung.

Gương mặt anh Kazuki nhòe đi, tôi cúi gằm mặt xuống. Sâu trong hốc mắt và nơi cuống họng, một cảm giác đau nhói và nóng ran dâng trào.

“… Em thực sự đã đến năm 2070. Em không nói dối.”

“Ừm.”

“… Em đã gặp chị Isuzu ở đó. Em nói thật. Chị ấy đã chăm sóc em rất nhiều. Em muốn gặp lại chị Isuzu một lần nữa. Em không hề nói dối.”

“Ừm, anh biết.”

Mỗi lần tôi lặp đi lặp lại mình không nói dối như một đứa trẻ, anh Kazuki lại đáp “Anh biết”.

Cho đến khi tôi nín khóc, chấp nhận sự thật rằng mình sẽ không thể gặp lại cô ấy nữa, anh Kazuki vẫn lặp lại câu nói ấy và đứng bên cạnh tôi.

Trời đã nóng như đổ lửa mà tôi còn khóc nữa nên cơ thể mất nước đến mức khô cằn, ngay khi vừa xuống hết cầu thang ở vách đá nguy hiểm đó, cơ thể tôi đã hoàn toàn rã rời. Đặt chân xuống vịnh nhỏ, tôi ngồi bệt xuống nền cát. Anh Kazuki cũng ngồi xuống bên cạnh tôi, ôm gối như đang trong giờ thể dục.

“Anh Kazuki, anh đã bao giờ nghĩ đến việc nhảy từ đó xuống để gặp cô ấy chưa?”

Miệng hỏi, nhưng tôi đã biết câu trả lời. Nhảy xuống từ đó chưa chắc đã có thể du hành thời gian, cho dù có được đi nữa thì cũng không chắc đến được khoảng thời gian mong muốn. Khả năng mất mạng như chơi là rất cao.

Anh Kazuki để tóc mình bay trong gió, im lặng một lúc lâu rồi cất tiếng.

“Anh đã nhận được một bức thư.”

Giọng nói bất chợt tưởng chừng như đã bị sóng biển cuốn đi mất.

“Bức thư, từ chị Nanao đó ư?”

“Ừm. Có vẻ như trước khi mất, cô ấy đã lên kế hoạch sẵn để anh có thể nhận được nó. Sau khi đọc nó, anh đã có cảm giác như mình được cứu rỗi. Dù không thể gặp lại, nhưng anh dặn với lòng phải sống sao cho để bản thân không thấy hổ thẹn với cô ấy. Nhưng khi thời gian trôi qua, anh dần dần không hiểu chính mình nữa. Bản thân đã nhận được nhiều thứ từ cô ấy, nhưng liệu anh đã làm được gì cho cô ấy? Cô ấy nói rằng rất hạnh phúc khi được gặp anh, nhưng nếu cô ấy không gặp anh, có lẽ cô ấy đã không phải làm việc đến mức quên cả bệnh tật và ra đi sớm như thế. Biết đâu cô ấy đã có thể sống hạnh phúc bên ai đó, cùng người đó trải qua một cuộc đời chậm rãi, dài lâu. Nếu như anh không đến hòn đảo này, hoặc nếu như người tìm thấy cô ấy ở vịnh nhỏ lúc đó không phải là anh.”

Nhìn thấy một bóng đen trầm lắng trong mắt trong anh Kazuki, lòng tôi thắt lại.

“Anh Kazuki, chị Nanano chắc chắn sẽ không bao giờ nghĩ như thế. Bằng không thì chị ấy đã không để lại bức thư ấy.”

“Anh cũng biết cô ấy sẽ nói như thế. Nhưng anh đã nghĩ đến điều đó, và nó đã luôn quanh quẩn mãi trong tâm trí anh. Thế nên cứ mỗi khi tan học, anh lại thường leo lên vách đá đó để ngắm biển. Anh nghĩ, nếu nhảy xuống đây và trở về quá khứ, biết đâu mình sẽ có thể thay đổi kết cục của hiện tại. Rằng biết đâu anh sẽ có thể làm gì đó để khiến cho cô ấy có một cuộc đời hạnh phúc hơn. Hoặc có lẽ, anh chỉ đơn thuần một gặp cô ấy thêm một lần nữa.”

Tôi hình dung bóng dáng của anh Kazuki thời cấp ba. Nghĩ đến trái tim như muốn tan vỡ của cậu thiếu niên đứng trên bờ vách đá, tôi cảm thấy buồn đến đau lòng. Nhưng rồi, anh Kazuki quay lại nhìn tôi với khuôn mặt bình thản như mọi khi.

“Thế rồi, trong lúc nghỉ vẩn vơ như thế trên vách đá, anh bị một người của ủy ban đến kiểm tra dây xích bắt gặp. Hơn nữa, anh còn bị lôi về tận nhà của người đó, bị người đó rưng rưng nước mắt thuyết giáo ‘Cuộc sống có đôi lúc khó khăn, nhưng không được chết!’, rồi còn bị liên lạc đến tận trường, bị giáo viên chủ nhiệm mắng một trận té tát. Đến anh Takatsu sau khi nghe chuyện cũng cốc đầu anh một cái. Cốc đầu đấy, đến cha anh còn chưa làm thế với anh bao giờ.”

“… Cú cốc đầu của anh Takatsu chắc đau lắm nhỉ.”

“Anh còn tưởng hộp sọ mình bị nứt ra rồi cơ. Với lại, chỗ đó hồi ấy cũng chỉ có một sợi dây xích đơn giản giăng qua, nhưng sau vụ đó, người ta đã dựng lên một hàng rào kiên cố như bây giờ.”

“Chắc chắn là hàng rào chống anh Kazuki!”

Dù đang nói chuyện buồn, nhưng tôi lại bất giác bật cười. Anh Kazuki cũng mỉm cười theo, rồi lại hướng mắt về phía biển xa.

“Bị một lần như thế, nên từ đó anh cũng không đến nơi ấy nhiều nữa. Lỡ sẩy chân chết đi thì phiền hà lắm, sẽ có nhiều người bị liên lụy và phải chịu trách nhiệm. Chuyện đó mà xảy ra thì chắc cô ấy sẽ mắng anh cho khỏi ngẩn mặt lên mất.”

“… Chị ấy là người như vậy ạ?”

“Ừm. Nhìn bề ngoài thì không giống, nhưng lúc nổi giận thì đáng sợ lắm. Và những lúc cần thiết thì lại vô cùng mạnh mẽ.”

Giọng nói và biểu cảm của anh Kazuki khi kể về cô ấy thật dịu dàng, đến mức khiến lòng quặn lại. Một con chim trắng không rõ tên cất tiếng kêu chót vót, bay theo chiều gió trên mặt biển.

Anh Kazuki ngắm nhìn bóng con chim xa dần, rồi quay mặt lại về phía tôi.

“Nhưng mà, nghĩ lại thì đó cũng là chuyện đương nhiên nhỉ. Việc quay về quá khứ để sữa chữa những điều hối tiếc, là việc mà hầu hết mọi người trên thế giới này không làm được, dẫu vậy, mọi người vẫn cố gắng sống tiếp vì ngày mai. Rồi cuối cùng anh cũng hiểu ra rằng mình phải sống một cuộc đời theo lẽ dĩ nhiên như bao người. Chấp nhận rằng có thể mọi chuyện sẽ khác nếu cô ấy không gặp anh, chấp nhận rằng cô ấy đã cống hiến hết cuộc đời mình và để lại cho chúng ta rất nhiều thứ. Chấp nhận những điều trên, anh tự hỏi mình có thể làm gì và nên làm gì.”

Và thế là anh Kazuki đã chọn con đường tiếp tục phát huy những di sản của cô ấy. Vậy còn tôi thì sao? Dường như tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Nó không liên quan đến việc người anh Kazuki gặp đến từ quá khứ, hay Isuzu tôi gặp đến từ tương lai, chỉ là tôi đã không thể nghĩ được như anh ấy. Rằng mình có thể làm được gì, khi chính bản thân đã nhìn thấy tương lai.

Anh Kazuki nhặt dưới chân lên một vỏ sò trắng đang vùi trong cát. Sau khi đặt nó lên lòng bàn tay và ngắm nhìn, anh ấy nhìn thẳng vào mắt tôi.

“Em cũng vậy, đừng chỉ nhìn về tương lai, mà cũng nên nhìn về nơi mà mình đang đứng hiện tại. Những gì em trải qua ở tương lai cũng rất quan trọng, nhưng em nên làm sao để những thứ quan trọng mà em có ở hiện tại, như bạn bè, gia đình, hay giấc mơ, không bị lu mờ và xếp sau những sự kiện sẽ diễn ra trong tương lai.”

“… Nhưng em không thể quên được ạ.

“Em không cần phải quên, đến anh cũng chẳng quên được đây. Có lẽ cả đời này anh cũng sẽ không thể quên được, và đôi lúc còn nghĩ rằng mình sẽ không thể yêu ai khác được nữa.”

“Dẫu vậy”, anh Kazuki nhìn về biển khơi, ánh mắt xa xăm như đang tìm kiếm một ai đó.

“Nếu đã không thể gặp lại, anh nghĩ mình nên sống vì hiện tại, bởi đó là điều chúng ta có thể làm. Cố gắng suy nghĩ xem bản thân có thể làm được điều gì khi đang tồn tại ở đây, ngay lúc này. Tuy không thể giải thích rõ ràng, nhưng anh nghĩ rằng sống hết mình ở nơi mình đang đứng chính là cách để tôn trọng cả quá khứ và tương lai mà cả em lẫn anh đều có dính dáng đến nó.

Tôi đột nhiên hiểu ra.

Anh Kazuki đưa tôi đến hòn đảo này, không chỉ để tôi thấy một nơi có khả năng vượt thời gian. Mà còn để nói với tôi rằng, đừng chỉ nhìn về tương lai, hãy nhìn vào cả hiện tại mà bản thân đang sống.

Lúc này, tôi vẫn chưa thể gật đầu đồng tình với lời của anh Kazuki mà không có một chút vướng bận nào. Chắc chắn từ giờ về sau, nếu có khả năng gặp lại Isuzu, tôi vẫn sẽ dao động. Tôi sẽ muốn vứt bỏ hiện tại ở nơi này để đến với nơi đó. Nhưng dù vậy, những lời của anh Kazuki đã thấm sâu vào tận đáy lòng tôi. Tôi thực sự nghĩ rằng, mình cũng muốn trở thành một người như anh Kazuki.

“Hasekura, em cũng mau nước mắt nhỉ.”

“… Em không có. Chỉ là nước mũi chảy ra từ mắt thôi.”

“Chung quy lại, người tên Isuzu đó sẽ sinh ra vào năm 2045 nhỉ. Vậy chỉ còn 24 năm nữa thôi. Nếu em sống an toàn và khỏe mạnh, em có thể tìm gặp lại cô ấy mà.”

“… Tới lúc đó em là một ông chú ngoài bốn mươi rồi, còn chị ấy chỉ vừa mới lọt lòng. Dù nói là gặp, nhưng chắc chị ấy sẽ bỏ chạy khiếp vía mất.”

“Anh đây còn chẳng có cơ hội gặp lại đây này, tuyệt vọng muốn chết luôn đó.”

“Oái! Em xin lỗi, em xin lỗi, em xin lỗi…”

Thấy tôi tái mặt cúi đầu, anh Kazuki khẽ bật cười rồi đứng dậy.

“Về thôi nhỉ.”

Tôi cũng gật đầu và đứng lên. Gió thổi vào đôi mắt ươn ướt của tôi, nhưng tâm trạng của tôi khi này lại trong trẻo như bầu trời ban mai sau khi cơn bão qua đi.

“Trễ quá! Mì somen trương hết bây giờ.”

Khi trở về dinh thự lãnh chúa thời hiện đại, đó là lời đầu tiên phát ra từ khuôn mặt nhăn nhó của anh Takatsu.

Vào phòng khách, quả thật đã có một núi mì somen, cùng với tempura gà và các loại rau củ mùa hè dọn sẵn bên cạnh. Dinh thự Takatsu lần này cũng không làm tôi thất vọng, cả tempura lẫn mì somen đều rất ngon. Và tất nhiên, anh Takatsu vẫn không ăn cùng chúng tôi.

“Ăn xong thì đi trả tiền trọ thôi.”

“Là biểu diễn trước mặt anh Takatsu ạ?”

“Chính xác. Em cũng đàn nhé, chẳng hạn như mấy bản của The Beatles đã chơi ở Eki-con ấy.”

“… Em luyện tập một chút trước khi biểu diễn được không?”

Vừa ăn mì somen, anh Kazuki kể cho tôi nghe câu chuyện về chuyến đến thăm đảo năm ngoái. Đó là kỳ nghỉ hè đầu tiên sau khi vào đại học, dù được anh Takatsu cho tá túc suốt thời gian ở trên đảo, nhưng anh Kazuki cũng thấy áy náy giống như tôi khi được cho ăn ở miễn phí. Khi đề nghị rằng liệu mình có thể làm gì đó để đền đáp, anh Takatsu đã nói “Vậy thì chơi piano đi”.

“Nhưng mà, anh Takatsu tai thính kinh khủng nên anh đã bị mắng là ‘Chú mày chẳng hề đả động gì tới piano đúng không’. Hơn nữa, anh còn bị bắt chơi ngẫu hứng với đủ mọi chủ đề trên trời dưới đất, cảm giác cứ như mình là một tay piano quèn bị mời đến phòng khách của một tên quý tộc xấu tính vậy. Nhưng năm nay có đồng đội bị mắng cùng nên anh thấy vui.”

“Khoan đã, sao anh lại mặc định rằng cả em cũng bị mắng ạ!?”

Sau khi xử lý xong mì somen và tempura, tôi theo anh Kazuki hướng về phía Tây của khu dinh thự rộng lớn. Tôi cứ ngỡ đây là dinh thự thuần Nhật, nhưng thỉnh thoảng cũng bắt gặp vài cánh cửa lộng lẫy được làm theo kiểu Châu Âu, anh Kazuki đã dừng lại trước một trong những căn phòng như thế.

“Bọn em đến chơi đàn ạ.”

Phía sau cánh cửa là một không gian rộng rãi, với bộ ghế sô-pha mềm và một cây đại dương cầm tráng lệ. Đây chính là phòng khách của vị quý tộc xấu tính trên đảo xa… Vừa nghĩ, tôi vừa run rẩy bước vào phòng. Vị quý tộc luôn mặc đồ đen, ông ta khoanh chân tựa lưng vào ghế sô-pha đọc sách. Khi thấy tôi và anh Kazuki, ông ta hất cằm về phía piano như muốn nói “Bắt đầu đi”.

“Vậy thì Hasekura, em sẽ chơi các bản của The Beatles. ‘Yesterday’ và ‘Let It Be’.”

“Sao tự nhiên lại là em ạ? Anh Kazuki, đừng nói là anh để em lên trước để hạ thấp tiêu chuẩn đấy nh–“

“Rồi rồi, nhanh lên đi.”

Tôi đã chơi hai bản của The Beatles với phần đệm đàn của anh Kazuki. Lần này không có Kei và Chiharu nên tôi chỉ đơn giản là đàn phần giai điệu. Tuy nhiên, trước áp lực của ngài Takatsu đang vòng tay sau ghế và nhìn về phía này, tôi đã sợ đến mức mắc lỗi liên tục. Sau khi chơi xong hai bản nhạc, tôi rụt rè cúi đầu, vị quý tộc của hòn đảo chỉ nói một câu.

“Chú mày, trông mặt vậy mà nhát gớm nhỉ.”

Trái tim tôi hứng chịu một vết thương sâu sắc, hai tay tôi chống xuống sàn. Thấy vậy, anh Kazuki vỗ về và an ủi tôi.

“Anh ấy không có ý chê đâu, chỉ là muốn bảo em hãy chơi mạnh dạn hơn nữa đấy.”

Tuy nhiên, khi đã hoàn thành chỉ tiêu thì tâm trạng cũng thoải mái hơn. Tôi thong thả ngồi xuống chiếc ghế sô-pha đơn và tận hưởng màn độc tấu tiếp theo của anh Kazuki. Ngài Takatsu ngả lưng trên chiếc ghế sô-pha dài, tay đặt trên bụng và khép mắt lại. Nhưng để chứng minh rằng mình không ngủ, ông ta bắt dầu ra chủ đề:

“Ngựa con.”

“Khúc gỗ trôi.”

“Lễ hội ở đền thờ.”

“Chiếc xe tải nhỏ của ông Nogi.”

Cứ mỗi chủ đề, anh Kazuki lại “Hừm” một tiếng suy nghĩ, rồi chơi ngẫu hứng dựa trên chủ đề đó. Với một đứa vốn đã chật vật chỉ để chơi theo đúng nhạc phổ, việc anh Kazuki có thể liên tiếp tạo ra những bản nhạc không hề có sẵn quả là một điều kỳ diệu. Điệu nhảy của chú ngựa con tinh nghịch. Hành trình khép lại của khúc gỗ trôi từ biển xa. Tiếng nhạc lễ hội rộn rã trong đền. Chiếc xe bán tải chăm chỉ có chút lọc cọc. Vừa lắng nghe sự thay đổi tuyệt đẹp tựa như kính vạn hoa của dương cầm, tôi suy nghĩ.

Anh Ozaki từng nói, anh Kazuki xem việc chơi đàn của mình là “sở thích”. Nhưng tay nghề của anh Kazuki chắc chắn không thể chỉ gói gọn trong hai chữ “sở thích”, chắc chắn anh ấy đã luyện tập nó gần như mỗi ngày. Bằng không thì anh ấy đã không thể tạo ra âm nhạc lẫn âm sắc được rèn giũa đến mức hoàn hảo như thế này được. Giống như một vận động viên ngày nào cũng âm thầm tích lũy những bài huấn luyện gian khổ, có lẽ nào anh ấy cũng đang âm thầm đối mặt với cây đàn piano mỗi ngày.

Bản nhạc ngẫu hứng mà anh Kazuki chơi với chủ đề “Vịnh nhỏ” là một giai điệu ấm áp đến vô tận, đến mức tôi tự hỏi rằng liệu đây có phải lòng nhân ái. Tôi nghĩ về vịnh nhỏ tựa như một căn cứ bí mật mà chúng tôi đã đến vào ngày hôm nay. Tôi nghĩ về một chàng trai và một cô gái đã gặp nhau ở đó.

“La Campanella.”

Sau khi dư âm của giai điệu cuối cùng tan biến, ngài Takatsu bỗng mở mắt. Anh Kazuki quay lại nhìn ông với vẻ ngạc nhiên. Anh nhìn xuống tay mình, thì thầm rằng “Liệu mình có chơi được không nhỉ”, rồi đặt những ngón tay lên phím đàn.

Ngay cả một đứa không rành về âm nhạc như tôi cũng biết về bản “La Campanella” của Liszt.

Đúng như cái tên có nghĩa là “Chiếc chuông”, đó là một bản nhạc tuyệt đẹp tựa như tiếng chuông ngân vang ở nhà thờ, nhưng đồng thời cũng là một bản nhạc cực khó với hàng tá kỹ thuật cấp độ ác quỷ. Tuy tôi không chơi piano, nhưng khi nghe bản nhạc mà ngón tay phải bay nhảy ngàn quãng như thế, tôi nghĩ Liszt chắc chắn là một người máu S.

Thế nhưng, màn trình diễn của anh Kazuki khiến tôi quên bẵng đi những kỹ thuật đó ngay lập tức.

Những nốt nhạc trong suốt như pha lê, từng nốt từng nốt lấp lánh sắc xanh trên không trung, tiếng chuông vang vọng trong tai tôi dù thực tế chẳng hề có. Vừa lắng nghe giai điệu đẹp đến nao lòng, tôi vừa có cảm giác như đang xem bộ phim cuộc đời của anh Kazuki. Hạnh phúc, bi ai, thống khổ, và cả tình yêu sâu đậm dành cho một ai đó.

Khi khúc crescendo [note78929] tựa như cơn gió xé toạc bầu trời vang lên, toàn thân tôi nổi da gà. Anh Kazuki lướt qua khúc coda [note78930] dữ dội như chẳng màn đến việc gãy cả ngón tay, anh dồn hết sức bình sinh để ngân vang hợp âm cuối cùng như tiếng chuông của đại giáo đường. Một lúc sau, anh mới khẽ khàng rời tay khỏi phím đàn.

“… Giữa chừng anh sai hơi nhiều.”

Cười ngượng ngùng, anh Kazuki quay người lại rồi tròn xoe mắt.

“Hasekura, nữa ư? Lần này sao lại khóc thế?”

“… Tại anh chơi hay quá…”

“Hay gì chứ, thế này có là gì.”

Dù nói vậy, nhưng lòng tôi đã rung động. Đến mức nước mắt tuôn trào.

Âm nhạc ẩn chứa một phép màu.

Ngày hôm ấy, trong lúc tôi đang không biết phải đi về đâu sau khi đột ngột mất đi gia đình lẫn nhà cửa, chính tiếng đàn violin của Isuzu đã vực dậy tôi. Không phải bằng lời nói hay lý lẽ, chính thứ âm nhạc thuần túy tựa như liều thuốc ấy đã thẩm thấu vào trái tim, gột rửa và chữa lành vết thương cho tôi.

Thế nhưng, không phải nhạc sĩ nào cũng có thể sử dụng thứ phép màu đó. Dù có là thiên tài đến đâu, chỉ tài năng thôi cũng không thể tạo nên điều kỳ diệu. Trong những năm tháng niên thiếu, anh ấy hẳn đã ở bên piano nhiều đến mức người bình thường không thể tưởng tượng nổi. Bằng sự nỗ lực không ngừng nghỉ, thứ mà anh ấy có được chính là khả năng biến cuộc đời của mình thành âm nhạc, làm rung động trái tim người nghe.

“Chú mày không định biểu diễn ở nơi nào đó đàng hoàng hả?”

Anh Takatsu lặng lẽ lên tiếng. Anh Kazuki đáp lại bằng nụ cười hiền lành thường thấy.

“Có mà, em hay mượn piano ở Câu lạc bộ Hợp xướng để chơi đấy. Không luyện tập là bị anh mắng mà lại.”

Chắc chắn anh Kazuki thừa hiểu ý của anh Takatsu không phải như vậy. Và có lẽ anh Takatsu cũng biết anh Kazuki đang đánh trống lảng. Anh Takatsu không nói gì thêm nữa, chỉ tuyên bố “Sáu giờ ăn tối”, rồi rời khỏi phòng.

Bữa tối hôm đó lại càng xa hoa hơn nữa, những loại sò ốc đắt tiền như bào ngư, ốc xà cừ được làm sashimi bày la liệt trên bàn ăn mà chẳng hề tiếc tay. Còn có cả món bít tết bò dày ụ, và những loại rau mùa hạ dường như được hái từ vườn nhà anh Takatsu cũng góp phần tô điểm cho mâm cơm. Tối hôm ấy, thật hiếm khi anh Takatsu cũng dùng bữa cùng. Vừa cùng anh Kazuki cười phá lên trước những câu chuyện về những người kỳ quặc mà anh gặp hồi còn học trường mỹ thuật, tôi lại thấy sống mũi mình cay cay một nỗi buồn man mác.

Ngày mai, tôi sẽ trở về Sendai.

*

Sáng hôm sau, cả tôi và anh Kazuki đều thức dậy sớm thu dọn hành lý, dọn dẹp sạch sẽ căn phòng để bày tỏ lòng biết ơn. Sau khi ăn sáng xong, khoảng chín giờ sáng chúng tôi lên đường ra cảng. Chuyến phà từ đảo chỉ có duy nhất chuyến mười một giờ, chúng tôi phải đi sớm để không bị lỡ.

“Lên phà đừng có nghịch ngợm để ngã xuống biển đấy.”

Anh Takatsu miệng ngậm điếu thuốc, tay cầm vòi phun tưới nước cho vườn rau nhà trong nắng sớm. Sắp phải chia tay rồi mà anh ấy cũng không thèm liếc chúng tôi một cái.

“Anh Takatsu tại sợ buồn nên không muốn chia tay tụi mình đó đó.”

Ngay khi anh Kazuki giải thích xong, anh Takatsu lẳng lặng cầm vòi nước chĩa về phía chúng tôi. Tôi và anh Kazuki la hét bỏ chạy trước đòn thủy công đầy hiểm hóc của anh Takatsu, để rồi tới cuối, chúng tôi cúi đầu cảm ơn anh ấy trong bộ dạng ướt nhem.

“Năm sau lại tới đấy.”

Câu nói ấy được anh Takatsu thốt ra trong khi đang tưới rau mà vẫn không quay mặt về phía này. Dường như câu nói đó không chỉ dành cho anh Kazuki, mà còn dành cho tôi.

Sau khi mua mấy hộp cà ri ốc về làm qua cho Madoka, chúng tôi lên phà. Anh Kazuki tuy không nói ra, nhưng chắc vẫn còn lưu luyến lắm. Anh ấy cứ đứng trên boong tàu, mãi đưa mắt về phía hòn đảo càng xa dần.

Chuyến đi kéo dài nửa ngày lại bắt đầu, và phải đến nửa đêm chúng tôi mới tới Sendai. Vì lịch trình eo hẹp, tuy hơi sớm một chút nhưng tôi và anh Kazuki quyết định ăn trưa ngay trên phà. Đó là hộp cơm dùng một lần mà anh Takatsu đã chuẩn bị cho chúng tôi, bên trong có cơm nắm và một ít đồ ăn kèm đơn giản.

“Em nghĩ sau khi về Sendai, em sẽ cùng Kei và Chiharu chơi nhạc một cách nghiêm túc.”

Sau khi di chuyển đến khu vực sảnh chờ tự do, tôi mở lời sao cho nó giống như một câu chuyện bâng quơ nhất có thể. Anh Kazuki đang cắn miếng cơm nắm bọc rong biển, liền tròn mắt nhìn tôi rồi nở một nụ cười.

“Ừm, được đấy. Tiếng đàn của em hay như vậy cơ mà, anh thấy em nên biểu diễn trước mọi người đó.”

“Anh cũng vậy, anh có muốn tham gia cùng bọn em chứ?”

Anh Kazuki đang định gắp miếng trứng cuộn, bỗng khựng đũa lại. Cảm thấy không thể để cuộc trò chuyện này có khoảng hở, tôi nói liền một mạch.

“Nếu chỉ có em, Kei và Chiharu thì tụi em chỉ có thể lập nhóm tam tấu thôi, mà nhạc dành cho tam tấu thì ít lắm. Nhưng nếu là nhóm tứ tấu với piano của anh, chúng ta có thể làm được nhiều thứ hơn. Hơn nữa, tiếng đàn thực sự rất cảm xúc ạ.”

“Ở khoa Luật có một bạn nữ năm nhất, em ấy đã chơi piano từ hồi tiểu học đấy. Thực ra anh đã luôn muốn giới thiệu con bé cho các em, chắc để lần tới anh nói chuyện thử xem sao.”

Giọng anh Kazuki tuy nhẹ nhàng nhưng lại ẩn chứa sự kiên định không thể lay chuyển, tôi đành im lặng. Tôi biết anh chàng trong có vẻ thư sinh này thực ra lại là một người mang trong mình ý chí sắt đá. Tôi dồn hết nội lực, nhìn thẳng vào mắt anh Kazuki.

“Em muốn biểu diễn cùng với anh. Cả Kei và Chiharu chắc chắn cũng đều nghĩ như thế.”

“Nhưng con bé đó bằng tuổi với mấy đứa mà, anh nghĩ sẽ hợp đó. Tính tình tốt, phong cách cũng hợp với các em.”

“Anh cứ né tránh như vậy… Có phải vì trình độ của bọn em quá thấp, không xứng đáng để chơi cùng anh không?”

Khi tôi cất tiếng hỏi với sự bất an, anh Kazuki để lộ vẻ mặt như thể vừa nghe phải một điều không thể lường trước.

“Không phải như thế.”

“Vậy liệu anh có thể chơi cùng tụi em không? Hồi ở Eki-con, em đã rất vui. Em không ngờ rằng âm nhạc lại có thể vui đến thế. Chẳng lẽ anh không thấy vui sao?”

Anh Kazuki im lặng. Vừa đoán ý nghĩa của sự im lặng đó, tôi tiếp tục.

“Nếu anh không thể cho dù em có nói như thế nào đi nữa, vậy anh có thể đến chơi piano, xem như làm thêm tại Alphard không ạ? Quán của bọn em đang thuê nghệ sĩ tạm thời, nhưng bà chủ cần tìm một ai đó có thể gắn bó lâu dài. Em muốn anh chính là người đó. Lắng nghe màn trình diễn của anh hôm qua, em thực sự đã nể phục từ tận đấy lòng. Em muốn anh chơi đàn cho ai đó lắng nghe một cách đàng hoàng, chứ không chỉ là đệm đàn cho câu lạc bộ, hay chơi theo sở thích đơn thuần.”

“Chuyện đó, anh không thể. Xin lỗi, nhưng anh không có ý định đó.”

Đó là một câu trả lời lặng lẽ nhưng không hề do dự, tựa như một lưỡi dao đầy quyết đoán.

“Nếu có nói sai thì cho em xin lỗi, nhưng có phải đó là vì chuyện của cha anh không? Chuyện cũng đã trôi qua lâu rồi, anh không cần phải tự gượng ép bản thân nữa. Anh Takatsu cũng không muốn anh từ bỏ piano, nên mới bảo…”

“Không phải chuyện đó đâu.”

Giọng nói tĩnh lặng quá mức khiến tôi phải im bặt.

Một cậu bé khoảng mười tuổi và cô em gái vẫn còn đang chập chẫn bước đi, họ dắt tay nhau vào phòng chờ. Trước máy bán kem tự động, người anh bế em gái lên để em ấy có thể tự nhấn nút. Vừa mỉm cười ngắm nhìn khung cảnh đó, anh Kazuki khẽ mở lời.

“Người đàn ông bị cha anh đẩy ngã và tử vong, có một người cha. Anh không biết người đàn ông đó có anh chị em hay gì không, nhưng vào thời điểm sáu năm trước, cha của ông ấy đã ở độ tuổi năm mươi. Bây giờ thì chắc cũng tầm sáu mươi rồi, và anh tin rằng ông ấy vẫn còn sống.”

Không hiểu đầu đuôi câu chuyện, tôi nín thở lắng nghe anh Kazuki.

“Sáu năm trước ông ấy vẫn còn sống ở vùng Kanto, nhưng giờ thì anh không biết, có thể ông ấy vẫn còn sống ở đó. Nhưng lỡ một ngày, ông ấy lại muốn đi đến Sendai thì sao? Sendai là một vùng đất có lịch sử lâu đời, có thiên nhiên trù phú, đồ ăn cũng ngon nữa. Và giả sử ông ấy muốn uống rượu và đến khu Kokubuncho vào buổi tối, bắt gặp một câu lạc bộ trông có vẻ hoành tráng, rồi bước vào.”

“Anh Kazuki…”

“Trên sân khấu của quán có một cây piano, và ông ấy ngờ ngợ nghĩ rằng mình đã từng thấy gã chơi đàn ở đâu đó. Khi nhận ra đó là kẻ đã giết chết con trai mình… Ông ấy sẽ cảm thấy ra sao?”

Hai anh em lúc nãy nắm tay nhau ngồi xuống chiếc bàn cách đó một khoảng. Người anh trông có vẻ lanh lợi, nhắc nhở em gái đang mải mê tận hưởng que kem vị nho màu tím coi chừng làm đổ.

“… Anh Kazuki, làm gì có chuyện trùng hợp đến thế…”

“Không có gì là tuyệt đối. Trên thế giới này biết bao chuyện có thể xảy ra, đến cả việc một người nào đó du hành thời gian còn có nữa là. So với chuyện đó, anh nghĩ việc này hoàn toàn có thể xảy ra. Hồi đó, mặt anh đã bị phát tán khắp trên mạng, nên nếu ông ấy có nhận ra anh thì cũng không có gì lạ. Thực tế, cô chị tên Takaizumi chẳng phải đã nhận ra anh đấy sao?”

“Nhưng cho dù có như thế đi chăng nữa, cha anh không hề cố ý trong chuyện đó và cũng không chỉ mình ông ấy có lỗi, Thẩm phán đã phân xử rõ ràng rồi mà. Với lại, anh vốn đâu có lỗi gì. Vậy mà tại sao anh lại sống một cách ngột ngạt như thế?”

“Anh đã được ông trời phù hộ. Hầu hết những người xung quanh anh đều nói những lời giống như em vậy. Đúng là ngày xưa anh có hay bị tiếng vào lời ra, có lẽ sau này cũng vậy, nhưng anh quen rồi. Anh không còn bận tâm đến những kẻ chơi đùa trên nỗi đau của người khác, và anh cũng không thể bị tổn thương bởi những người như thế nữa. Nhưng ông ấy thì khác. Anh nghĩ rằng mình không được phép quên ông ấy.”

Tôi lặng người nhìn vào đôi mắt tĩnh lặng như đã trải qua vô số chông gai trên đời của anh Kazuki.

Tôi cho rằng mình đã hiểu được những gánh nặng mà anh ấy đang mang, nhưng đó chỉ là suy nghĩ kiêu ngạo. Tôi chỉ đơn thuần là biết, chứ không hề thấu hiểu. Anh ấy đã suy nghĩ về những điều mà mình đang gánh vác nhiều đến như thế nào, hay đã sống với suy nghĩ đó mỗi ngày như thế nào,… tôi không hề hiểu một chút nào.

“Nhưng… Em thực sự đã rất cảm động trước tiếng đàn của anh. Khi chứng kiến anh từ bỏ vì một điều mà mình chẳng hề gây ra, em…”

“Anh đâu có khóc lóc từ bỏ đâu. Vốn dĩ, những năm tháng thiếu niên vàng son của anh đã khép lại trong khi anh gần như chẳng học hành chuyên môn một cách tử tế, thế nên anh không còn nghĩ đến chuyện trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp hay gì nữa. Nhưng anh vẫn có thể chơi đàn để khiến bản thân mình vui, hay sáng tác nhạc. Âm nhạc đâu phải chỉ có đứng trên sân khấu và biểu diễn đâu, đúng không? Chơi đàn để giúp ai đó luyện tập, đôi khi lại chơi cho chính mình, mỗi năm một lần chơi cho anh Takatsu nghe… Như thế với anh đã là quá đủ rồi.”

Tôi muốn nói rằng “Ý em không phải như thế”, nhưng nụ cười của anh Kazuki đã ngăn tôi lại, như muốn nói rằng câu chuyện đến đây là kết thúc, tôi không thể nói thêm một lời nào nữa.

Để trả giá cho sinh mạng đã mất, anh ấy đã quyết định dâng hiến thứ quý giá tựa như viên ngọc sáng của chính mình, một thứ mà chắc chắn anh ấy cũng vô cùng trân trọng. Chắc chắn dù tại thời điểm nào, ở bất cứ đâu, anh ấy cũng sẽ tiếp tục dâng hiến, để không làm tổn thương người mà mình không được phép quên. Như để chuộc lại những gì đã mất của người đó.

Chúng tôi đến Sendai vào nửa đêm hôm đó đúng theo lịch trình. Tôi và anh Kazuki tạm biệt nhau ở cầu bộ hành ga Sendai.

“Chuyến đi vui lắm, cảm ơn em. Vậy, hẹn gặp lại nhé.”

Anh Kazuki mỉm cười và vẫy tay, như thể đó là một chuyến đi chỉ toàn niềm vui, không có gì phải bận lòng.

Tôi chỉ đáp lại bằng một tiếng "Vâng" lí nhí, và cứ đứng đó mãi nhìn theo bóng lưng anh đang xa dần.

Ghi chú

[Lên trên]
五鈴 = Isuzu (五 = số năm) ; 七緒 = Nanao (七 = số bảy)
五鈴 = Isuzu (五 = số năm) ; 七緒 = Nanao (七 = số bảy)
[Lên trên]
Tên một khu vực ở quận Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản. Khu vực này nổi tiếng vì là nơi tập trung hầu hết các cơ quan chính phủ của Nhật Bản.
Tên một khu vực ở quận Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản. Khu vực này nổi tiếng vì là nơi tập trung hầu hết các cơ quan chính phủ của Nhật Bản.
[Lên trên]
Mắt tam bạch, hay mắt sanpaku: Đôi mắt có trồng trắng thừa ở phía dưới và trồng đen nằm sát ở phía trên.
Mắt tam bạch, hay mắt sanpaku: Đôi mắt có trồng trắng thừa ở phía dưới và trồng đen nằm sát ở phía trên.
[Lên trên]
Là hình thức chôn cất người đã khuất bằng việc hỏa táng và lấy tro cốt chôn dưới đất, sau đó trồng cây lên để đánh dấu mộ phần.
Là hình thức chôn cất người đã khuất bằng việc hỏa táng và lấy tro cốt chôn dưới đất, sau đó trồng cây lên để đánh dấu mộ phần.
[Lên trên]
Sợi dây thừng bằng rơm được sử dụng trong văn hóa Thần Đạo.
Sợi dây thừng bằng rơm được sử dụng trong văn hóa Thần Đạo.
[Lên trên]
Chơi nhanh dần.
Chơi nhanh dần.
[Lên trên]
Đoạn đuôi.
Đoạn đuôi.
Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận