Tập 02
Chương 3: Kịch bản diễn tiến, khơi dậy sóng bạc đầu
0 Bình luận - Độ dài: 29,736 từ - Cập nhật:
[note75058]
Tour du thuyền: Ngày một
Zabahlio, thành phố cảng lớn nhất Adastrah. Là nơi tọa lạc của một căn cứ hải quân trọng yếu, thành phố đã bị đánh bom nhiều lần trong các cuộc không kích, nhưng ngay sau đó, cả thành phố lại sống dậy, những con đường mang đậm tính lịch sử vẫn nguyên vẹn. Nhưng dù là một thành phố quân sự kiên cố, Zabahlio cũng là một điểm đến du lịch thơ mộng, đích đến của nhiều những cuộc hành hương, một thành phố trên mặt nước chào đón và ôm ấp lấy tất cả mọi người, từ quân nhân, thủy thủ đến du khách.
Một con tàu chở khách to lớn và trắng muốt như một tòa lâu đài phủ tuyết đang cập cảng. Một con du thuyền đầy kiêu hãnh, được sản xuất bởi công ty du thuyền lớn nhất ở đất nước quân sự phía bắc. Con tàu trắng khổng lồ mang tên Havmonet mạnh mẽ cập vào bến. Những người với máy ảnh trong tay vội vã lao lên trước, chớp lấy cơ hội hiếm hoi để chụp và chiêm ngưỡng chiếc du thuyền từ quốc gia khác.
Chiếc du thuyền sẽ ghé thăm các thành phố cảng của ba quốc gia trong vòng một tuần này thu hút sự chú ý vô cùng lớn dưới vai trò là biểu tượng của hòa bình và tình hữu nghị. Giới truyền thông cũng tập trung lại để ghi lại những tấm ảnh chụp con tàu và hành khách, khiến cho cảng biển trở nên nhộn nhịp với sự háo hức.
Những hành khách xuống tàu ở Zabahlio trầm trồ trước khung cảnh của thành phố lạ lẫm, trong khi cư dân của thành phố thì cất tiếng chào đón những vị khách tới từ phương xa. Hình ảnh du khách trên mạn thuyền và những đứa trẻ dưới cảng vẫy tay chào nhau khiến cho người ngoài nhìn vào không thể không mỉm cười, thu hút nhiều ống kính về phía họ. Tất cả những con người tận hưởng khoảng thời gian ngắn ngủi tại cảng biển mang theo hy vọng cho một thành phố đang tái dựng.
Giữa sự náo nhiệt ấy, những người tham gia vào tour du lịch tại Adastrah đang được hướng dẫn lên tàu.
“Vậy chúng ta sẽ lên con tàu đó à,” Theo khẽ nói với Eleven kế bên bình trong khi chăm chú nhìn quanh.
“Đúng vậy,” cô trả lời.
Một số người đang xếp hàng lên tàu mang quân hàm cao hơn Theo vài bậc, nhiều hành khách cũng mang cả thư kí theo. Dù có nhiều cặp đôi dường như chỉ lên tàu vì mục đích giải trí hay vun đắp những kỷ niệm, không một ngoại lệ, tất cả bọn họ đều thuộc tầng lớp thượng lưu và hành xử một cách quý phái.
Khi được chứng kiến sự thượng lưu của các hành khách thực sự là như thế nào, Theo bắt đầu chỉnh lại cổ áo bộ quân phục của mình. Anh có cảm giác rằng mình có thể bị nghẹt thở bất cứ lúc nào.
“Chỉ nhìn qua thôi thì tôi không thể nào phân biệt được ai sẽ là một khách hàng của Jikunokagu,” anh nói. “Tôi cũng không thấy Camicia đâu cả.”
“Vậy thì theo phán đoán ban đầu của chúng ta, họ sẽ nhắm tới bữa tiệc chào mừng được tổ chức sau khi lên thuyền,” Eleven trả lời.
“Ưu tiên của chúng ta là hội nhóm lại với trung tướng và đối chiếu thông tin. May thay, chúng ta đã biết về ngoại hình của ông ấy, và một khi tàu khởi hành thì toàn bộ không gian về cơ bản là một căn phòng kín. Không có bất kỳ nơi nào để trốn chạy cả.” Tuy nhiên, điều tương tự cũng có thể được áp dụng với đội của Theo. Anh buông ra một tiếng thở dài. “Thật không thể tin là chúng ta sẽ lên thuyền dưới vai trò khách mời của ngài trung tướng. Nếu làm hỏng chuyện thì đời mình coi như xong.”
“‘Lo lắng’ quá mức cần thiết sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của chúng ta. Miễn anh cư xử như bình thường thì sẽ không có vấn đề gì cả,” Eleven thờ ơ đáp, khiến Theo bất giác hướng mắt xuống.
Bộ đầm trên thân hình thanh mảnh của cô tạo nên một bầu không khí nữ tính với lối trang trí giản dị và phần váy dài. Mái tóc dài màu bạc của cô được buộc lại đầy phong cách, khuôn mặt được trang điểm nhẹ của cô chỉ có thể thuộc về một thiếu nữ xinh đẹp. Ống tay áo và đôi găng dài lẽ ra phải trông thật lạc quẻ tại thành phố cảng giữa mùa hè, nhưng tất cả đều bị lu mờ trước vẻ đẹp băng giá của cô.
Tất cả những người đi qua đều ngoảnh lại để chiêm ngưỡng thân hình thanh tao của cô. Những người đang chờ đợi để lên tàu thì thầm to nhỏ về cô trong khi liên tục lén liếc nhìn về phía đó. Cô chắc chắn sẽ thu hút được ánh mắt của Gino Camicia, cũng như làm khơi dậy sự tò mò của ông ta về bí mật và nỗi bất an của cô. Đó là điều mà Theo đặc biệt chắc chắn, bởi vẻ đẹp khó có thể phớt lờ và vị trí cháu gái Trung tướng Cormolone của cô. Cái tên Aloutte cũng khá hợp với cô ấy – miễn sao không ai biết rằng nó được lấy từ tên con cún cưng của ngài trung tướng.
“…Đúng như kế hoạch, chúng ta đang thu hút được rất nhiều ánh mắt,” Theo lẩm bẩm. “Tôi chỉ hy vọng rằng cá sẽ cắn câu thôi.”
“Ngoại hình mặc định của tôi có đủ để câu cá không?” Eleven khẽ hỏi.
“Chà, chắc chắn rồi.” Trái tim anh vừa lỡ một nhịp, giọng anh lên xuống một cách thiếu tự nhiên. “Bình thường thôi cũng đã khá hoàn mỹ rồi.”
Anh không thể không dành nhiều sự chú ý hướng về Eleven khi nghĩ về việc anh phải đóng vai bạn trai của cô. Thế nhưng, cô gái đó chỉ chăm chú quan sát con tàu.
“Khái niệm thiết kế của Hound được dựa trên mong muốn gây nên ‘nỗi sợ’ cho bất kỳ ai nhìn thấy,” cô đáp.
Cô ấy vẫn không khác gì với trước, anh cảm thấy sự căng thẳng đè nặng trên vai mình vơi bớt đi.
“Trong trường hợp của cô,” anh nói, “nỗi sợ đến từ cách mà cô có thể làm được những chuyện điên rồ trong khi mang ngoại hình ấy.”
Làm theo hướng dẫn của thủy thủ đoàn, anh mang theo hành lý của cả cô lẫn anh.
“Theo, tôi có thể tự—” cô phản đối.
“Như thế này thì mới ra dáng ‘bạn trai’ hơn. Đi thôi.” Anh bắt đầu bước đi. Sau một thoáng, cô cũng bắt đầu đi theo sau trong khi nhìn chằm chằm vào khuôn mặt anh. “Sao vậy?”
“Anh nắm bắt được công việc ‘hộ tống’ tốt hơn dự tính, vậy nên tôi đang xem xét việc sửa đổi lại kế hoạch hỗ trợ.”
“Cô đang nói móc tôi đấy à?”
“Không, em nghĩ anh rất tuyệt mà!” cô ấy kêu lên tràn đầy năng lượng.
Trong khi anh còn đang kinh ngạc trước sự thay đổi tông giọng đột ngột của cô, cô đã tung tăng chạy về phía trước. Gấu váy của cô tung bay, Alouette cười tươi như một đóa hoa và xoay một vòng trên đôi giày mềm dễ thương của mình.
“Nhanh nên nào, Theo! Em đã chờ đợi mùa hè từ rất lâu rồi đó!”
Khi giọng nói của cô cất lên, những hành khách khác hướng ánh mắt nhìn về phía cô với đôi má ửng đỏ bởi sự hào hứng trước thềm của chuyến du thuyền.
Theo vội đuổi theo cô ấy về phía cầu tàu. (A, mình gặp rắc rối rồi.)
Khuôn mặt xinh xắn vốn vô cảm của cô giờ đang thúc giục anh với một nụ cười tỏa nắng. Anh biết rằng thứ ẩn dưới lớp da trắng đến mức như thể đang tan ra dưới ánh mặt trời kia là một con quái vật như thế nào, vậy nhưng…
(Mình hết cứu nổi rồi…)
Bởi bản thân anh biết rằng cô là một món vũ khí chiến lược, khuôn mặt ngây thơ của cô khiến trái tim anh đau quặn hơn.
■
Tobias cố gắng ghi nhớ thiết kế của con tàu sau khi được tham gia vào tour du lịch dưới vai trò thủy thủ đoàn tạm thời.
Chuyến du thuyền này chỉ kéo dài vài ngày, phòng dành cho hành khách được chia ra thành bốn hạng khác nhau, thế nhưng trên tàu vẫn có đầy đủ các loại cơ sở hạ tầng – sảnh chính dành cho sự kiện, các rạp hát lớn nhỏ, một rạp chiếu bóng, một nhà thờ, một phòng ảnh. Hành khách cũng có thể lựa chọn đủ các thể loại hoạt động trong phòng giải trí, thư viện, salon làm tóc, phòng spa, khu vườn sân thượng và thậm chí cả phòng tập thể hình. Ngoài ra còn có các chương trình trải nghiệm thực tế cho hành khách và gia đình của mình, cùng với dịch vụ trông trẻ. Tại tầng mua bán cũng có đủ các loại cửa hàng miễn thuế, bao gồm quán bar, nhà hàng và quán cà phê, biến cho con tàu này vượt xa tầm phạm vi của một khách sạn.
(Mình không thể nào ngờ được rằng con tàu này lại lớn đến mức vậy.)
Tobias hoàn toàn kinh ngạc tầm cỡ của nơi này, và rồi ánh mắt của anh đặt vào tấm biển đề dòng “Salon”. Đây là một căn phòng ở đuôi tàu, trên mỗi boong thứ sáu và thứ bảy, một không gian đặc biệt dành riêng cho các hành khách thuộc dãy phòng hạng sang đặt trước.
“Xin lỗi, cho hỏi ở phòng salon kia có sự kiện nào được đặt trước à?” anh hỏi một thành viên thủy thủ đoàn đi ngang qua. “Khi có sự kiện thì các nhân viên phục vụ được chọn như thế nào vậy?”
Người thủy thủ nghiêng đầu. “Tôi chỉ biết các sự kiện được tour tổ chức thôi. Nhưng tôi được yêu cầu dọn người ra khỏi salon ở boong thứ sáu, vậy nên tốt nhất là anh đừng đến đó. Khá chắc là phía họ cũng chuẩn bị sẵn các nhân viên phục vụ của riêng mình rồi, nghĩa là dù ở đó có tổ chức thể loại sự kiện gì thì đó cũng không phải việc của chúng ta. Cứ thoải mái đi.”
“Vậy à? Cảm ơn,” Tobias nói rồi đi kiểm tra lịch trình ca làm việc.
Dường như công việc của anh chủ yếu là trông coi phòng cho hành khách và không gian tổ chức tiệc tùng. Anh đi thẳng đến boong thứ sáu, mỉm cười chào hỏi những người đi ngang qua.
Khi quan sát từ dãy hành lang, anh thấy những người mặc áo phông đang vận chuyển đồ đạc vào trong. Có vẻ một cuộc họp nào đó sắp diễn ra. Anh xem lại bản đồ của con tàu và nhận ra rằng ngay bên dưới phòng salon là một khoang chứa hàng, nơi có vẻ là đang chứa những món đồ mà họ đang vận chuyển vào trong.
“Này, cậu đang làm cái gì đấy?” một giọng nói chợt cất lên từ phía sau, khiến Tobias ngoái đầu lại đầy cảnh giác. Tại đó là một người phụ nữ mặc đồng phục bảo vệ đang nhìn chằm chằm vào anh, dòng chữ “TARJA” được thêu lên trên áo. “Phòng salon đó là khu vực bị giới hạn. Nếu bị phát hiện thì cậu sẽ gặp rắc rối đấy.”
“Xin lỗi. Tôi là nhân viên mới trên tàu,” anh giải thích. “Tôi muốn làm quen với không gian trên tàu. Vậy chỗ đó là không được vào à?”
“Trong tour này thôi,” cô trả lời. “Có một hành khách đã thuê khu vực đó trong xuyên suốt chuyến tàu này, cũng yêu cầu chỉ cho phép nhân viên của họ vào trong. Tôi hiểu rằng cậu cảm thấy tò mò, nhưng cuộc họp sắp bắt đầu rồi. Chúng ta nên đi thôi.”
Tobias ngoan ngoãn đi theo Tarja về phía phòng dành cho nhân viên. Theo lịch trình, họ sẽ có một cuộc họp cuối cùng khi ở cảng, toàn bộ nhân viên được yêu cầu phải tham gia.
“Chúng ta có thường xuyên gặp những hành khách như vậy không?” anh hỏi.
“Không.” Cô nhún vai. “Đây là lần đầu có người thuê phòng trong suốt cả tour du lịch với nhiều người và đồ đạc đến vậy đấy.”
“Đúng là có vẻ khác thường thật.”
“…Cậu hẳn đã xem bản đồ rồi và thấy rằng phòng salon đó nằm ở ngay phía trên khoang chứa hàng, xung quanh cũng không có phòng cho hành khách nào liền kề. Như vậy thì có nhảy múa hát hò ồn ào trong đó đến thế nào cũng được, khá nhiều hành khách cũng tận dụng điều đó. Nhưng bình thường thì họ chỉ thuê vài giờ đồng hồ trong một ngày mà thôi. Vị khách lần này đúng là kì lạ,” Tarja nhăn mặt nói.
“Salon ở boong thứ bảy vẫn hoạt động bình thường chứ?” Tobias hỏi một cách tự nhiên.
“Phòng đó đã được thuê trong một ngày để tổ chức họp lớp, nên mọi thứ vẫn diễn ra như bình thường.”
“Hừm. Không biết hành khách thuê căn phòng ở boong sáu để làm gì nhỉ.”
“Tôi chỉ biết là nếu muốn vào trong salon đó thì phải có giấy mời thôi.”
“Giấy mời?” Anh nhướng một bên chân mày. “Cô thấy giấy mời rồi à?”
“Tôi thoáng thấy được nó trong khi đang kiểm tra khoang chứa hàng, Chỉ những người mang theo giấy mời mới được cho vào.”
Tobias nói lời cảm ơn rồi lấy cớ đi vệ sinh để rời đi. Sau khi chắc chắn rằng không có ai ở hành lang nhân viên, anh đi vào trong nhà vệ sinh, khóa cửa lại rồi bước ra phía bức tường đối diện cửa. Cuối cùng, anh nhấn vào bộ đàm không dây được giấu trong cổ áo.
“Đây là Tobias. Tình hình bên đó thế nào?”
“Đây là Theo. Phòng hành khách bình thường. Không có bất ngờ nào phát sinh. Emma sẽ gặp lại chúng ta trên tàu khu trục Calwell. Họ sẽ hộ tống tàu Havmonet với lý do khảo sát hải dương.”
“Đã rõ. Về con tàu này, một phòng salon được đặt trong xuyên suốt tour du lịch. Phía họ đang tổ chức một cuộc họp mặt chỉ được tham gia qua lời mời. Có khả năng là Jikunokagu.”
“Anh có đào thêm được thông tin nào không?”
“Không. Khu vực đó bị giới hạn với tất cả mọi người trừ nhân viên của họ. Tuy nhiên, căn phòng đó nằm ở ngay trên khoang chứa hàng, nên tiếng ồn dường như không thành vấn đề. Tôi sẽ tìm cơ hội để điều tra thông qua khoang chứa hàng.”
“Chúng tôi sẽ xoay sở phần lời mời. Anh hãy đảm bảo đừng thu hút những sự chú ý không cần thiết.”
Sau khi trao đổi thông tin nhanh, Tobias rời khỏi nhà vệ sinh và quan sát xung quanh. Không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy có người đang lảng vảng ở gần. Cuối cùng, anh hướng về phía cuộc họp của thủy thủ đoàn. Bởi họ không rõ tầm ảnh hưởng của Jikunokagu lớn đến đâu, anh không thể bất cẩn.
■
Emma vén tấm áo choàng của Hội Phù thủy của mình và ngước nhìn tòa chung cư cũ. Bởi cô thường tiến hành điều tra theo cặp hoặc theo đội, cô cảm thấy hơi lo lắng khi một mình bước vào đây.
Ngay lúc này, Theo và những người khác đang thực hiện nhiệm vụ bí mật trên con tàu. Và lẽ ra, Emma nên có mặt cùng với họ. Rốt cuộc, cô không thể nào nói chắc rằng những gì mình đang làm là quan trọng cho quá trình điều tra. Nhưng là một phù thủy, cô đủ tự giác để biết được rằng một khi đã phát hiện ra một đầu mối tiềm năng liên quan đến phép thuật, cô sẽ hối hận cả đời nếu bỏ qua nó.
(Emma, mày biết mày là người duy nhất có thể làm được chuyện này mà.)
Cô xốc lại tinh thần rồi leo lên dãy cầu thang của tòa chung cư. Tiếng cãi nhau và âm nhạc ồn ào rò rỉ ra từ căn hộ nào đó. Tường của cả căn chung cư này rất mỏng, chất lượng thi công thì tệ hại.
Cô dừng chân trước cánh cửa của căn phòng cô định ghé thăm rồi nhanh tay vẽ một pháp trận dò tìm. Xung quanh không có bẫy hay bất kỳ dạng phép thuật nào khác. Sau khi đã xác nhận điều đó, cô nhấn chuông cửa.
“Ai đấy?” một giọng nói yếu ớt vang lên. Gương mặt ló ra qua khe cửa thuộc về một người phụ nữ đang căng thẳng vì sợ hãi, với quầng thâm sâu đậm dưới mắt và vẻ tiều tụy đến mức gần như không giống gì so với bức ảnh của mình.
“Cô là Anna Brouwer đúng không? Tôi là Canary, thuộc Cục Điều tra Hình sự,” Emma nói và xuất trình phù hiệu điều tra viên của mình.
Người phụ nữ nhìn cô với một vẻ đầy nghi ngại.
Anna Brouwer. Sau khi chứng nghiện rượu của cô ấy dẫn đến một số các vấn đề lớn nhỏ, cô ấy đã đột ngột biến mất từ sáu tháng trước. Nhưng một người phụ vào rượu đến mức thường xuyên va chạm với cảnh sát như vậy chắc chắn sẽ không dễ dàng cai nghiện ngay lập tức và sống một cuộc đời hạnh phúc. Giả thuyết của Emma đã được chứng mình là chính xác, và đúng như cô dự đoán, Anna quả thực đã từng vướng vào vòng pháp lý do thói nghiện rượu của mình. Đó là cách mà Emma đã tìm ra nơi ở của cô ấy. Theo cảnh sát, Anna đã dành cả đêm qua trong phòng giam dành cho người say xỉn, nơi mà cô ấy thường xuyên có mặt. [note75059]
“Cô muốn gì hả điều tra viên?” Anna hỏi đầy khó chịu qua khe cửa.
“Tôi muốn nói chuyện về Brecht, anh trai cô và Michelle, vợ của anh ấy,” Emma nói, sắc mặt Anna lập tức cứng đanh lại.
Anna vồ lấy tay nắm cửa, nhưng trước khi cô ấy kịp đóng cửa vào thì Emma đã chèn một chân vào khe cửa để chặn lại.
“Tôi— Tôi không biết gì hết,” Anna phản đối. “Không gì hết!”
“Anna, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô thôi,” Emma điềm tĩnh nói. “Nhà Brouwer có quyền biết được sự thật về những gì đã xảy ra ba năm trước. Đúng không, Anna?”
“Vậy thì mang Brecht đến đây đi!”
“Anh ấy chết rồi, Anna!” Emma hét lên giận dữ. “Cả Brecht và Anna đều đã bị sát hại!”
Anna đứng chôn chân tại chỗ. Cô ấy trợn to mắt, tưởng chừng như hai con ngươi sắp sửa rơi ra ngoài, và rồi cuối cùng cô ấy nhìn thẳng vào Emma.
“Bị sát hại…? Cả hai? Tôi…”
Cô ấy mấp máy môi không nói thành tiếng, rồi khuôn mặt cô ấy cuối cùng cũng vỡ òa. Cô ấy đặt một tay lên trán và khóc nức nở, loạng choạng lùi vào trong căn hộ của mình. Emma theo cô ấy vào trong.
Căn phòng u ám chỉ được chiếu sáng mờ nhạt bởi một chiếc đèn bàn, những tấm rèm dày được kéo kín. Màu sắc của căn phòng mang một màu tổng thể tối sẫm, gương bị che đi bởi một tấm vải. Dường như Anna chối bỏ mọi ánh sáng. Gian bếp nhỏ chất đống rác, trong đống đó là một số lượng đáng kinh ngạc vỏ lon và chai rỗng. Ghế sofa thì ngập trong đống quần áo chưa giặt.
Anna khóc thút thít trong căn phòng bị bao phủ bởi bóng tối này. Cô ấy ngồi lên sofa, vùi mặt vào hai lòng bàn tay, khuỷu tay chống lên đầu gối và òa khóc.
“Anna,” Emma dịu dàng nói. “Xin hãy cho tôi biết về anh trai mình và vợ của anh ấy. Lần cuối cô gặp họ là khi nào?”
Anna run rẩy hít lấy một hơi. “Khoảng sáu tháng trước, Tôi, ừm, đầu tư vào thứ này và thu về một kết cục thảm họa. Và khi tôi nói rằng mình sắp chuyển đi, họ đã tới gặp tôi. Họ tỏ ra lo lắng. Chúng tôi cùng nhau dùng bữa tối lần đầu tiên sau một khoảng thời gian dài. Tôi từng sống ở gần khu chợ, khá tiện nghi, nhưng tôi không còn chi trả được tiền thuê nhà nữa. Tôi đã đưa danh thiếp của kẻ đã lôi kéo tôi vào vụ đầu tư thất bại cho Brecht để cảnh báo anh ấy. Đại loại kiểu, đừng có vấp phải sai lầm như tôi. Khác với tôi, anh ấy rất thông minh. Tôi nghĩ rằng nếu nói chuyện với anh ấy thì mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
“Còn về Basil thì sao?”
Cả người Anna khẽ giật lên trông thấy, Emma có thể nghe được tiếng cô ấy cắn móng tay.
“…Vẫn khỏe mạnh,” Anna trả lời. “Ý tôi là, tôi đã ngạc nhiên khi họ đặt cho đứa con nuôi cùng một cái tên với đứa con đã chết của mình. Nhưng tôi biết họ đã phải trải qua nhiều khó khăn đến nhường nào với các cuộc điều trị vô sinh, nên… Tôi chỉ mừng khi được thấy Michelle mỉm cười thôi.”
“Và kể từ đó thì cô không liên lạc với họ thêm lần nào nữa?”
“Không.” Anna chậm rãi lắc đầu. “Chà, tôi không có tiền để gọi điện hay mua tem nên…”
“Đó không phải sự thật, Anna. Tôi muốn biết chuyện gì đã thực sự xảy ra.” Emma quỳ xuống trước Anna và nắm lấy bàn tay trái của cô ấy. Máu đang rỉ ra từ những móng tay bị cắn đến tận chân móng.
Anna nhìn Emma với đôi mắt đầy sợ hãi từ sau mái tóc rũ xuống che đi khuôn mặt mình.
“Nào, Anna,” Emma thúc giục. “Cô đang trốn khỏi ai? Anh trai mình? Michelle? Hay cô sợ rằng Hội Phù thủy có thể sẽ tới thẩm vấn?”
Anna cố gạt tay của Emma ra, đôi mắt cô ấy mở to, toàn thân đổ mồ hôi lạnh. Emma nắm lấy bàn tay nhỏ bé, lạnh lẽo đang run rẩy kia dịu dàng nhất có thể.
“Anna,” cô khẽ nói. “Sở hữu và sử dụng công cụ cần thiết trong nguyền rủa là vi phạm pháp luật. Nếu khám nghiệm tử thi của cháu cô, của Basil, chúng tôi sẽ lập tức biết được ai đã sát hại cậu bé và dùng lời nguyền nào.”
“…Cô chỉ đang nói vậy để đe dọa tôi thôi.”
“Ngay lúc này, tại Hội Phù thủy đang có người khám nghiệm thi thể của Basil đấy,” Emma bình tĩnh nói.
Anna nhìn vào cô như thể đang nhìn vào tận thế. Sau đó, cô gục mặt xuống và lảng tránh ánh mắt.
Các phù thủy luôn hướng mũi tên nghi ngờ đến lời nguyền trước tiên trong các trường hợp mà nạn nhân đột ngột qua đời một cách tự nhiên. Emma cũng đã tham khảo các dạng phép thuật khác, hy vọng rằng mình đã sai, nhưng dù quan sát vụ án trên phương diện nào đi nữa, cô chỉ có thể đi đến kết luận rằng đó là một lời nguyền chết chóc.
Cô nhìn vào khuôn mặt của Anna và cố gắng mỉm cười dịu dàng. “Nghe này, Anna. Hội trưởng của nhóm hỗ trợ nói rằng anh trai cô sẽ luôn giúp cô thoát khỏi rắc rối do chứng nghiện rượu của mình gây ra, rồi cùng cô đi xin lỗi những người có liên quan. Cô gia nhập vào hội nhóm đó do cảm thấy ăn năn vì những phiền toái mà mình đã gây ra cho Brecht, và cô cũng muốn cai rượu. Tôi tin rằng cô không hề có ý định làm hại anh ấy, nhất là khi cô đã nỗ lực đến vậy. Hay cô thực sự ghét Brecht và Michelle đến mức muốn cướp đi đứa con của họ?”
“Không! Tuyệt đối không! Tôi không hề ghét họ. Chuyện này hoàn toàn không phải lỗi của họ…”
Nước mắt Anna tuôn ra không ngừng, cô vùi mặt vào một mảnh vải trong tay, lặp đi lặp lại tên của anh trai mình và vợ của anh ấy…
Emma khẽ lắc tay động viên cô ấy. “Kể lại mọi thứ cho tôi từ đầu đi. Chuyện gì đã xảy ra?”
Suốt một lúc lâu, cô chỉ có thể nghe được tiếng khóc nức nở, nhưng cuối cùng, Anna bắt đầu mở lời, giọng của cô ấy the thé như tiếng gió lùa qua cửa sổ.
Mọi chuyện bắt đầu từ việc Anna mang thai bốn năm trước. Khi cô ấy vui mừng thông báo với người yêu đã hẹn hò hai năm rằng mình đang mang thai, anh ta không chào đón cô bằng sự vui sướng hay hân hoan, mà là bằng bạo lực; anh ta đã đấm vào bụng cô ấy không ngừng nghỉ. Cô bất tỉnh, còn người đàn ông kia thì biến mất, và chưa đầy ba ngày sau khi phát hiện rằng mình đang mang thai, cô đã mất đi đứa bé.
Rơi vào hố sâu tuyệt vọng, cô uống như thể muốn tự dìm mình trong rượu và làm loạn ở quán bar. Trước khi có thể nhận thức được, cô ấy đã ở trong phòng tạm giam. Cô đã kể cho anh trai mình mọi chuyện khi anh ấy tới để đón cô.
“Brecht và Michelle đều đã cố gắng rất nhiều để giúp tôi vượt qua chuyện đó. Họ còn cùng tôi đi đến quán bar để xin lỗi. Tôi lúc đó thật tồi tệ. Tôi nghĩ rằng ít nhất mình có thể tham gia vào nhóm hỗ trợ mà tôi tìm thấy ở chợ. Tôi đã cố gắng hết sức,” Anna nói bằng giọng yếu ớt và nắm chặt tay Emma. “Tôi cai rượu được sáu tháng. Cô có thể nghĩ rằng đó không là gì, nhưng tôi đã rất tự hào về bản thân. Trong khoảng thời gian đó, tôi phát hiện ra rằng Michelle đang mang thai. Nói thật thì lúc đó tôi đã rất phấn khởi. Tôi cảm thấy như được đền đáp cho những nỗ lực của mình. Tôi cũng duy trì cai rượu thêm được trong sáu tháng tiếp theo. Trong suốt một năm, tôi hoàn toàn không động đến rượu. Tôi được chào đón đứa cháu xinh đẹp của mình đến với thế giới. Tôi đã hạnh phúc, mọi thứ rất tốt đẹp…”
Ngay khi cuộc sống của mình cuối cùng cũng khấm khá lên, Anna phát hiện ra rằng bạn của mình sắp kết hôn. Người chồng sắp cưới chính là bạn trai cũ của Anna – người đã đánh đập cô rất dã man – và bạn cô đã mang thai được ba tháng.
“Tôi đã rất phẫn nộ. Thật bất công. Gã đàn ông đó đã đánh đập và tước đi đứa con của tôi, vậy mà giờ hắn lại khoe cái nhẫn đính hôn sang trọng, hắn sẽ cưới bạn tôi, rồi hắn sẽ trở thành cha và sống hạnh phúc mãi mãi về sau? Hắn ta còn dám mỉm cười khi gửi thiệp cưới cho tôi. Và tôi đã hoàn toàn mất kiểm soát. Tôi không còn giữ được mình nữa. Tôi đi thẳng đến quán bar lần đầu tiên trong suốt một năm và uống bất cứ thứ gì được đặt ra trước mặt. Sau khi tôi đã kiên cường đến vậy, nỗ lực đến vậy.”
Cô ấy nói một cách cay đắng. Anna run rẩy hít sâu, thở ra rồi nói tiếp:
“Và rồi có một người đàn ông ngồi xuống cạnh tôi. Dù hoàn toàn xa lạ nhưng ông ấy là một người tốt bụng, biết lắng nghe. Tôi đã kể cho ông ấy mọi thứ. Tất cả những cảm xúc của tôi… Và rồi ông ấy đưa cho tôi một con búp bê.”
“Cô có nhớ con búp bê đó như thế nào không?” Emma xen vào.
“Một con búp bê hình bé gái. Nó có tóc dài và mặc trang phục truyền thống nào đó. Nhưng khoang bụng của nó thì được mở ra, tôi có thể nhìn thấy rơm ở bên trong. Người đàn ông đó nói rằng tất cả những gì tôi cần làm là đặt một lọn tóc của ai đó vào cùng với một mẩu giấy có ghi ước muốn của mình và trong bụng nó rồi đốt con búp bê. Tôi nghĩ chuyện đó thật kỳ lạ, nhưng… Tôi đang trải qua một quãng thời gian tồi tệ nên đã nhận lấy con búp bê kỳ dị đó.”
Anna nhăn mặt rên rỉ.
“Tôi biết chuyện này thật lố bịch. Nhưng… tôi đã làm theo thật. Với con búp bê bên mình, tôi thậm chí đã có thể mỉm cười trong đám cưới của gã khốn đó. Tôi đã lợi dụng lúc hỗn loạn để giật vài sợi tóc của gã ta, và trên mảnh giấy, tôi viết, ‘Mong rằng mày cũng mất con’. Tôi nhét chúng vào bên trong con búp bê rồi ném vào bếp sưởi.”
“Vậy cô có nghĩ rằng con búp bê sẽ biến điều ước của mình thành sự thật không?” Emma hỏi.
“Không hề. Ý tôi là, nó chỉ là một con búp bê tôi. Tôi nghĩ người đàn ông đó chỉ cố gắng an ủi một người say xỉn đáng thương thôi. Nhưng… nhưng sau đó, bạn tôi gọi điện cho tôi trong nước mắt.”
Anna liếm môi nhiều lần trước khi rụt rè nhìn Emma.
“Đứa bé đã chết trong bụng cô ấy. Tôi không nhớ khi đó mình đã nói gì. Đầu óc tôi trống rỗng; tôi thấy mình như hóa đá. Lần đầu tiên, tôi đã nghĩ rằng, chết tiệt, con búp bê đó không phải là giả…”
Một lời nguyền đáng sợ thoáng hiện lên trong tâm trí Emma – búp bê Fluch, một công cụ nguyền rủa được liệt vào danh sách vật thể nguy hiểm được chỉ định mà ngay cả người thiếu kiến thức về phép thuật cũng có thể sử dụng được. Được sản xuất bởi một dân tộc thiểu số bị đàn áp trong một liên bang, con búp bê đã biến mất khi ngôi làng của họ bị phá hủy. Đó là con búp bê mà Anna đã sử dụng.
Emma cảm thấy trái tim mình co thắt lại, trong khi Anna vẫn tiếp tục nói như một con đập vỡ.
“Tôi không biết phải làm gì. Và rồi người đàn ông ở quán bar đã đến nhà tôi. Ông ta nói rằng việc tôi còn sống có nghĩa là gia đình tôi là vật hiến tế. Ông ta bảo tôi, ‘Giờ cô là một tội phạm. Cô đã sát hại người khác bằng lời nguyền. Nếu tôi báo cho Hội Phù thủy về chuyện này, đó sẽ là dấu chấm hết cho cô và gia đình cô’. Và rồi ông ta cười.”
“Ông ấy có nói tên mình không…? Có thông tin liên lạc không?”
“Không. Ông ta cứ nói mãi về việc thật tuyệt vời khi con búp bê đó là thật. Chuyện mà ông ta nói về việc gia đình tôi là vật hiến tế khiến tôi bận tâm, nên tôi đã gọi cho Brecht, và… anh ấy nói rằng Basil đã chết.”
Anna lại bắt đầu khóc. Cô buông tay Emma ra và vùi mặt vào tấm khăn.
“Người đã đưa cho cô con búp bê – có phải người này không?” Emma khẽ hỏi. Cố lấy điện thoại ra và cho Anna xem ảnh của Gino Camicia.
Anna thoáng nhìn vào đó. Cổ họng cô co thắt, hơi thở của cô trở nên khó nhọc, “Chính là ông ta. Người đàn ông đã đưa con búp bê cho tôi. Basil, dì xin lỗi. Basil…”
Khi Anna gục ngã trong nước mắt, Emma ngồi bên cạnh cô ấy, xoa vai và cố gắng an ủi. “Cô không biết nó là gì. Cô đã phải chịu nhiều đau khổ, cả thế giới xung quanh cô đều đen tối. Tôi chắc Basil hiểu rằng cô không hề cố ý. Tuy nhiên, cho tôi biết một điều được không? Người đàn ông này sau đó có liên lạc với cô hay Michelle không?”
“Không.” Anna lắc đầu. “Theo tôi biết thì không. Tôi đã nghĩ là ông ta sẽ tống tiền tôi hay gì đó, nhưng chuyện đó không hề xảy ra. Dù vậy, tôi đã rất sợ hãi. Tôi đã lo lắng suốt thời gian qua. Nếu tôi vô tình gặp ông ta ở đâu đó thì sao? Tôi sẽ làm gì?”
Vậy là Anna chỉ là chất xúc tác cho bi kịch này, Camicia cũng không đe dọa cô ấy. Emma suy nghĩ một chút rồi đổi hướng câu hỏi.
“Về nhóm hỗ trợ thì sao?” cô hỏi. “Tôi nghe nói rằng cô đã không có mặt kể từ khi giới thiệu cho Michelle tham gia.”
“…Tôi cảm thấy rất tệ. Tôi không thể chường mặt ra đó được, nhất là sau khi họ chỉ vừa mới chúc mừng việc tôi cai rượu thành công. Tôi đã đến đó vài lần, nhưng không lần nào đủ dũng khí để thực sự bước vào.”
“Tôi hiểu được điều đó.” Emma gật đầu an ủi. “Michelle thì sao? Cô ấy có hòa nhập được vào nhóm không?”
“Có… Cô ấy rất cởi mở, tôi nghĩ cô ấy đã nhanh chóng kết bạn được với mọi người. Nhưng có người trong nhóm cứ nói với cô ấy những điều vớ vẩn, và cô ấy trở nên rất nghi ngờ bác sĩ. Điều đó làm tôi hơi lo.”
“Hiểu rồi.” Emma gật đầu một lần nữa.
Vậy người thổi bùng ngọn lửa ngờ vực của Michelle đối với các cơ sở ý tế không phải là Anna – mà là một người trong nhóm hỗ trợ. Xét trên việc những người tham gia đều ẩn danh, Emma sẽ gặp khó khăn trong việc tìm ra mối liên hệ với Jikunokagu từ đó.
“Cô đã giới thiệu Nhà thuốc Kisage cho Michelle. Làm sao cô biết về cửa hàng đó?”
“Đó là nơi có tiếng tốt trong khu phố.” Anna nhún vai. “Tôi nghĩ rằng nơi đó thì sẽ đỡ hơn là bệnh viện, vậy nên có lẽ Michelle sẽ nói chuyện với ai đó ở đó. Tôi biết rằng những lời này không mang nhiều sức thuyết phục khi được phát ra từ một người nghiện rượu, nhưng cô ấy đang có vấn đề. Tôi nghĩ rằng cô ấy cần giúp đỡ từ ai đó ngoài Brecht, một ai đó chuyên nghiệp hơn.”
“…Cô rất quan tâm đến cô ấy phải không?” Emma hỏi, Anna quay sang phía cô, đôi mắt sưng húp và đỏ hoe vì khóc.
“Nếu có thể xác định được lời nguyền bằng việc khám nghiệm tử thi, tại sao ba năm trước các cô lại không phát hiện ra?” Anna hỏi.
“Thông thường thì bệnh viện và Hội Phù thủy sẽ hợp tác trong những vấn đề như vậy, nhưng bác sĩ phụ trách đã chẩn đoán trường hợp của Basil là bất đắc kỳ tử thường thấy ở trẻ sơ sinh nên đã không liên hệ cho chúng tôi,” Emma trả lời. “Tôi nghĩ họ sẽ xem xét tới hoàn cảnh của cô, bởi cô không chủ động che giấu tội ác. Tuy nhiên, tội ác vẫn là tội ác. Cô hiểu điều đó chứ?”
Anna khẽ gật đầu, còn Emma đưa tay ra. Cô còng vào cổ tay người phụ nữ kia, đỡ cô ấy đứng dậy rồi che chiếc còng đi bằng chiếc áo sơ mi gần đó.
“Thật ngu ngốc phải không?” Anna khẽ nói. “Nghiện rượu, người tình cũ… Tin tưởng vào lời nói của một người xa lạ. Và giờ thì tôi không thể quay đầu lại được nữa…”
Emma nín thở trong thoáng chốc. Nhưng rồi cô nhẹ nhàng đẩy Anna.
“Đúng vậy. Và đó là lý do tại sao mọi người đều phải trả giá cho tội ác của mình một cách công bằng. Cô, dù rằng cô thực hiện lời nguyền mà không biết đó là gì; người đàn ông đã đánh cô và khiến cô sảy thai bốn năm trước; và người đàn ông đã đưa cho cô con búp bê đó, được chứ?”
Anna không đáp, nhưng nét mặt cô thật bình yên khi ngồi vào ghế sau của chiếc xe cảnh sát không biển. Cảm thấy có gì đó trống rỗng, Emma ngồi vào ghế lái.
Các phép thuật luôn đi kèm theo một cái giá và vật dẫn. Phù thủy tạo ra phép màu bằng việc trao đi pháp lực để trả giá và chuẩn bị một vật dẫn phù hợp. Nhưng cơ chế của lời nguyền thì khác với các loại phép thuật khác. Lời nguyền là một phép màu đặc biệt có thể được thực hiện nếu sắp xếp được các công cụ và điều kiện thích hợp. Cái giá để thực hiện lời nguyền đó là người thực hiện sẽ phải chịu chung thứ họ muốn gây ra cho mục tiêu. Ước muốn cái chết của người khác cũng sẽ kéo theo cái chết của chính mình. Lời nguyền chắc chắn sẽ chỉ mang đến bất hạnh cho đôi bên. Trong trường hợp của Anna, do cô ấy ước cho cái chết của một đứa trẻ, cái giá được lấy từ con trai của Brecht, người thân cô, bởi vì cô ấy không có con.
Lời nguyền luôn kéo theo một chuỗi bi kịch. Đó là lý do việc sử dụng lời nguyền và sở hữu các công cụ cần thiết đều bị nghiêm cấm. Hiểu rõ được chuỗi phản ứng này, Emma không thể nhắm mắt làm ngơ trước những gì Anna đã làm. Hãy trước việc Camicia đã đưa cho cô ấy con búp bê.
(,,,Tôi sẽ lột lớp mặt nạ của ông ra và tống ông vào tù, Gino Camicia.)
Emma siết chặt lấy vô lăng. Có lẽ cô đã đúng khi không lên con du thuyền đó. Nếu thấy Camicia, cô chắc chắn sẽ đánh rồi ném ông ta xuống biển thay vì bắt giữ.
■
Khi Theo và Eleven kiểm tra xong hết khu vực dành cho hành khách và trở về phòng của mình, mặt trời đã bắt đầu lặn. Căn phòng hạng sang của họ nằm áp chót số các phòng sang trọng trên tàu và được trang bị một nhà vệ sinh, một phòng tắm và thậm chí là một căn bếp nhỏ, và căn phòng này đủ rộng rãi cho cả hai người. Cảnh biển quen thuộc tại cảng Zabahlio trở nên đặc biệt khi được ngắm nhìn qua một căn phòng như thế.
Theo thở dài rồi xỏ tay vào ống tay áo của bộ quân phục mà anh mặc lần đầu tiên sau suốt hai năm ròng. “Biết là trên tờ rơi đã ghi hết rồi, nhưng khi lên thuyền rồi mới thực sự thấy choáng ngợp trước quy mô đồ sộ của nó nhỉ? Bao nhiêu là cửa hàng và các cơ sở vật chất, chưa kể đến các khóa học và chương trình nữa. Họ thậm chí còn tổ chức cả những môn thể thao biển nữa.”
“Độ khó trong việc theo dấu mục tiêu của chúng ta sẽ tăng lên đáng kể sau khi hành khách tản ra. Chúng ta cần tập trung vào các trường hợp nơi tất cả hành khách cùng tập trung vào một chỗ,” Eleven nói vọng ra từ cánh cửa phòng tắm. Giọng cô không còn chút dấu vết nào của sự ngây thơ phấn khích của Alouette.
Tinh thần của Theo tụt sâu khi nghĩ về nhiệm vụ trước mắt, anh đưa tay chỉnh cà vạt với vẻ đầy phiền muộn. “Nếu lỡ buổi tiệc tiếp đón tối nay, chúng ta sẽ không còn cơ hội tập trung hết hành khách vào một căn phòng cho tới tận sự kiện xã giao của ngày mai. Chúng ta thực sự cần phải tìm ra Camicia và tìm hiểu xem ông ta đang toan tính gì.”
“Bên tổ chức yêu cầu mọi người đều có mặt trong tiệc tiếp đón, và Camicia chắc chắn sẽ xuất hiện ở đó để tìm kiếm khách hàng,” Eleven đáp. “Tobias cũng sẽ ở đó dưới vai nhân viên phục vụ. Việc tìm ra ông ta là hoàn toàn có thể.”
“Nói vậy nhưng ở đó sẽ có một lượng lớn người tham gia đúng chứ? Cô có kế hoạch nào không?”
“Dễ dàng thôi. Chúng ta chỉ cần thu hút sự chú ý.”
Cánh cửa mở ra, Theo ngoái đầu lại theo phản xạ khi nghe được tiếng đôi giày cao gót đen gõ lên sàn.
Eleven đã thay một chiếc đầm xếp ly màu xanh biển. Phần cổ áo xếp nếp, dựng đứng làm tô điểm lên chiếc cổ mảnh mai của cô, những dải ruy băng kéo dài từ gáy cổ đến sau đầu gối đung đưa cùng vạt váy. Dường như cô cũng đã phần nào thay đổi lớp trang điểm của mình. Bây giờ cô toát lên một bầu không khí trưởng thành hơn nhiều so với lúc chiều.
Theo nhìn cô trong đẫn đờ và lẩm bẩm, “Cô tìm đâu ra mớ mánh khóe này vậy?”
“Cảm ơn vì đã công nhận năng lực ngụy trang của tôi,” cô đáp. “Cà vạt anh bị lệch kìa.” Eleven vươn tay tháo cà vạt của Theo rồi khéo léo thắt lại.
“Cô có cần phải đi xa đến vậy chỉ để che tay mình đi không?” anh hỏi, ánh mắt nhìn chằm chằm vào đôi găng opera màu đen bằng vải ngân tuyến phủ kín bàn tay cô. [note75061]
“Tôi đã xác nhận với Emma rằng việc che chúng đi sẽ khơi dậy nhiều sự tò mò hơn.”
Chưa kịp nhận thức, cô đã ở gần đến mức anh gần như có thể đếm được những sợi mi bạc của cô. Phấn mắt mang cùng màu sắc với bộ váy hòa quyện một cách kỳ lạ với sắc đông trên làn da trắng muốt và ánh mắt lạnh giá của cô.
“Có điều gì đáng bận tâm sao?” cô hỏi, nhận thấy ánh mặt của anh đặt lên mình.
“Ồ…” Anh giật mình tỉnh lại. “Vậy thì tôi cũng nên vờ như không để ý đến cánh tay tạo tác của cô đúng không?”
“Vâng. Tôi đã được chỉ dẫn để tránh bắt tay hay tiếp xúc đến tối đa, và chỉ được chạm vào anh.”
“…Emma không thể đích thân đến đây nên có vẻ cô ấy đã chuẩn bị cho cô một cách kỹ càng,” anh lẩm bẩm.
Eleven chỉnh lại cổ áo anh, lùi một bước rồi quan sát anh một lượt.
“Bộ quân phục là một lựa chọn sáng suốt,” cô nhận xét. “Mặc nó vào sẽ tạo ấn tượng mạnh mẽ hơn là mặc tuxedo.”
“Miễn sao khoảng thời gian tôi phải dành ra với lũ ngớ ngẩn càng ít càng tốt là được,” anh trả lời.
Mục tiêu duy nhất trên con tàu này của anh là Gino Camicia. Anh không hề có ý định phí hơi nói chuyện với đám nhà giàu. Anh đeo lại đồng hồ và kiểm tra lại lịch trình tour du lịch được phát cho hành khách.
Tiệc tiếp đón được tổ chức hai giờ sau khi tàu rời cảng. Sau bữa tiệc, các hành khách được tự do làm gì mình muốn. Dù giờ ăn cũng được cố định, Theo không thể loại trừ khả năng Camicia sẽ chọn phục vụ tại phòng thay vì ăn ngoài, bởi ông ta đã thuê cả một salon trong suốt chuyến đi.
Anh kiểm tra cây súng ngắn của mình rồi cất nó lại vào bao rồi cầm chìa khóa phòng mình.
“Được rồi,” anh nhìn Eleven và nói. “Chúng ta đi thôi nhỉ? Tôi tin rằng cô sẽ chỉ dẫn cho tôi các quy tắc ứng xử phù hợp.”
“Đã hiểu. Tuy nhiên, tôi sẽ không quá gay gắt trong việc chỉ ra vấn đề,” cô điềm tĩnh đáp lại và đến đứng cạnh anh.
■
Tobias đi vòng quanh tiệc tiếp đón, phân phát đồ uống với một nụ cười thân thiện rồi hướng mắt về phía lối vào sảnh chính trước sự có mặt của những hành khách mới. Đó là Theo và Eleven. Dù biết trước rằng họ sẽ ăn mặc thế nào vì chuyện này đã được bàn đi bàn lại trong cuộc họp, Tobias vẫn không khỏi kinh ngạc khi lần đầu tận mắt chứng kiến vẻ ngoài của họ.
Theo đang mặc quân phục, mái tóc đỏ sẫm của anh ấy vuốt ngược về sau. Dù bản thân bộ trang phục mang hình ảnh của một sĩ quan quân đội nghiêm khắc, khi kết hợp với nét nghiêm nghị trên khuôn mặt và dáng đứng thẳng, sự lịch sự và uy nghi hoàn toàn lấn áp sự cứng nhắc và câu nệ.
Eleven đang mặc một bộ đầm xếp ly không tay áo, mái tóc bạ của cô được búi lại một cách thanh lịch. Đôi vai của cô được phơi ra trần trụi, trong khi hầu hết cánh tay được che đi bởi đôi găng opera màu đen. Cô mang sự ngây thơ của một thiếu nữ và bầu không khí bí ẩn; ánh mắt của cô già dặn hơn so với vẻ ngoài trẻ trung của mình, khi cho tuổi của cô khó xác định được.
Cặp đôi tiến vào trong sảnh, hai tay đan vào nhau đầy thân mật, thu hút ánh mắt của rất nhiều hành khách. Cô gái hướng ánh mắt thờ ơ nhìn quanh căn phòng rồi chợt nở nụ cười. Nụ cười đó mang lại cảm giác sảng khoái như được chứng kiến một đóa hoa nở rộ.
“Bác Désiré!” cô cất tiếng, vị trung tá cùng phu nhân của mình liền quay người lại.
“Ô, cháu đây rồi!” Người đàn ông lớn tuổi tinh ranh, vị tướng dũng mãnh của Adastrah cười tươi chào đón, trong khi cô gái – Alouette – mỉm cười thân thiện, thu chân trái lại và nhún gối chào đầy duyên dáng.
Những hành khách xung quanh Tobias khẽ buông ra những tiếng xuýt xoa đầy ngưỡng mộ, và chỉ trong thoáng chốc, những tiếng xì xào đã lan ra khắp gian sảnh.
“Tôi chưa từng gặp cô ấy trước đây. Đó thật là một cái nhún gối thanh lịch.”
“Thật dễ thương! Cứ như một chú chim nhỏ vậy.”
“Alouette… Trước đây tôi đã từng nghe qua cái tên đó rồi. Không phải cô ấy là đứa cháu cưng của viên trung tướng đó sao?”
“Nếu từng gặp một người đẹp như cô ấy trong các buổi xã giao thì chắc chắn tôi sẽ không thể nào quên. Có lẽ là vì cô ấy vẫn chưa ra mắt?”
Thật ấn tượng. Tobias hoàn toàn kinh ngạc. Eleven vẫn chưa làm gì đáng chú ý cả. Vậy nhưng cô ấy đã trở thành tâm điểm của cuộc nói chuyện chỉ bằng ngoài hình tuyệt đẹp và màn diễn xuất đầy quyến rũ. Bản thân anh cũng đã bị mê hoặc trong thoáng chốc, nhưng rồi anh vội đưa mắt lướt qua các hành khách khác.
Lời bàn tán về một cô gái xinh đẹp và bí ẩn lan tỏa khắc những người dự tiệc như một làn sóng. Một khi khách đặc biệt thu hút sự chú ý của Tobias, và rồi anh há hốc miệng. Anh quay người và bước về phía Theo và Eleven, dù không quá nhanh để thu hút sự chú ý.
“Bác Désiré, dì Liddy,” cô gái nói trong khi vẫn mỉm cười. “Cảm ơn vì đã mời chúng cháu tới đây.”
“Dĩ nhiên rồi, cháu yêu.” Vị phu nhân xua tay. “Chúng ta đâu thể nào nói không với Alouette yêu dấu được. Đúng không, Desi?”
“Phải đấy.” Viên trung tướng gật đầu quả quyết. “Và tôi cũng muốn được trò chuyện cùng trung sĩ đây.”
“Thật là vinh dự, thưa ngài,” Theo nói.
Đó là một cuộc nói chuyện thoải mái, yên tĩnh. Nhưng khi Theo bắt tay Cormolone, anh ấy khéo léo đặt một mẩu giấy vào trong đó, và Cormolone khẽ gật đầu trong khi cất nó vào trong tay áo.
“Các vị có muốn dùng thức uống không?” Tobias hỏi Theo một cách tự nhiên.
“Cảm ơn. Chúng tôi rất sẵn lòng.”
Theo lấy một cái ly từ trên khay, Tobias cúi người xuống để Alouette có thể dễ dàng với tay tới.
“Hàng thứ ba từ phía sau, cột trụ bên trái,” anh nói thầm sao cho chỉ bốn người xung quanh mới có thể nghe thấy được.
Alouette mỉm cười nhận lấy một ly, còn Theo khẽ ra dấu hiệu xác nhận trong khi dùng ly để che đi miệng.
Tobisa hướng mắt về phía cuối hội trường và chào đón những vị khách mới đến dự tiệc. Tựa mình vào cái cột được trang trí bằng những bông hoa sặc sỡ là Gino Camicia, đang trò chuyện vui vẻ cùng các hành khách khác.
■
Sau khi làn sóng các cuộc nói chuyện và dòng người lắng xuống, Theo khẽ buông một tiếng thở dài. Anh đã tự hỏi rằng mọi chuyện đã ra sao khi họ quyết định rằng anh sẽ đóng vai bạn trai của Eleven, nhưng khi bình tĩnh suy nghĩ thì hai người họ không nhất thiết là phải tỏ ra thân mật trước mặt mọi người. Tất cả những gì anh thực sự phải làm là đứng gần cô hoặc đi dạo tay trong tay. Phần khó khăn trong vai diễn này là việc đối thoại với những người thuộc tầng lớp thượng lưu mà không gây ra nghi ngờ hay phải đặt câu hỏi về danh tính thật của họ.
Mọi người đều cảm thấy tò mò về cặp đôi lạ lẫm này, một dòng người không ngớt kéo đến để nói chuyện với họ. Theo vào vai một người quân nhân thô kệch, vậy nên dù anh có thiếu kiến thức về các quy tắc ứng xử và xu hướng xã hội mà Eleven đã cố nhồi nhét vào đầu, người ta cũng sẽ bỏ qua. Nhưng Eleven thì đóng vai cháu gái của một viên trung tướng có tiếng tăm, nhiều ánh mắt và cuộc đối thoại dường như mang ý định thử thách cô. Khi đứng cạnh cô, Theo cảm thấy tim mình như ngừng đập mấy lần vì lo sợ.
Sau một cuộc nói chuyện hoàn hảo khác giữa Eleven và một trong những người muốn thử thách cô, Theo khẽ nói, “Xin lỗi. Anh cần nghỉ ngơi một lát.”
“Không sao đâu. Em cũng bắt đầu cảm thấy hơi khát rồi. Cùng đi đến quầy bar nào,” cô mỉm cười đáp lại trong vai Alouette.
Nhưng chợt cô nhận thấy một người đàn ông khác tới để chào hỏi, cô liền cúi người duyên dáng trước khi anh ta có thể đưa tay ra bắt. Cô đặt tay phía trước mình trong khi đứng thẳng người dậy, khiến cho người đàn ông kia gặp khó khăn trong chạm tới một trong hai tay cô. Thay vào đó, anh ta đặt một tay lên ngực mình.
“Rất hân hạnh được gặp cô,” anh ta mỉm cười nói. “Tên tôi là Damian. Trước đây Trung tướng Cormolone chưa bao giờ dẫn theo thành viên nào khác trong gia đình mình ngoài phu nhân, vậy nên tôi muốn tận dụng cơ hội này để tới chào hỏi.”
“Cảm ơn rất nhiều,” Eleven đáp lại một cách ấm áp. “Đây quả là một vinh dự. Tên tôi là Alouette. Đây là Theo.”
“Rất hân hạnh được gặp anh.” Theo cúi đầu chào. “Trung tướng đã cứu mạng tôi rất nhiều lần.”
“À, vậy sao?” Người đàn ông gật đầu cười tươi. “Chà, có lẽ chúng ta đã cùng nhau trong trận chiếm đóng Vespa. Dù hồi đó tôi ở phía Shelkroshett.”
“Đó là cái tên mà lâu rồi tôi mới được nghe,” Theo nói. “Khi đó tôi mới nhập ngũ chưa lâu. Tôi gần như không thể theo kịp việc hộ tống xe tải tiếp tế.”
“Chà, đó cũng là một nhiệm vụ quan trong. Nếu đạn dược cạn kiệt thì có thể coi như đã chế—” Damian đột ngột ngắt lời. “Ôi trời! Có chuyện gì sao, cô Alouette? Trông cô không được khỏe cho lắm.”
Theo hướng ánh mắt mình xuống và thấy má Eleven hơi nhợt nhạt.
Cô thở hắt một tiếng, ngước mắt lên, mỉm cười rồi đặt một tay trước ngực. “Xin lỗi. Đây là lần đầu tiên tôi tham dự một sự kiện như thế này. Có lẽ là tôi hơi mệt rồi.”
“Tôi mới là người phải xin lỗi vì thiếu tế nhị,” người đàn ông kia liền nói. “Họ có đặt vài chiếc ghế ở đằng kia, có lẽ cô nên ngồi nghỉ một lát?”
“Tôi sẽ làm vậy, xin cảm ơn.” Cô cúi đầu chào một cách lịch sự. “Xin phép.”
Theo nắm lấy bàn tay vươn ra của Eleven và đỡ cô đi về phía hàng ghế dọc tường. “Bất ngờ thật. Được một người đàn ông tốt bụng cứu cánh cho như vậy.”
“Anh ta là người thừa kế của một tập đoàn đóng góp rất nhiều tiền của cho các tổ chức ý tế,” Eleven đáp rồi mỉm cười ranh mãnh. “Để giữ thể diện, anh ta phải ưu tiên cho em nghỉ ngơi hơn là tham vọng cá nhân. Hoặc có lẽ anh ta đơn giản chỉ là người như vậy. Anh ta khá tử tế.”
Trong cái đầu nhỏ bé của cô chứa đầy đủ tên của các gia tộc thượng tầng, những thành tựu và hoạt động kinh doanh chủ chốt của họ, mối quan hệ giữa các thành viên, các xu hướng trong giới thượng lưu, những chủ đề bàn luận lý tưởng, cách thức ứng xử chuẩn mực mọi lúc mọi nơi và còn nhiều hơn nữa. Bởi cô nắm vững tất cả những điều này, cô lựa chọn thể hiện bản thân một cách hoàn hảo hoặc tỏ ra đôi chút lơ đãng tùy thuộc vào đối tượng giao tiếp. Đánh giá của mọi người về cô đều rất tích cực: “Đúng như mong đợi từ một tiểu thư của nhà Cormolone!” và “Cô ấy sở hữu một sức hút tự nhiên.”
“…Em quả là một người phụ nữ đáng sợ,” Theo nhận xét.
“Đó là một lời khen có cánh.” Cô cười tươi nhìn anh. “Cảm ơn.”
Anh ngồi xuống cạnh cô và buông tiếng thở dài. Sự căng thẳng đè nặng lên vai anh dịu đi, anh đảo mắt nhìn quanh, bí mật thăm dò hội trường tiệc.
“…Người đàn ông đó đã quan sát cô suốt nãy giờ đấy,” anh khẽ nói.
“Đó gọi là nhìn chằm chằm,” Eleven thì thầm và nhẹ nhàng kéo đôi găng opera của mình. “Ông ta không thể nào quan sát một cách tinh tế hơn được hay sao?”
Dù Gino Camicia hoàn toàn không hề tiếp cận Eleven, ánh mắt của ông ta theo dõi từng nhất cử nhất động của cô. Ông ta đặc biệt chú ý khi cô từ chối bắt tay hay được hôn lên mu bàn tay. Tuy nhiên, ông ta không có vẻ bị cô mê hoặc như những hành khách khác. Thay vào đó, ánh mắt của ông ta thể hiện một sự ám ảnh đặc biệt.
“Ông ta đang tò mò về đôi tay cô đấy,” Theo nói nhỏ.
“Mọi thứ đến hiện tại vẫn đang diễn ra theo kế hoạch,” Eleven đáp. “Chúng ta có nên tiếp tục phớt lờ ông ta không?” “Ừm. Chúng ta sẽ kéo ông ta vào một khi đã mắc câu. Người ta thiếu cảnh giác nhất là khi nghĩ rằng mình đã nắm rõ được toàn bộ tình hình.”
Trong khi tránh tự mình tiếp cận Camicia, họ vẫn thu thập được những mẩu thông tin liên quan đến nhóm của ông ta. Dù vẫn chưa thu về được thành quả nào lớn, nhưng họ vẫn đã nắm bắt được một vài thứ.
“Chắc chắn có ba người ở đây đúng không?” anh hỏi Eleven.
“Đúng. Một người ở nội tạng và hai người ở chân. Dường như phía họ tặng miễn phí cho bạn bè.”
Camicia và đồng đảng đang nhiệt tình đi khắp nơi bắt chuyện với mọi người, nhưng họ lại tụ tập lại khá thường xuyên và nói chuyện vui vẻ. Bản thân Camicia quen biết rất nhiều người, và dù không có nhiều bằng chứng để Theo và Eleven có thể kết luận họ đều đến từ Jikunokagu, Eleven đã phát hiện ra lõi của Amalgam trên ít nhất ba người. Có ba người trong bữa tiệc đang sử dụng proxy như nhà Brouwer. Họ đều ghé sát vào Camicia khi nói chuyện, rõ ràng là rất thân thiết. Có thể an toàn giả định rằng họ không phải khách hàng mà là bạn bè.
“Khá ngạc nhiên khi thấy Jikunokagu thể hiện sự hiện diện của mình một cách tự do như vậy đấy,” Theo nhận xét. “Mối quan hệ của họ với giới thượng lưu có vẻ còn tốt hơn tôi nghĩ.”
“Ừm.” Eleven gật đầu. “Cả hai bên đều có thứ mà người kia muốn. Hoặc có thể nhiều người giàu đơn thuần có hứng thú với thế giới huyền bí.”
Anh thở dài và ngả mình vào ghế. Thật bất ngờ khi biết được rằng sản phẩm của Jikunokagu lại bí mật trở thành xu hướng trong một bộ phận của giới tinh hoa giàu có. Dường như những mặt hàng giới hạn không dành cho công chúng được đặc biệt quan tâm.
“Những người mua chúng hẳn phải thực sự đam mê với chúng nhỉ?” anh nói với Eleven. “Liên tục nói đi nói lại về việc chúng hiệu quả đến thế nào, vân vân, cứ như một đám cuồng tín vậy.”
“Đó không hẳn là ‘mời chào’ mà giống ‘truyền đạo’ hơn, đúng không? Họ tin rằng mình sở hữu một thứ gì đó rất tuyệt vời.”
Đó cùng lắm chỉ là một nhóm nhỏ những người cuồng nhiệt với Jikunokagu. Những người biết chút ít về Đông Akaryaza đều sẽ nói với sắc mặt chua chát rằng sản phẩm của Jikunokagu đều là rác rưởi, và phần đông người ta đều tránh những sản phẩm có dính dáng đến sự huyền bí. Có lẽ vì điều này, ngay khi các khách hàng của Jikunokagu biết được sự quan tâm của Theo và Eleven, họ bắt đầu ca ngợi không ngớt về công dụng của chúng.
“Họ toàn nói mấy thứ kiểu ‘Nó làm tôi trẻ lại’, ‘Đời tôi như lên hương’, ‘Tôi được thăng chức’, ‘Tôi có nhiều tiền hơn’.” Anh lắc đầu. “Toàn bộ những kết quả tuyệt vời đó gần như chẳng liên quan gì đến thu nhập cả.”
“Và những gì họ cho chúng ta xem đều chỉ là những thẻ gỗ và mẩu vải. Không có bằng chứng nào cho những thứ thực phẩm bổ sung hay công cụ mà họ nói tới. Nếu tồn tại thứ có thể ảnh hưởng đáng kể tới cuộc đời của một con người, Hội Phù thủy chắc chắn đã điều tiết và quản lý chúng rồi. Đó chỉ là đồ giả mạo mà thôi.”
Eleven cười khổ và ném mảnh gỗ mà cô bị ép nhận xuống dưới gầm ghế. Người tặng đã giải thích một cách nồng nhiệt rằng chỉ cần mang theo nó bên mình sẽ đem lại may mắn trong tài chính, nhưng cô thì xác định rằng nó chỉ là một mẩu gỗ sồi.
“Đó cơ bản nằm trong phạm trù của hiệu ứng placebo thôi,” Theo nói. “Nhưng tôi thì khá tò mò về những người nói rằng mình đã phục hồi được chức năng thể chất.” [note75060]
“Là những người nói về việc lấy lại được thị lực đã mất của mình, hay việc chân đủ khỏe để không cần dùng xe lăn nữa đúng không?” Eleven nói.
Theo liền nhíu mày và dùng ngón tay xoa trán.
Tất cả những câu chuyện họ nghe được về những sản phẩm tuyệt vời của Jikunokagu đều là những giai thoại được lấy từ trải nghiệm cá nhân. Nhưng những câu chuyện về việc người này phục hồi lại chức năng đã mất hay ai đó có lại được chức năng mà họ thiếu hụt từ khi sinh ra đều dưới dạng lời kể lại từ người khác. Không một ngoại lệ, những người kể đều nói với họ rằng đó là một “phép màu”, và họ cũng không có nhiều chi tiết nào khác để chia sẻ.
“…Một phép màu mà chỉ số ít người được chọn mới có được ư?” Theo hoài nghi nhướng một bên chân mày. “Họ gần như chỉ muốn chực chờ kể hết cho chúng ta nghe mọi thứ về nó, nhưng bằng cách nào đó lại không kể ra được gì giá trị. Có thể họ sẽ cho chúng ta được chứng kiến một trong những phép màu đó tại salon nếu chúng ta được gửi giấy mời.”
“Rất có thể, nếu như họ định làm một buổi trình bày về proxy. Hoặc có thể họ sở hữu một sản phẩm phép màu còn đáng kinh ngạc hơn,” Eleven nói, khẽ mỉm cười và rồi nghiêng đầu. “Tuy nhiên, em vẫn tò mò liệu những người nói chuyện với chúng ta về salon có thực sự tham gia vào đó không, hay chỉ được nghe kể thôi. Tất cả bọn họ đều bảo chúng ta giữ bí mật câu chuyện của họ, thế nhưng liệu họ có đang thực sự cố gắng lan truyền thông tin hay không?”
“Câu hỏi hay đấy.” Anh gật đầu đồng tình. “Rốt cuộc, họ liên tục càm ràm về thứ sản phẩm bí ẩn này đến nỗi tôi chỉ muốn bịt tai lại cho khỏi nghe nữa. Cũng có khả năng họ đang cố đảm bảo quyền riêng tư cho những người tham gia salon. Họ muốn sự tồn tại của salon được biết tới, nhưng họ không muốn bất kỳ ai biết rõ chi tiết cụ thể ra sao, vậy nên họ chỉ kể lại ở mức độ tin đồn thôi.”
“Quả thực là con người luôn cảm thấy hào hứng trước những thứ mình chỉ có thể liếc qua.”
Có phải đó là chiến lược để kích thích sự tò mò và thúc đẩy mọi người tìm kiếm giấy mời? Hay nhóm đó thực sự rất nghiêm ngặt trong việc lựa chọn hành khách để mời? Hiện tại Theo chưa thể xác định được.
“…Vậy những người chúng ta cần theo dõi là những người chào hàng, phải không?” anh nói.
“Có vẻ họ đã chọn khách hàng cho mình rồi. Em sẽ thu hẹp những đối tượng theo dõi và phân chia họ ra.”
Theo ngẩng đầu lên, Eleven dùng mắt để chỉ về phía một số hành khách. Những người ngồi xe lăn sẽ trở nên nổi bật trong buổi tiệc đứng kiểu buffet này, và anh có thể thấy người đang che giấu khung tập đi của mình bằng bộ tuxedo rộng thùng thình. Những hành khách khác cũng không tháo găng tay của mình ra, giống như Eleven. Và tất cả những người đó đều đã thu hút ánh mắt của Camicia và một số người khác.
“Có phải chiến thuật của họ cũng giống với chúng ta, đó là lý do họ không bắt chuyện với bất kỳ ai trong số chúng ta?” Theo lẩm bẩm.
“Có thể họ đang tìm cơ hội để tạo dựng mối quan hệ,” Eleven nói. “Những sở thích hoặc người quen chung, đại loại như vậy.”
“Điều đó cũng có thể… Tôi sẽ đi lấy đồ uống. Cô muốn uống gì?”
“Khiến em bất ngờ đi. Cảm ơn nhé, Theo.” Một nụ cười yếu ớt hiện lên trên khuôn mặt nhợt nhạt quá mức của cô, khiến cô trông có vẻ mong manh đến vô lý. Cô chắc chắn không mang vẻ ngoài của một thứ vũ khí có thể thổi bay cả chiếc xe hơi chỉ bằng một nắm đấm.
Khi Theo đang đặt đồ uống tại quầy bar, có ai đó đến đứng cạnh anh. Anh bình thản liếc nhìn sang rồi thầm nghiến răng, dù sắc mặt anh vẫn không hề thay đổi.
Gino Camicia đang đứng cạnh anh, yêu cầu người pha chế làm cho mình một ly rượu vang sủi.
“Của quý khách đây.” Người phục vụ trượt hai ly về phía Theo – một ly rượu vang và một ly nước ép chanh.
“Ô-ồ… Cảm ơn.” Theo cầm hai chiếc ly lên rồi hơi nhíu mày. Ly nước ép chanh có một trái anh đào đỏ mọng nổi lềnh bềnh phía trên.
“Một chút quà dành cho cô bạn gái của anh,” người pha chế nói, khuôn mặt có chút ửng đỏ.
“Ha-ha… Chà, cảm ơn,” Theo đáp lại với một nụ cười gượng gạo.
Anh cứ nghĩ rằng mình đã hiểu được vẻ thanh thoát và phi thường của Eleven rồi, nhưng dường như cô đã mê hoặc mọi người vượt xa những gì anh tưởng tượng. Dù vậy, có lẽ điều đó cũng dễ hiểu thôi, bởi dù anh được nhìn ngắm cô ấy mỗi ngày nhưng vẫn không khỏi điêu đứng trước nụ cười của cô.
Anh chợt nghe được tiếng cười phát ra từ bên cạnh và ngẩng mặt lên theo phản xạ.
“Xin lỗi.” Camicia nhận lấy ly của mình rồi năng ly về phía Theo. “Việc ai cũng say mê bạn gái mình hẳn làm anh cảm thấy khó chịu lắm nhỉ.”
“Có lẽ vậy.” Theo nhún vai. “Dù sao đi nữa, tôi đã có đủ thứ để lo lắng rồi.”
“Ôi chao!” Camicia nhướng mày lên đầy kịch tính. “Lo sợ rằng cô ấy sẽ thay lòng đổi dạ sao? Hay lo rằng mình sẽ không thể cho cô ấy sự hỗ trợ cần thiết?”
“…Tôi không hoàn toàn hiểu những gì ông đang nói cho lắm.” Theo cẩn trọng lựa chọn lời nói để gây xúc phạm với câu trả lời của mình.
Camicia nhâm nhi một ngụm rượu, rồi nụ cười của ông ta mở rộng thêm. “Tôi không thể không để ý đến cô ấy. Biết không, điều này khá phổ biến với những người trẻ tuổi. Họ không có được tạo tác mới sau khi cơ thể phát triển lớn hơn cái cũ, gây ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất sau này.”
“Thật kinh khủng. Nhưng đó không phải vấn đề đối với chúng tôi.”
Theo rời khỏi quầy bar, cẩn thận tránh va phải những hành khách khác. Nhưng chưa đi được vài bước, Camicia đã chắn ngang trước mặt anh.
“Cô ấy thật đáng yêu. Mảnh mai, dễ thương giống như một chú chim nhỏ,” Camicia nói. “Nhưng nếu đó là kết quả của sự phát triển bị đình trệ thì đó quả là bi kịch. Là người yêu, việc anh lo lắng cho cô ấy là lẽ tất nhiên.”
“…Tôi hiểu rằng cô ấy trông trẻ hơn so với tuổi thật của mình. Nhưng bởi tôi chỉ mới gặp ông lần đầu tiên, ông thực sự không có quyền đưa ra những suy đoán như vậy. Làm ơn tránh ra.”
Khi bị Theo trừng mắt nhìn, nụ cười của Camicia càng rộng ra.
“Thật xin lỗi,” Camicia nhanh chóng đáp. “Anh thấy đấy, tôi là một người rất dễ động lòng, và tôi chỉ muốn đưa ra một đề nghị có thể sẽ hữu ích thôi. Anh không mong muốn cô ấy có thể sống một cách hạnh phúc và tự do mà không cần cảm thấy phải che đi đôi tay của mình sao? Tôi sẽ rất vinh dự và vui mừng được giúp cô ấy có được một cuộc sống đó để cô ấy có thể tận hưởng một cách trọn vẹn, ngay cả khi anh phải đi xa để thực hiện nghĩa vụ quân đội.”
“Ông cứ liên tục nói—,” Theo định nói, nhưng Camicia ngắt lời anh.
“Bi kịch cũng là một phần của cuộc sống. Nhưng đôi lúc, chúng ta có cơ hội để làm lại mọi thứ, hạ sĩ à. Sẽ ra sao nếu cô ấy có thể đón lấy cuộc sống mà cô ấy đáng lẽ phải có với hai cánh tay xinh đẹp, khỏe mạnh?”
“Tôi hiểu rồi.” Theo nhíu mày.
Camicia tin rằng cánh tay của Alouette là tạo tác, và giờ ông ta đến để loại bỏ bất kỳ chướng ngại có thể ngăn Theo đạt được mục đích của mình. Đúng như Tobias và Emma đã dự đoán, Camicia muốn lấy lòng Theo trước, bởi lẽ anh là rào cản lớn nhất trong việc thuyết phục Alouette mua sản phẩm của ông ta.
“Cả hai cuối cùng cũng có cho mình một chuyến đi du lịch cùng nhau, vậy nhưng có thể dễ thấy rằng cô ấy chỉ nghĩ về đôi tay của mình,” Camicia nói liến thoắng. “Tôi e rằng cô ấy không chỉ sẽ không xuống hồ bơi, mà có thể còn tránh cả việc hít thở bầu không khí biển trên boong tàu, có đúng không? Nếu anh có trao nhẫn, rất có thể cô ấy sẽ tránh đeo nó. Và thật buồn làm sao khi đôi bàn tay mà anh nhớ lại khi nghĩ về cô ấy trên chiến trường lại lạnh lẽo và cứng đơ. Thử tưởng tượng sẽ tuyệt vời biết bao nếu như cô ấy có thể chạm vào anh bằng đôi tay của chính mình, với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt không một chút vấn vương, nếu hai người có thể chia sẻ cảm giác và hơi ấm thể xác đó.”
Đó là một đòn tấn công hiểm độc. Nếu người mình yêu thương nhất trên đời bị hủy hoại giấc mơ vì mất đi hai cánh tay, và thời gian như ngừng trôi với cô ấy do đôi tay tạo tác mà cô ấy mang, khiến cô ấy vẫn giữ hình hài thiếu nữ dù đó không phải điều mà cô ấy muốn – dẫn đến việc cô ấy tránh tiếp xúc với người khác và kiên quyết giấu đi đôi tay của mình – thì dù cô ấy có may mắn về vật chất đến đâu, ai cũng sẽ cảm thấy thương xót cho cô ấy. Họ sẽ cảm thấy hối tiếc – giá như cô ấy không mất đi đôi tay. Nếu đã từng trải nghiệm sự mềm mại của làn da cô ấy trước cảm giác lạnh lẽo của đôi tạo tác, họ sẽ càng cảm nhận rõ hơn sự mất mát đó.
Giờ khi đã nắm rõ được phương thức tấn công của Camicia, Theo đẩy ông ta sang một bên. “Xin thứ lỗi. Rốt cuộc, cô ấy đang đợi tôi.”
“Hãy dành thời gian suy nghĩ đi. Nghĩ về tương lai mà anh có thể có được,” Camicia nói, nhưng ông ta đứng yên đó thay vì tiếp tục đuổi theo Theo.
Theo quay lại phía Eleven và đưa cô ly nước ép chanh.
“Em đã nghe được cuộc nói chuyện rồi,” cô nói, đón lấy chiếc ly bằng cả hai tay. “Em đã nghĩ rằng ông ta sẽ tiếp tục bám theo anh.”
“Tôi để cho ông ta thấy rằng mình đã xiêu lòng,” Theo đáp. “Như thế là đủ rồi.”
“…Anh cho rằng ông ta sẽ nghĩ sự im lặng của anh là một cú trúng đích?”
“Thực ra thì ông ta có vẻ phản ứng theo hướng đó.”
Theo ngồi xuống và đưa mắt nhìn lại. Camicia cúi chào họ rồi di chuyển đến một nhóm khác.
“Khi Camicia tiếp cận anh, đồng bọn của ông ta cũng đồng loạt tản ra và bắt đầu nói chuyện với các hành khách khác,” Eleven nói. “Không ai trong số họ nhắm đến những người có vấn đề thể chất cả – họ đều nói chuyện với người đi cùng với người đó.”
“Vậy ra đó là chiêu trò chung của cả hội.” Theo gật đầu thấu hiểu. “Đầu tiên, họ sẽ chọn ra những người thân thiết với mục tiêu thực sự, nói chuyện về một tương lai mà họ đã có thể có được, vẽ ra viễn cảnh đó trước mắt họ rồi quan sát phản ứng. Chắc chắn việc khiến gia đình và bạn bè phải dằn vặt về tiềm năng đã mất sẽ dễ dàng hơn so với người trong cuộc.”
Eleven nghiêng đầu. “Bởi vì những thành viên đó đã quá mệt mỏi?”
“Không. Bởi vì họ quan tâm rất nhiều đến người thân yêu của mình, họ cầu cho một tương lai tốt đẹp hơn cho người đó.” Anh chìa bàn tay trái ra, Eleven nhẹ nhàng đặt tay mình lên đó. Bàn tay cô nhỏ bé và cứng cáp. “Cô có thể vừa nhìn tôi vừa theo dõi Camicia không?”
“Em có thể nhìn thấy được. Chúng ta vẫn không sao,” cô đáp.
Từ ngoài nhìn vào, họ trông không khác gì một cặp đôi đang nắm tay và nhìn nhau đắm đuối. Anh miết ngón tay cái trên lòng bàn tay cô, làm cô khúc khích cười.
“…Ông ta đang tập trung cao độ vào chúng ta,” cô khẽ nói. “Đó có phải những gì mà anh muốn không?”
“Tôi chỉ hy vọng ông ta nghĩ rằng bài diễn thuyết của mình có tác dụng,” Theo lẩm bẩm. “Nâng ly chứ nhỉ?”
“Được. Chúng ta đang ăn mừng điều gì?”
“Việc cá đã cắn câu.”
Họ buông tay ra và nhẹ nhàng chạm ly. Một tiếng kịch nhỏ vang lên.
“Theo, anh biết không? Chanh không phải hương vị yêu thích của em đâu.”
“Thật à?” Anh nhăn mày. “Nhưng mỗi khi được chọn thì cô đều chọn vị chanh mà.”
“Chỉ là… Hương vị đầu tiên mà em được trải nghiệm là chanh. Nó khá dễ nếm.”
“Có thứ gọi là vị dễ nếm nữa sao…? Vậy chanh thực sự dễ nếm à…?” anh lên tiếng thắc mắc trong khi nhấp một ngụm rượu vang, hương thơm nồng nàn lan tỏa lên khắp mũi anh.
Eleven cũng nhấp một ngụm nước ép chanh của mình. “Anh biết cơ chế của vị giác chứ?”
“Các hóa chất được cảm nhận qua nụ vị giác được não bộ xử lý thành mùi vị.”
“Trước đây, mọi quá trình xử lý đều dừng lại trước giai đoạn xác định mùi vị khi em thực hiện việc phân tích thành phần của vật thể bên trong miệng. Việc phân biệt chất rắn, lỏng và các định sự tồn tại của chất độc là đủ.”
“Vậy ngược lại, cô đã ở trong các tình huống mà điều đó là cần thiết, phải không?”
“Chà, một con người không thể nào nhai đinh được. Và họ cũng sẽ chết khi uống phải chất độc, đúng không? Việc phân tích như vậy là cần thiết.”
Việc một vũ khí bất tử đóng giả làm con người xem chừng khó khăn hơn Theo nghĩ. Anh gật đầu dù cho không thực sự hiểu, còn Eleven thì tiếp tục nói, đầy vẻ ngao ngán.
“Miệng của một sinh vật sống rất phức tạp, mặc cho việc chỉ cần phân biệt được thứ gì có nguy hiểm hay không đáng lẽ đã là đủ rồi.”
“Không, như vậy thì quá chung chung.” Anh lắc đầu. “Vậy thì cô cũng không cảm nhận được vị cay à?”
“Đó là cảm giác đau nên có lẽ là không,” cô đáp lại với một nụ cười ngây thơ, giống như tiếng cười của một cô gái tầm tuổi. “Nhưng em chắc chắn có thể phân biệt được vị cay của ớt cayenne và vị cay của bạc hà. Chúng em có thể phân biệt được nhiệt độ.”
Theo chợt nhớ về khi cô ấy ở nhà. “Có phải đó là lý do vì sao cô làm bữa tối mà không bao giờ ăn không? Bởi vì cô không thể nhận biết được hương vị?”
“Hì hì!” Cô bật cười thích thú. “Có phải vì thế nên anh lúc nào cũng tỏ ra một vẻ mặt kỳ lạ vào mỗi bữa ăn không? Không, không phải do vậy đâu. Nguyên tắc làm việc của em là không lãng phí. Em chỉ nấu ăn khi anh cảm thấy mệt mỏi và sẽ bỏ bữa mà đi ngủ thôi, biết không?”
“Và điều đó trong quan điểm của cô không được xem là lãng phí à?”
“Bữa ăn là nguồn cung cấp năng lượng cho con người, đúng chứ? Nhu cầu của anh không phải sự lãng phí.”
Cuộc nói chuyện không hề liên quan đến giới thượng lưu hay người giàu có này làm dịu đi bộ não đang quá tải của anh. Vì vậy, khi nhìn thấy viên trung tướng và phu nhân bước về phía mình, anh lien đứng dậy.
Eleven cũng đứng dậy theo, một người phục vụ gần đó nhanh chóng bước đến để lấy đi những chiếc ly đã cạn của họ. Khi quay lưng định rời đi, đôi má người phục vụ ửng đỏ trước nụ cười cảm ơn của Eleven.
Vị phu nhân của viên trung tướng, Liddy, cười khúc khích. “Mọi ánh mắt đều đổ dồn về cháu nhỉ, Alouette? Ngay cả nếu chúng ta không thể sắp xếp được cho cháu, dì nghĩ lời mời mà cháu muốn sẽ tự đến tay cháu bằng cách nào đó thôi.”
“…Có thông tin gì không?” Theo hỏi, và sau một cái nhìn từ Liddy, Trung tướng Cormolone lên tiếng.
“Chúng tôi tìm được một người muốn tham gia vào salon. Thằng con trai ngốc nghếch của một người bạn trong liên đoàn. Thằng bé đó lầm tưởng rằng nếu thành công chắc chắn sẽ đến với cuộc sống của những người tham dự salon nên đã cố lẻn vào. Nhưng nó lập tức bị đuổi đi.”
“Tôi rất lấy làm tiếc cho bạn ngài, nhưng rất cảm ơn vì thông tin,” Theo thành thực nói, còn Cormolone khịt mũi cười trước khi tiếp tục.
“Giấy mời thực sự là thứ bắt buộc để tham gia vào hoạt động trong salon đó. Nhưng có lời đồn rằng chỉ những người đứng đầu tham gia tổ chức mới có thể phát nó. Chắc chắn không phải nơi mà hành khách thông thường có thể bén mảng tới. Chỉ những người được sự đồng thuận tuyệt đối trong cuộc họp của ban điều hành mới được mời.”
“Vậy đây không phải hoạt động đơn lẻ của một cá nhân.” Theo nhăn mặt. “Tôi khá ngạc nhiên đấy.”
“Tôi cũng vậy. Dù không rõ những người còn lại là ai, nhưng tốt nhất nên giả định rằng số lượng của phe kia nhiều hơn chúng ta tưởng tượng.” Nét mặt của Cormolone trở nên nghiêm nghị.
Theo lén nhìn quanh sảnh. Ở đây có bao nhiêu người thuộc Jikunokagu? Nhưng chỉ cú liếc mắt thoáng qua đó lại khiến anh chạm mắt Camicia lần nữa, nên anh lập tức đẩy Eleven ra phía sau mình.
Cô ngẩng đầu lên nhìn viên trung tướng. “Cháy nghĩ mình sẽ có được giấy mời thôi.”
“Vậy thì đỡ phiền phức cho chúng ta rồi,” Liddy nói với một nụ cười. “Chúng tôi sẽ quay về với nhiệm vụ ban đầu, nhưng nếu cần gì khác thì cứ liên hệ nhé.”
Eleven thu chân trái về sau và nhún chân chào, trong khi Theo thì cúi đầu nghiêm chỉnh.
“Xin lỗi vì đã làm phiền ngài,” anh nói. “Chúng tôi rất biết ơn sự giúp đỡ của ngài.”
“Tất cả là vì cô gái quý giá của Guin thôi. Giờ thì mau vào trong đó và hoàn thành nhiệm vụ đi.”
“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức,” Theo đáp, và Cormolone gật đầu rồi quàng tay phu nhân rời đi.
Theo thở phào một hơi mà anh đã nén lại, đứng thẳng lên và nhìn xuống Eleven. Đôi mắt xám của cô nhìn anh đầy bất an.
“Giờ khi Camicia đã công khai nhắm vào chúng ta rồi, việc đặt câu hỏi với người khác sẽ rất nguy hiểm,” cô nói.
“Tạm thời hãy cứ chờ đợi và xem mọi chuyện diễn biến thế nào,” Theo trả lời. “Dù sao thì chúng ta chỉ việc rời đi cùng nhau là được.”
Eleven gật đầu rồi bất ngờ đi về phía bức tường. Theo bước đến cạnh cô khi cô chắp hai tay lại sau lưng.
Thay vì cửa sổ, bức tường bao quanh sảnh chính được trang trí bởi những bức tranh lớn và tượng điêu khắc, cùng với những vật trang trí lộng lẫy. Với cấu trúc hai tầng thông nhau, không gian này rộng lớn đến mức khó mà tin rằng nó nằm trong một con tàu.
Eleven dừng lại trước bức tranh con tàu Havmonet trên biển, Theo lặng lẽ đứng kế bên cô. Khi quan sát bức tranh đặt trong khung, anh vòng tay qua bờ vai mảnh khảnh của cô và thở hắt khi nhận thấy bóng hình phản chiếu của Camicia đang nhìn chằm chằm vào họ trên khung tranh.
“Ông ta còn tính theo dõi chúng ta đến bao giờ nữa đây?” anh thì thầm.
“Ông ta thận trọng đến bất ngờ nhỉ?” cô thì thầm đáp lại. “Bác em nói rằng nhóm đó sẽ có một cuộc họp về việc gửi giấy mời tham dự salon, nên có lẽ chúng ta nên làm gì đó để chốt hạ.”
“Ví dụ như?”
“Chúng ta thể hiện cho ông ta một lý do rõ rệt rằng em không bao giờ có thể hài lòng với tạo tác của mình thì sao? Cách đó sẽ dùng đến đàn dương cầm nhỉ?”
Trên tàu có số lượng giới hạn các không gian có chứa đàn dương cầm. Theo đang lục lại trong đầu bản đồ các cơ sở trên tàu thì hình ảnh của Tobias phản chiếu lên trên khung tranh.
Trong khi duy trì vỏ bọc của một người phục vụ thân thiện, anh ấy cúi chào lịch sự. “Ánh mắt nồng nhiệt làm sao,” anh ấy nói. “Xem chừng giai đoạn một đã thành công?”
“Dường như vậy,” Theo đáp. “Nhóm đó dường như sẽ quyết định những người tham gia vào salon thông qua một buổi họp hội đồng. Chúng tôi đang định giăng bẫy, nhưng vẫn cần cẩn thận theo dõi thêm một chút.”
“Hửm.” Tobias nhướng một bên chân mày. “Khá lạ khi một nhóm như thế lại không nằm dưới sự kiểm soát của một người duy nhất đấy.”
“Còn anh thì sao?” Theo hỏi. “Có thu hoạch được gì không?”
“Nhiều ca làm việc quá nên không kiếm được gì. Tôi phải trực sau bữa tiệc, xử lý các vấn đề của hành khách, dọn dẹp phòng cabin. Có thể tôi sẽ không kiểm tra được kho chứa hàng cho đến tận sau bữa tối. Như vậy có được không?”
Theo khó lòng phản đối được. Bởi Tobias phải vào vai một thành viên thủy thủ đoàn, đó là vấn đề không thể tránh khỏi.
“Được thôi,” Theo đáp lại đơn giản. “Nhưng anh có thể bám theo Camicia sau khi chúng tôi rời sảnh được không? Chỉ một hai phút thôi cũng được.”
“Chuyện đó thì được. Tiết mục khiêu vũ sắp sửa bắt đầu, hai người nên tận dụng thời điểm đó để đi. Trước bữa tối không còn lịch trình nào khác, rất nhiều hành khách cũng sẽ rời khỏi bữa tiệc. Hai người muốn dùng đồ uống không?”
“Không, cảm ơn.”
Họ giữ cuộc trò chuyện thật ngắn gọn để tránh gây nghi ngờ. Tobias quay trở lại công việc phục vụ của mình, còn Theo nơi lỏng cà vạt của mình ra một chút khi nhìn anh ấy rời đi.
“…Giờ thì, chúng ta nên rời đi trước khi có kẻ khó ưa nào khác tới để thử thách sự hiểu biết về văn hóa của chúng ta thôi nhỉ?” Theo hỏi Eleven.
“Ôi chao!” cô thốt lên. “Chúng ta ít nhất cũng nên nhảy một điệu chứ.”
“Nhảy… Gì cơ? Tôi và cô ư?” Ngạc nhiên, anh hướng mắt nhìn xuống. Eleven đang mỉm cười nhìn anh đầy ranh mãnh.
Các cặp đôi từ từ tiến về giữa sảnh, anh có thể nghe được tiếng ban nhạc đang chỉnh lại dây nhạc cụ của mình. Buổi khiêu vũ sắp bắt đầu.
“Khoan đã,” anh phản đối. “Cô đã dạy tôi khiêu vũ đâu?”
“Em sẽ dẫn nhịp. Anh sẽ ổn thôi,” cô trấn an. “Ý em là, em tin rằng đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng chúng ta khiêu vũ cùng nhau.”
“Và tôi phải trình diễn sự vụng về của mình trong một buổi vũ hội của giới thượng lưu sao?” Anh lắc đầu quả quyết. “Không thể. Xin đừng ép tôi.”
“Thật tuyệt vời làm sao khi chúng ta sẽ cùng nhau ra mắt! Cùng khiêu vũ nào. Chỉ một bài thôi.”
Những ngón tay đeo găng với lấy bàn tay anh. Anh không thể nào gạt bỏ cái chạm vừa ngọt ngào nhưng cũng vừa cứng cáp, vô tri này, vây nên anh đành để mình bị kéo vào nhóm người khiêu vũ.
Hai người họ đứng đối diện nhau. Cô tỏ ra ngượng ngùng như một đứa trẻ con, những đường nét trên khuôn mặt cô rạng rỡ lên – mái tóc búi lại gọn gàng, đôi hàng mi cong, đôi mắt xám. Trái lại, sắc mặt của anh thì thật sự sầu thảm.
Anh đã từng đứng trước Eleven không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa bao giờ anh cảm thấy bất lực như thế này.
“…T-Tôi phải làm gì đây?”
“Đầu tiên, anh cúi chào,” cô hướng dẫn. “Sau đó nắm lấy tay em bằng tay trái, còn tay phải đặt lên eo em.”
Những giai điệu du dương của bản nhạc nhịp ba vang vọng khắp không gian. Hoàn toàn đồng điệu với các quý cô khác, Eleven thu chân trái về sau, dùng hai tay nhích váy lên và thực hiện một động tác cúi chào chuẩn mực. Theo lo lắng cúi đầu và đưa tay về phía cô. Anh đặt bàn tay trái của mình lên trên bàn tay nhỏ nhắn của cô và đỡ lấy vòng eo thanh mảnh của cô bằng tay phải như đã được chỉ, trong khi cô nhẹ nhàng đặt một tay lên ngực anh. Khi cô ngẩng mặt lên, họ đã ở rất gần, tựa như đang ôm ấp lấy nhau. Đôi mắt cô sáng ngời vẻ ngây thơ rực rỡ, giống như mặt hồ phản chiếu bầu trời mùa đông.
Không màng đến nhịp thở bàng hoàng cua Theo, bản nhạc van bắt đầu được cất lên, những cặp đôi xung quanh họ di chuyển theo những bước đi thuần thục. Nhưng Eleven chỉ khẽ đung đưa từ bên này sang bên kia, chọc ghẹo Theo.
“Thoải mái đi, Theo,” cô nói. “Đây là lúc để tận hưởng mà.”
“Không. Không thể được. Có quá nhiều người đang quan sát.” Mắt anh đảo láo liên trong lo lắng. “Họ đang nhìn gì? Nếu cần thiết thì tôi muốn tổng cổ họ đi hết.”
“Thật thiếu kiên định làm sao.” Cô cười khúc khích. “Ông ta vẫn còn quan sát chúng ta chứ?”
Theo đưa mắt quan sát phía khán giả một lượt. Đúng như anh lo sợ, Camicia đang tựa vào một cây cột và quan sát họ với vẻ quan tâm sâu sắc.
“Ông ta đang nhìn cái gì vậy?” Theo gầm gừ. “Chúng ta đâu có làm gì đáng gây chú ý đâu.”
“Đừng dọa sợ người khác nào. Anh chỉ cần lặp lại những bước đơn giản là được; nó sẽ tạo thành một nhịp. Anh sẽ không sao đâu.”
Theo cảm nhận được sự bao bọc ấm áp từ vô số ánh mắt đang quan sát họ từ gần đó, anh khó lòng kiềm chế bản thân không chạy ra khỏi căn phòng. Anh có thể cảm thấy máu đang dồn lên đầu mình và cố gắng chỉ tập trung vào giọng nói của Eleven và những ngón chân trên đôi giày cao gót đen của cô.
“Một, hai, ba. Một, hai, ba. Bước phải, bước trái.”
“Khoan, khoan đã,” anh bối rối nói. “Đừng có tiến lùi nữa. Cứ làm đúng phải trái như cô đang nói thôi.”
“Nhảy theo nhịp điệu đi. Hãy thả mình vào dòng chảy. Nhẹ nhàng nhón gót chân lên. Hì hì! Anh đang làm rất tốt đó!”
Chuyển động chân của anh có vẻ đơn điệu, nhưng Eleven liên tục đẩy, kéo bàn tay và khuỷu tay anh, thay đổi hướng cơ thể và hướng bước chân của anh, giúp cho anh chỉ vừa đủ sức duy trì điệu nhảy.
(Nghe nói người dẫn đóng vai trò quan trọng trong khiêu vũ đôi. Ra đây là ý của họ), anh nghĩ trong khi nhìn chằm chằm vào chân cô.
“Theo?” cô hỏi. “Đừng nhìn xuống sàn nữa. Anh đang khiêu vũ cùng với giày của em à?”
“Chỉ là… Nếu không tập trung, tôi sẽ giẫm trúng chân cô.”
“Kể cả vậy thì em cũng sẽ không cảm nhận được gì đâu. Điều quan trọng là phải nhìn vào bạn nhảy của mình.”
Giọng cô mang theo chút hờn dỗi, anh liền lập tức ngẩng mặt lên. Khi ánh mắt họ chạm vào nhau, cô khẽ mỉm cười. Anh vốn đã quen với sự vô cảm của cô rồi, vậy nên được chiêm ngưỡng một nụ cười ở tầm gần như vậy rất có hại cho tim anh.
“Thôi nào, anh đang mặc quân phục đấy. Khi đứng thẳng người thì trông anh sẽ tuyệt hơn,” cô chọc ghẹo. “Và nếu hành xử một cách tự tin thì anh sẽ giống như một vũ công chuyên nghiệp hơn đấy.”
“Cảm ơn. Tôi sẽ nhớ cho lần sau.”
“Sẽ thật tuyệt nếu như có được lần sau.”
“Sao cơ?” Không thể bỏ qua lời đó, Theo lên tiếng, còn Eleven thì cất lên một tiếng cười trong trẻo.
Trong khi anh còn đang kinh ngạc trước thái độ vô tư của cô, cô buông tay trái ra khỏi anh và xoay tròn với bàn tay phải vẫn đang nắm liền lấy anh làm trục, những dải ruy băng và vạt bộ váy xếp ly của cô tung bay. Những người phụ nữ khác cũng đang quay tròn, khiến những bộ váy đủ sắc màu bung nở khắp sảnh, khi nhìn từ trên xuống thì hệt như những bông hoa đang khoe sắc.
Thật choáng váng. Cả thế giới xung quanh anh trở nên trắng xóa, chỉ có nụ cười của Eleven níu giữ anh lại. Anh không thốt nên lời.
Không đời nào cô không thu hút được ánh nhìn của người khác. Cô không chỉ xinh đẹp; cô không chỉ thanh thoát. Nụ cười của cô thật hoàn hảo, không một chút phòng bị, một nụ cười xuất phát từ sự thấu hiểu tường tận về cách người khác sẽ phản ứng trước từng nét mặt, từng cử chỉ của cô.
Cô gái ấy trôi nổi một cách nhẹ bẫng vào vòng tay anh, và anh phải thừa nhận rằng mình đã bị mê hoặc.
Anh vừa định mở miệng thì cô tin tưởng dồn toàn bộ trọng lượng cơ thể vào cánh tay anh và ngả người về sau, khiến anh không khỏi trợn mắt ngạc nhiên. Anh vội vàng đỡ cô, và ngay cả khi anh đang lẩm bẩm phản đối – “Ối. Này.” – cô tự kéo mình dậy theo điệu nhạc vui nhộn. Sử dụng đà từ động tác đó, cô xoay tròn và lùi lại sau, kéo theo bàn tay của anh.
“Này!” anh kêu lên. “Chuyện gì đây?! Này!”
Eleven chỉ cười vui vẻ, trong khi thì bị cuốn theo một cách đơn phương. Với bàn tay phải làm trục quay một lần nữa, cô hất váy ra sau và thực hiện một vòng xoay uyển chuyển rồi sa mình lại vào lòng anh. Anh giữ lấy cô gái đang lao về phía mình bằng một cái ôm rồi cuối cùng thở phào. Anh có thể nghe được tiếng cười phấn khích phát ra từ gần ngực mình.
“Đó là một điệu nhảy phổ biến thôi mà,” cô nói với vẻ ngây thơ giả tạo. “Như vậy không được sao?”
“Đừng có ngẫu hứng với một người vừa mới được học điều cơ bản chứ,” anh yếu ớt đáp lại.
Cô áp má vào ngực anh, hai người họ chỉ đung đưa một cách chậm rãi. Khi anh cuối cùng cũng lấy lại được bình tĩnh và quan sát các cặp đôi khác, anh thấy nhiều người cũng đang áp vào nhau và đung đưa như anh với Eleven. Anh đã nghĩ rằng tất cả những điệu xoay tròn, đẩy và kéo đơn thuần chỉ là Eleven đang đòi hỏi vô lý từ anh thôi, nhưng dường như đó là khoảnh khắc mà bài hát và điệu khiêu vũ đã đi đến cao trào.
“…Cô biết bài nhạc này à?” anh hỏi.
“Ít nhiều cũng có một danh sách các bản nhạc luôn được chơi trong những sự kiện như thế này. Em chỉ đơn giản là học theo những người xung quanh thôi. Em chỉ cần quan sát mọi người vào vị trí để có thể lập tức theo kịp điệu nhảy.”
“Cô nói như thể điều đó dễ lắm ấy…”
“Nhưng mà dễ thật mà. Đối với em.”
Khi ôm ấp nhau như vậy, họ thực sự trông giống như một cặp tình nhân trong mắt người khác. Và đúng là họ đang hành động theo cách để củng cố nhận định đó. Tuy nhiên, một cảm giác tội lỗi trào dâng bên trong anh. Cô ấy không phải thứ sinh vật có thể khiêu vũ ở một nơi như thế này. Nhưng nếu không có cô thì anh không thể nào câu được cá.
Theo nắm lấy bàn tay Eleven đang đặt trên ngực mình. “Cô luôn làm mọi thứ vì tôi. Thực sự là như vậy.”
“Chuyện gì đột ngột vậy?” Cô ngước nhìn anh đầy ngạc nhiên.
“Tôi đang cảm nhận được rõ rệt sự thiếu kinh nghiệm của bản thân,” anh trả lời thật lòng.
Cô không cười mà nắm chặt lấy tay anh đáp lại và lặng lẽ nép sát vào anh hơn. “Em không muốn gì hơn ngoài được trở nên có ích cho anh.”
“Ngay cả với việc như thế này sao?”
“Với bất cứ thứ gì.”
Eleven kéo mình ra xa khỏi anh, chỉ còn hai bàn tay của họ là đan vào nhau. Trong tiếng vỗ tay vang dội của khán giả, họ cúi chào cùng những cặp đôi khác.
Theo nhìn vào mắt Eleven khi cô ngẩng đầu lên và bất ngờ tiến về phía cô. Anh dùng ngón tay nhẹ nhàng vuốt những sợi tóc mái xù xượi của cô. Những giọt mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán, hơi thở của cô có phần nặng nhọc.
“Em ổn chứ?” anh hỏi.
“Em không sao. Nhưng em đổ nhiều mồ hôi quá. Thật xấu hổ.” Cô cười gượng và dùng tay quạt quạt vào mặt.
Những người xung quanh không thể che giấu nổi nụ cười trìu mến của mình. Họ có thể thấy rằng cô là kiểu con gái dễ mệt mỏi khi nói chuyện với người khác và cần nghỉ ngơi; việc cô ấy rời đi sau một điệu nhảy là điều hoàn toàn tự nhiên.
Theo nhường chỗ cho một cặp đôi khác và dẫn Eleven về phía lối ra. “Hay chúng ta nghỉ một lát nhỉ?”
“Không, em ổn.” Cô lắc đầu. “Nhưng em hơi lo về lớp trang điểm của mình. Anh có phiền không khi em đi chỉnh lại?”
“Tất nhiên là không rồi. Đi nào.”
Họ rời khỏi sảnh chính, Theo dẫn Eleven đến nhà vệ sinh nữ. Anh tựa mình vào tường hành lang đợi cô. Âm thanh của bộ đàm chợt vang lên trong tai anh.
“Tobias đây. Mục tiêu đã ra ngoài. Đang đuổi theo.”
“Rõ. Tôi sẽ xác nhận,” anh trả lời ngắn gọn rồi nhìn quanh trong khi vén một lọn tóc lại và dùng tay che mặt đi. Camicia đang nói chuyện vui vẻ với một vài hành khách khác gần lối vào sảnh chính.
(Vậy là cá vẫn đang bị mắc câu.)
Theo ngày càng chắc chắn rằng Camicia sẽ nhắm tới Eleven.
Khi cô gái trở lại, mái tóc cô buông xõa qua vai trái, tạo nên một bầu không khí thoải mái hơn. Chỉ với chút thay đổi nhỏ này, ấn tượng của cô trở nên có phần giản dị. Kiểu tóc quả là một điều bí ẩn.
“Xin lỗi vì đã để anh đợi,” cô nói. “Chúng ta vẫn còn một lúc nữa mới tới bữa tối. Anh muốn làm gì nào?”
“Đến một quán bar yên tĩnh và uống chút gì đó thì sao?” anh gợi ý. “Dường như ở đó có một ban nhạc jazz.”
“Một ban nhạc jazz!” Cô vỗ tay. “Tuyệt quá. Đi thôi nào!”
Họ không nói quá to một cách bất thường, nhưng chắc chắn họ có thể bị nghe lỏm. Giọng nói hào hứng của Eleven vang rất rõ, những người xung quanh không thể nào không nghe thấy được. Anh dành ra một thoáng chốc để thán phục việc Eleven có thể nắm bắt được ý định của anh mà không cần anh phải nói gì. Sau đó anh nắm lấy tay cô và bắt đầu bước về phía quầy bar. Không ngoài dự tính, Camicia cũng bắt đầu di chuyển.
“Chúng ta có thể biết chắc rằng họ đang thực hiện giao dịch ở đây,” Theo nói. “Nhưng không biết liệu họ có mang theo hàng hóa lên tàu không.”
“Nếu họ trình diễn để chào hàng tại salon, nhất định họ sẽ mang theo,” Eleven đáp. “Nhưng để dò được chúng thì em cần phải ở trong phạm vi xấp xỉ hai cabin dành cho khách. Chúng rất nhỏ.”
“Nói cách khác, cô có thể điều tra được từ phía trên đúng không?” Theo gật đầu, và rồi một ý nghĩ khác chợt nảy ra trong đầu anh. “Vậy có phải cô hoạt động dựa trên giả định rằng mục tiêu truy đuổi của mình mang kích thước tương đối lớn?”
“Không hẳn. Nhưng chức năng dò tìm của chúng em được sử dụng trong việc thu hồi các đơn vị bị phá hủy trên chiến trường. Chúng em được thiết kế để nguy trang vào môi trường xung quanh sau khi bị phá hủy để không được kẻ thù thu hồi. Nghĩa là nếu không có máy dò thì sẽ không thể tìm ra chúng em.”
Eleven là Hound duy nhất mà Theo biết, nhưng anh đã được đích thân trải nghiệm năng lực ngụy trang kỳ diệu của cô. Ngay cả nếu Amalgam kia chỉ tiên tiến bằng một nửa so với cô, nếu nó đang mô phỏng đất cát, anh sẽ không bao giờ có thể tìm được lõi của nó.
Anh nhỏ giọng xuống để tránh những người đi ngang qua nghe được. “Tạm gác vấn đề về cơ thể chính của cỗ Amalgam… Bọn họ đang sản xuất các lõi chất lượng thấp bằng cách nào? Có cách làm cụ thể nào không?”
“…Về điều đó, em có hai giả thuyết.” Eleven tựa sát vào Theo và khẽ nói, “Cả Roremclad và Jikunokagu đều dùng các lõi nhỏ. Bên Roremclad sở hữu một cái lõi để tách ra, các Amalgam đều có đầy đủ các chức năng cơ bản, dù công suất không đủ nên chúng phải bổ sung thêm bằng việc săn mồi. Nhưng Jikunokagu thì khác. Họ đã cố tình loại bỏ chức năng hồi phục.”
“Và đó dường như là điểm ăn khách nhất, nên thật khó hiểu tại sao họ lại loại bỏ— Ối!”
Theo nắm chặt vai Eleven và che chắn cô ấy khỏi một nhóm hành khách đang huyên náo đi xuống cầu thang. Anh liếc mắt nhìn xung quanh và thấy Camicia đang trao đổi danh thiếp với ai đó ở hành lang. Dường như Camicia đang cố bám theo họ từ một khoảng cách nhất định.
Eleven vỗ vào vai Theo. “Theo, họ đi hết rồi.”
“À. Ô! Xin lỗi…” Anh vội buông cô ra.
Cô chỉnh lại mái tóc rối xù rồi phồng má hờn dỗi. “Anh đang bao bọc quá mức đấy.”
“…Thật khó để tìm ra sự cân bằng phù hợp. Dù sao đi nữa, các giả thuyết của cô là gì?”
Cô luồn tay vào khuỷu tay anh và ghé sát người vào hơn. “Một: Giống như Roremclad, họ đang tách một cái lõi duy nhất ra, nhưng họ gặp phải vấn đề – có thể cái lõi ban đầu bị yếu đi nên không còn chức năng hồi phục. Hai: Họ đã ghi đè lên lõi của cơ thể chính và thay đổi chức năng hồi phục thành chức năng sản sinh lõi. Việc này làm sản xuất ra hàng loạt các lõi chất lượng thấp, trong khi công suất của lõi gốc không thay đổi.”
Khi nghe vậy, chân của Theo suýt khựng lại, anh buộc mình phải tiếp tục bước và đi lên cầu thang. “Có một sự khác biệt lớn về mức độ nguy hiểm giữa hai viễn cảnh.”
“Vâng.” Eleven gật đầu. “Nếu họ liên tục tách lõi ra, lõi mẹ sẽ bị suy yếu, giống như Amalgam Nina trong vụ án lần trước. Nhưng nếu nó vẫn giữ nguyên được công suất như khi sử dụng trên chiến trường, đó sẽ là một mối đe dọa nghiêm trọng.”
“…Hiểu rồi. Điều đó quả thực cần phải điều tra thêm. Hãy tiếp tục bàn bạc khi thư giãn ở quầy bar.”
Trên đỉnh cầu thang, họ có thể quan sát được không gian thông tầng của sảnh chính. Họ quay lưng lại và tiến vào khu vực nhà hàng. Họ đi qua một nhóm người đang chọn nhà hàng để dùng bữa tối và bước vào quán bar với tấm biển Meesa. Một số lượng khách đáng ngạc nhiên đang ngồi tại các bàn để uống nhanh một chút trước giờ ăn tối, trong khi ở đầu kia của căn phòng, một ánh đèn chiếu rọi lên sân khấu nhỏ.
“Tại sao anh lại chọn một quầy bar nhạc jazz?” Eleven hỏi Theo.
“Anh không thể nghĩ ra được nơi nào khác có đàn dương cầm.”
Họ ngồi xuống một chiếc bàn ở phía sau, một người phục vụ hớt hải chạy tới. Sau khi đồ uống của cả hai đã được mang tới, Theo quay sang phía Eleven.
“Từng có trường hợp nào mà một Amalgam tự sản xuất lõi chưa?” anh hỏi cô.
“Đã có một cá thể tạo ra một bản sao hạ cấp của mình để lập một đơn vị quân đội tạm thời khi đang ở trong trạng thái bất động. Nó sử dụng nhiều cá thể mồi nhử nhằm câu giờ cho đến khi hoàn tất việc sao chép bản thân.”
“Nếu mục đích là để câu giờ thì những bản sao hạ cấp có lẽ là đủ.”
“Vâng,” Eleven đáp lại một cách thờ ơ trong khi chống cằm lên tay. “Nhiều lõi chất lượng thấp có thể được sản xuất trong một khoảng thời gian ngắn.”
Theo cảm thấy tò mò và hỏi, “Vậy chúng cũng có thể bị ép phải sản xuất lõi theo lệnh à? Vì sao cô nghĩ rằng lõi có thể đã bị ghi đè?”
“Em đưa ra giả thuyết đó dựa trên thiệt hại trong quy trình và mục tiêu của Jikunokagu.” Eleven nâng ly sangria của mình lên và mỉm cười. “Tất cả những gì họ muốn là tiền và một sản phẩm sinh lời cao. Họ không cần sức mạnh như một món vũ khí của Amalgam – họ muốn một cố máy sản xuất không ngừng nghỉ. Vì vậy, điều đầu tiên mà họ làm là loại bỏ chức năng hồi phục, bởi chức năng đó đòi hỏi nhiều quy trình, và thay đổi nó thành một chức năng sinh sản mạnh mẽ. Do thiếu chuyên môn, sự thay đổi cuối cùng chỉ là những nét vẽ nguệch ngoạc lên trên lõi và xóa bỏ khả năng hồi phục của Amalgam. Em cho rằng đó cơ bản là cách kế hoạch của họ vận hành.”
“Vậy thì chúng ta có thể phá hủy khi tìm ra chúng. Nhưng còn cái lõi… sao? Quy trình? Đó không phải thứ mà ai cũng có thể làm được đúng không?” Theo hỏi thẳng khi đưa ly cocktail lên môi. “Đối với tôi, trông chúng chỉ giống một dạng hoa văn nào đó, giống như danh sách các hình ảnh. Nhưng không phải dạng văn bản có thể đọc được.”
Eleven khẽ bật cười. “Đó là một loại ngôn ngữ đặc biệt được tạo ra một cách có chủ đích để ngăn người bình thường có thể hiểu được, cho nên điều đó cũng không có gì lạ cả. Nó được gọi là Promethogia. Nó được tạo ra từ hàng ngàn năm trước đặc biệt để xử lý phép thuật.”
“Vậy tất cả phù thủy đều biết nó à?”
“Không, chỉ một số lượng ít ỏi thôi. Chỉ những chuyên gia có như cầu, những người có kỹ năng để tạo ra các phương tiện phép thuật và pháp trận, và các học giả nghiên cứu về lịch sử phép thuật đen hay vũ khí phép thuật. Ngay cả trong đội ngũ nghiên cứu Hound, chỉ các nhà nghiên cứu chính mới có thể xử lý được Promethogia. Em được tạo ra vào khoảng thời gian muộn hơn so với các Hound khác nên em có thể đọc và viết được Promethogia, nhưng các mẫu trước đó thì không.”
“Hạn chế đến mức vậy sao…?” Từ lời giải thích sơ lược này, anh có thể thấy Promethogia khó đến mức nào. Một câu hỏi khác chợt nảy ra trong đầu anh. “Camicia có sở hữu một tài năng như vậy không? Hay ông ta có biết về thứ ngôn ngữ đó không?”
“Không biết nữa.” Eleven nghiêng đầu. “Ngay cả nếu ông ấy có biết Promethogia, ông ta cũng không biết các quy trình được cấu trúc như thế nào, và loại bỏ khả năng hồi phục cũng giống như xem Amalgam là vật phẩm dùng một lần. Quá may rủi. Nếu ông ta sở hữu tài năng như anh nói, không phải ông ta ít nhất cũng phải tái sử dụng lại Amalgam sao?”
“Có thể ông ta ưu tiên việc che giấu chứng cứ, nhưng… Nếu ông ta sở hữu trình độ kỹ thuật chuyên môn cao đến vậy, Emma có thể lần theo dấu ông ta được.” Theo gửi cho Emma một tin nhắn về Promethogia rồi cất điện thoại lại vào trong túi. “Vấn đề còn lại là ông ta có được Amalgam từ đâu. Chúng ta giả định rằng Camicia đã ghi đè lên quy trình, nhưng liệu ông ta có thể thay đổi được lõi chỉ bằng việc chạm vào nó không?”
“Dù có những điều kiện chi tiết để có thể can thiệp được vào lõi, đại khái thì tiếp xúc với nó là điều kiện tối thiểu. Khó có khả năng ông ta có quyền truy cập vào một cơ sở nghiên cứu, vậy nên có thể ông ta đã thu thập lõi của một Amalgam đã bị phá hủy trên chiến trường.”
“Nếu ông ta là một quân nhân hoặc một chuyên gia trong lĩnh vực liên quan, chúng ta đã có thể tìm ra bằng cách so sánh ảnh trong cơ sở dữ liệu,” Theo nói. “Vậy ông ta hẳn phải có lý do khác để có mặt trong vùng chiến sự. Và tại một cuộc chiến khốc liệt đến mức các Amalgam phải được điều động. Nhân viên y tế, nhà báo, nhiếp ảnh gia… Nếu tính cả các tình nguyện viên, con số là quá lớn, nhưng có lẽ Emma có thể thu hẹp phạm vi cho chúng ta bằng cách nào đó.
Phản hồi của Emma được gửi tới ngay lúc đó, một tin nhắn vỏn vẹn một dòng hỏi liệu anh có thể nói chuyện điện thoại trong chốc lát không. Vừa đọc xong, chuông điện thoại của anh bắt đầu reo.
“Là tôi đây. Xin lỗi, bây giờ nói chuyện có được không?”
“Được. Có chuyện gì vậy?”
“Sẽ mất quá nhiều thời gian để gõ phím nên tôi muốn gọi điện để hỏi cậu. Cậu đã có ý tưởng để tìm ra danh tính thật của Camicia rồi đúng không?”
“Ừm. Khoan đã. Nên để chuyên gia nghe máy trước. Xin mời.” Theo đưa điện thoại cho Eleven và nhấp một ngụm cocktail.
Eleven gật đầu và nhận lấy điện thoại. “Tôi muốn đối chiếu một số thông tin. Cô có thể lập danh sách tất cả những người trong Hội Phù thủy được cấp quyền tiếp cận Promethogia không? Và kiểm tra xem trong số đó có bất kì ai đã từng có mặt trong một khu vực chiến sự khốc liệt có sự góp mặt của Amalgam không? …Không, khả năng cao không phải đích thân một học giả Promethogia, mà là một người có liên hệ với một học giả như vậy hoặc có cơ hội tìm hiểu về nghiên cứu của họ.”
Eleven đã truyền đạt xong công việc của mình và định cúp máy, nhưng có lẽ Emma vừa cất tiếng để ngăn cô – cô ghé lại chiếc điện thoại vào tại.
“Chúng tôi không gặp vấn đề cụ thể nào… Đã hiểu. Tôi sẽ chuyển lời.”
“Cô ấy nói gì vậy?” Theo hỏi.
“Cô ấy muốn chúng ta chụp ảnh cùng nhau,” Eleven đáp, đưa chiếc điện thoại lại cho anh.
“Đúng là có sở thích kỳ lạ…”
Anh thở dài. Nhưng dường như cô ấy cũng đã rất vất vả cho vụ án này, anh cảm thấy chụp một tấm cũng không hại gì. Anh đang ngẩng đầu lên định nói thì bỗng khựng lại.
Camicia và đồng đảng đã tiến vào quán bar, khiến chiếc chuông nhỏ bên trên cánh cửa rung lên. Quán bar đã khá đông khách rồi, vậy nên họ được dẫn đến các ghế ngồi ở quầy. Trên sân khấu, ban nhạc đang chuẩn bị cho buổi biểu diễn của mình.
“…Họ đã đợi ở ngoài khá lâu đấy nhỉ?” Theo nói.
“Có thể họ nghĩ rằng chúng ta sẽ sớm rời khỏi đây,” Eleven đáp.
Anh muốn tránh các hành vi gây chú ý. Anh đặt thêm một ly đồ uống với người nhân viên phục vụ đang đi tới đi lui, và khi họ mang ly cocktail đến, anh để ý rằng Eleven đang đăm chiêu nhìn mình.
“Bất ngờ à?” anh hỏi.
“Một chút,” cô đáp. “Bình thường thì anh chỉ uống bia thôi, nhưng lại không gọi nó ở quán bar?”
“Nếu đã ra ngoài, tôi muốn được uống thứ chỉ có ở quán bar. Tự pha chế cocktail thì quá phiền phức.”
Cô bật cười khúc khích, khiến anh có hơi chút bồn chồn. Anh hắng giọng rồi nói, “Nhưng ý tôi là, ông ta có được một Amalgam thực sự, nhưng tất cả những gì ông ta nghĩ ra được là dùng nó để lừa gạt người khác. Thật là nhỏ mọn. Những cái lõi được sản xuất hàng loạt cũng đều có hiệu suất thấp. Chưa kể đến việc sử dụng một Amalgam cho việc sản xuất hàng loạt rồi bỏ rơi hàng loạt… Chà, chẳng biết nữa.”
“Phải vậy. Nếu ông ta thực sự coi chúng là đồ dùng một lần, ông ta có thể ra lệnh cho Amalgam dừng hoạt động ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Vậy tại sao còn ra lệnh cho chúng quay trở lại?”
Eleven hoàn toàn chính xác.
“Chúng ta đã thu hồi được một mẫu trên bờ biển, nhưng…” Anh nhăn mặt. “Khoan. Vậy nếu cứ để yên chúng ở đó thì chuyện gì sẽ xảy ra?”
“Giống như trường hợp với Roremclad, lõi sẽ bị vỡ, cơ thể nó biến thành đất và trở về với tự nhiên.”
“Nhưng khi ở trong nhà chẳng hạn, việc xuất hiện một đống đất mà không có thực vật thì sẽ thật lạ. Điều đó chắc chắn sẽ khiến bất kỳ tổ chức điều tra nào cũng phải nghi ngờ. Ông ta hẳn đã ra lệnh đó nhằm mục đích khiến chúng cạn kiệt năng lượng tại một địa điểm ngẫu nhiên nào đó sau khi hoàn thành nhiệm vụ, thay vì lập tức tự hủy tại chỗ. Cùng logic như việc phi tang hung khí giết người ở xa hiện trường vụ án.”
“Và ông ta cũng thường xuyên đi công tác ở nước ngoài,” Eleven nói. “Như vậy thì các Amalgam không thể dễ dàng đến được vị trí của ông ta.”
Theo khẽ buông một tiếng thở dài. Mẫu vật họ thu thập được trên bờ biển đã được gửi đến phòng thí nghiệm. Nhưng nếu họ không tìm ra, nó có thể đã mục nát ở đó. Anh cảm thấy hơi tội nghiệp cho nó, có lẽ là do anh quá đa cảm.
“Nếu họ đang quản lý kho hàng ở Zabahlio, có thể cơ thể chính của Amalgam cũng đang ở đó,” anh nói.
“Thực ra, em nghĩ rằng nó có thể đang ở dưới biển.”
Theo nghiêng đầu không hiểu ý cô khi cô hỏi xin một cuốn sổ và cây bút.
Cô dùng chúng để nhanh tay vẽ một hình tròn. Đường nét gọn gàng một cách kỳ lạ, như thể được vẽ bằng compa. Cô bao quanh hình tròn này bằng một đường hình ê-líp, cũng gọn gàng đến mức trông như thể cô đã sử dụng công cụ để vẽ.
“Hãy coi hình tròn ở trung tâm là lõi, hình ê-líp là cơ thể vật lý,” cô nói. “Khi hình ê-líp bị móp do thương tích, nhũng tế bào quanh khu vực đó sẽ nhân lên và nhanh chóng lấp đầy vết lõm. Đó là cơ chế của chức năng hồi phục.”
“Ừm.” Anh gật đầu, mắt đặt lên bản phác thảo. “Hiểu rồi. Vậy mấu chốt không phải tái tạo mà là nhân bản.”
“Đúng vậy. Nhưng Amalgam này đang nhân bản lõi của mình trong khi chức năng hồi phục đã bị loại bỏ. Giả như nó vốn được cung cấp một nguồn năng lượng nào đó, khi nhiên liệu cạn kiệt, nó sẽ xé một mảnh của hình ê-líp này và biến nó thành một cái lõi nhân bản để thực hiện các chỉ thị của nó.”
Eleven vẽ thêm vài hình tròn nhỏ bên trong hình ê-líp. Theo cau mày.
“Nhưng nó không thể hồi phục,” anh nói. “Nếu nó tiếp tục sản xuất lõi, đến một lúc nào đó thì cơ thể vật lý của nó sẽ hoàn toàn cạn kiệt.”
“Chính xác. Lõi sẽ bị hở. Đó là vấn đề.” Cô gấp cuốn sổ lại và trả nó cùng với cây bút cho Theo. “Không phải là lõi sẽ bị phá hủy. Thông thường, một Amalgam sẽ chuyển hóa vật chất tiếp xúc với lõi thành cơ thể của mình như một biện pháp khẩn cấp để ẩn mình, tránh bị kẻ thù phát hiện và câu thời gian cho một Hound tìm thấy và thu hồi.”
“Nhưng Amalgam này sẽ không bị phát hiện, các vết thương của nó cũng không thể được hồi phục. Vậy nó có thể duy trì lớp ngụy trang được bao lâu?”
“Chừng nào vẫn còn vật chất tiếp xúc với lõi.”
Anh nhớ lại gợi ý về việc nó đang ở dưới biển của cô và vỗ tay lên trán.
“Phải rồi,” anh nói. “Nếu nó ở trên cạn, địa hình xung quanh Amalgam sẽ bị thay đổi và trở nên khác biệt, người khác nhất định sẽ nhận thấy có gì đó bất thường. Vì vậy, ông ta không thể giữ nó ở nơi có người qua lại như một nhà kho. Nhưng nếu nó ở dưới biển thì sẽ không một ai hay biết.”
“Dù nó là một Amalgam, rốt cuộc, nó cũng không thể nào hút cạn được cả đại dương.” Cô mỉm cười và uống cạn ly sangria của mình. “Nó biến đổi các vật chất xung quanh thành cơ thể vật lý để che đi lõi. Nhưng nếu có một cơ thể vật lý, nó sẽ sản xuất lõi. Điều đó nghĩa là lõi của nó một lần nữa sẽ bị lộ, vậy nên nó phải biến đổi vật chất xung quanh. Nếu nó liên tục làm vậy không ngừng nghỉ dưới đáy biển, nó sẽ không thể di chuyển khỏi một vị trí cố định. Và nó cũng có thể tránh được tầm phát hiện của một Hound từ dưới đáy đại dương.”
“Nếu đó là phương pháp hành động của ông ta thì thực tế sẽ tốt hơn khi các Amalgam quay về với cơ thể mẹ sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bởi cơ thể mẹ có thể tái sử dụng vật chất. Nhưng nếu Camicia đưa ra chỉ thị đó, vị trí của Amalgam mẹ có thể bị phát hiện. Vậy nên ông ta cố ý di chuyển xung quanh và đảm bảo rằng các Amalgam không quay trở lại vị trí ban đầu đó. Một lối suy nghĩ tốt.”
“Amalgam sẽ tiếp tục sản xuất lõi cho đến khi vật chất dưới đáy biển cạn kiệt đúng không? Nếu chúng ta có thể tìm thấy nó, chúng ta có thể phá hủy nó. Sẽ thật tốt nếu tàu khu trục có thể phát hiện được nó trong cuộc khảo sát đại dương của họ.”
Ánh mắt của họ theo đó mà hướng về phía Camicia. Bất kể ông ta đang nói chuyện gì, có vẻ ông ta đang khá tận hưởng.
Theo tặc lưỡi. “Ông ta đang vui vẻ quá mức ở đằng kia kìa. Nếu bị nhổ vài sợi tóc chắc ông ta cũng không để ý đâu.”
“Em muốn có một mẫu thông tin di truyền của ông ta,” Eleven đồng tình. “Anh thu hút sự chú ý của ông ta một lát được không?”
“Thu hút sự chú ý?” Anh nhướng một bên chân mày. “Em muốn nói chuyện với ông ta à?”
“Em muốn xem phản ứng của ông ta khi em chơi đàn dương cầm. Có vẻ như người chơi đàn của họ vẫn chưa đến nên ban nhạc đang gặp chút rắc rối.” Eleven mỉm cười và ra hiệu bằng mắt về phía sân khấu.
Ban nhạc jazz thực sự đang tốn rất nhiều thời gian trong khâu chuẩn bị. Họ đang bàn bạc gì đó với vẻ mặt nghiêm túc.
“…Vậy em thử trổ tài cho mọi người xem thì sao?” Theo nói.
“Xem này.”
Eleven liền đứng dậy và đi về phía sân khấu. Cô nói chuyện với bốn thành viên của ban nhạc jazz, còn Theo nghiêm túc quan sát cuộc nói chuyện của họ trong khi anh cũng đứng dậy để đến gần sân khấu hơn.
Khi đi ngang qua hàng ghế ở quầy, anh giật vài sợi tóc của Camicia. “Xin lỗi, cúc áo của tôi bị mắc vào đó,” anh biện minh rồi ngồi xuống một chỗ ở trước sân khấu. Anh bỏ những sợi tóc đó vào trong một chiếc phong bì và quan sát Eleven chuẩn bị, lòng bồn chồn không yên. Anh không thể tưởng tượng ra khung cảnh cô chơi một bản nhạc jazz bằng đàn dương cầm sẽ như thế nào.
Đây là loại nhạc thường được chơi bởi những người đến từ các vùng phía nam, một màn thể hiện công khai niềm tự hào dân tộc, không cúi đầu trước áp lực từ các quốc gia khác. Những giai điệu ngân rung chứa đựng một niềm đam mê mạnh mẽ. Liệu một Eleven vô cảm thường ngày có thể chơi được nó chỉ bằng cách sao chép cá tính của một cô gái vui vẻ không?
Anh đang chìm trong lo lắng thì nữ ca sĩ bước lên trước micro để chào khán giả và giới thiệu Eleven trong tư cách khách mời đặc biệt.
“Xin hãy chào đón cô gái trẻ tốt bụng và tuyệt vời này, Alouette.”
Cô ca sĩ mỉm cười và giơ một tay về phía Eleven, còn Eleven cúi chào một cách thanh lịch. Khán giả chào đón vị khách mời ngẫu hứng bằng một tràng pháo tay, những nhạc công khác đi vào vị trí trước nhạc cụ của mình.
Buổi biểu diễn bắt đầu với tín hiệu từ tay trống. Đồng bộ đến hoàn hảo, ban nhạc đặt nền móng cho ca khúc đầy cảm xúc của giọng ca chính. Sững lại, Theo nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của cô gái trẻ đang chơi đàn dương cầm, những ngón tay bị đôi găng opera che đi đang chạm lên phím đàn.
Phần trình diễn hỗ trợ cho giọng ca chính của cô tuy giản dị nhưng lại đầy sôi nổi và nét uyển chuyển. Với một cụ cười, cô giao tiếp bằng mắt với các thành viên ban nhạc khác, những ngón tay cô lướt nhanh trên bàn phím. Cô là hiện thân của một cô gái trẻ đang tận hưởng một quãng thời gian vui vẻ. Dù có lẽ cô chưa từng được xem qua nhạc phổ, cô vẫn khiến cây đàn dương cầm cất lên tiếng hát, hoàn toàn ăn khớp với màn trình diễn vui tươi, lôi cuốn của phần còn lại ban nhạc. Cô nhanh nhẹn và rạng rỡ với cây đàn dương cầm hệt như khi khiêu vũ ở đại sảnh trước đó.
Theo bừng tỉnh khi tiếng vỗ tay vang dội vang vọng khắp phòng, toàn bộ ban nhạc cùng cúi chào. Ca sĩ thổi một nụ hôn gió về phía Eleven với nụ cười tinh nghịch, còn Eleven thì mỉm cười xấu hổ.
Cô là thành viên thay thế vào phút chót, nhưng tiếng hò reo trong quán bar mỗi lúc một lớn hơn, và những tiếng gọi yêu cầu biểu diễn thêm lan tỏa khắp phòng trong nháy mắt. Khi ban nhạc đề nghị Eleven chơi thêm một bài nữa, cô đồng ý, mỉm cười.
Lần này là một bản nhạc trầm lắng, trái ngược với bài đầu tiên mà họ chơi. Tiếng bass và trống táo thành một nền tảng vững chắc cho giọng ca dịu êm, trong khi âm sắc phong phú của kèn saxophone dệt nên một tấm thảm âm thanh hài hòa, và tiếng đàn dương cầm làm nổi bật lên các nhạc cụ khác. Các nốt nhạc hòa quyện gọn gàng với nhịp điệu do phần còn lại của ban nhạc tạo ra, với tiếng đàn dương cầm không hề lấn át nhưng vẫn dồi dào cảm xúc. Những ngón tay đeo găng opera lướt trên những phím đàn trắng và đen. Dưới ánh đèn sân khấu, mái tóc bạc của Eleven càng trở nên lấp lánh.
Theo lặng lẽ dõi theo khi cô ngồi thẳng trước cây nhạc cụ to lớn ấy.
(Vẫn còn quá nhiều điều mình chưa biết về cô ấy.)
Và đó cũng chỉ là lẽ tất nhiên. Họ mới chỉ quen nhau trong một khoảng thời gian ngắn. Tuy vậy, sau khi chứng kiến cô dưới vai trò một vũ khí, anh bị choáng ngợp trước những gì anh biết được về cô trên chuyến du thuyền này. Cô đủ tinh tế để có thể đứng ngang hàng với giới thượng lưu, và cô cũng có thể thay đổi khuôn mặt mình thành những sắc thái được nghiên cứu kỹ lưỡng đẻ có thể tạo nên một hiệu ứng nhất định vào đối tượng.
Bình thường, cô lạnh lùng và vô cảm. Cô khẳng định rằng mình thực ra không hề có cảm xúc, thế nhưng cô lại có thể chơi đàn dương cầm một cách tràn đầy cảm xúc như thế này. Theo thực sự điêu đứng.
Những ngón tay của cô vẫn lơ lửng giữa không trung, những nốt nhạc cuối cùng của cây đàn dương cầm hòa tan vào trong im lặng. Sau khi thưởng thức âm vang còn sót lại, khán giả vỡ òa trong tiếng vỗ tay và reo hò một lần nữa. Ban nhạc mỉm cười đón nhận, nhưng Eleven vẫn không đứng dậy. Giọng ca chính nói gì đó với cô, và rồi cô vội vàng đứng lên, giấu bàn tay trái ra sau lưng rồi cúi chào khán giả và ban nhạc. Cô và ca sĩ nói chuyện thêm một chút, rồi nữ ca sĩ lộ ra vẻ mặt hơi chút ngạc nhiên. Nhưng rồi cô ấy nhanh chóng nở nụ cười và cảm ơn Eleven.
Cô ca sĩ quay lại phía khán giá. “Thật không may, có vẻ như vị khách mời đặc biệt của chúng ta không thể nán lại lâu hơn. Chúng tôi rất biết ơn cô, Alouette, vì màn trình diễn tuyệt vời này. Mọi người hãy cho cô ấy một tràng pháo tay thật lớn đi nào!”
Quán bar một lần nữa lại tràn ngập tiếng vỗ tay, huýt sáo và những lời ngợi khen. Eleven ngượng ngùng cúi chào một lần nữa và bước xuống khỏi sân khấu, và rồi ngay khoảnh khắc cô khuất vào trong bóng tối, cô vội vã chạy khỏi quán bar.
Theo cũng vội vàng đứng dậy, nhưng ai đó từ bàn khác cũng đứng dậy rời đi, cản đường ra của anh. Đó là Camicia. Theo dúi vài tờ tiền vào tay người phục vụ đang mang hóa đơn đến và đuổi theo người đàn ông đó.
■
Khi rời khỏi quán bar, Alouette hướng ánh mắt về phía Tobias. Né tránh đám đông, cô tiến ra boong dạo mát.
Tobias đang định đuổi theo, thắc mắc chuyện gì đang xảy ra, thì một người đàn ông lao ra khỏi cùng quán bar đó và lên tiếng gọi anh. Đó là Camicia.
“Anh có thấy một cô gái vừa đi ra khỏi đây không? Tóc bạc, váy xanh, găng tay đen.”
“Cô ấy à?” Tobias đáp. “Có vẻ cô ấy đang đi về phía boong dạo mát.”
“Vậy sao? Cảm ơn!”
Khi Camicia chạy đi, Tobias đi lối dành cho thủy thủ đoàn ra boong dạo mát để gặp Alouette trước khi Camicia kịp đến.
Cô đặt bàn tay trái lên lan can ở phía đuôi boong tàu, nơi có ít người lui đến. Tobias ẩn mình trong bóng tối và chạm vào bộ đàm.
“Theo. Mạn phải, boong dạo mát.”
Alouette lặng lẽ kéo chiếc găng tay trên tay trái xuống, để lộ ra làn da trắng nhợt với ánh kim loại lạ lẫm. Thay thế cho cánh tay cô từ khuỷu tay trở xuống là một tạo tác đời cũ.
Cô mở cái nắp trên khuỷu tay ra và chỉnh lại đoạn dây nối với các đầu ngón tay. Sau khi ngón út và áp út của cô trở lại vị trí ban đầu từ những vị trí lẽ ra hoàn toàn sai lệch, cô đóng nắp lại và kéo găng xuống sâu hơn, mở nắp cẳng tay ra, tháo và thay thế một số linh kiện. Cô cũng đóng nắp này lại rồi vươn bàn tay trái ra trước đại dương. Cô cử động từng ngón tay một, từ ngón út đến ngón cái, kiểm tra xem chúng có hoạt động ổn định không, đến khi đó rồi Alouette mới có thể nở nụ cười nhẹ nhõm.
“A, tôi khá ấn tượng khi cô có thể chơi đàn dương cầm tốt đến vậy bằng cánh tay hỏng thường xuyên đến mức đã thành thói quen như thế đấy,” một giọng nói đầy mê hoặc của một người đàn ông thốt lên, Alouette giật mình ngẩng đầu dậy.
Trước khi cô kịp kéo chiếc găng opera lên, một người đàn ông đá nắm lấy cánh tay tạo tác lộ ra của cô. Người đàn ông đó – Camicia – nhìn chằm chằm vào cô với ánh mắt rực lửa.
“Thật tuyệt vời!” ông ta kêu lên. “Tôi không ngờ một nghệ sĩ dương cầm như cô lại tồn tại trên thế giới này!”
“O-Ông là người đã nói chuyện với Theo lúc trước…,” Alouette nói, và Camicia cuối cùng cũng buông tay cô ra. Cô lùi lại một bước, gần như ôm lấy bàn tay bên trái, trong khi ông ta cúi chào một cách lịch thiệp.
“Thật xin lỗi cho sự phấn khích của mình, thưa cô,” ông ta nói. “Tên của tôi là Gino Camicia. Tôi làm việc cho một công ty tên là Thương mại Jikun Okajima. Đây là danh thiếp của tôi.”
“…Tôi cũng phải xin lỗi.” Cô rụt rè nhận lấy tấm danh thiếp. “Tên tôi là Alouette. Tôi xin lỗi vì đã không thể đến chào hỏi trong bữa tiệc.”
“Không, không, không sao hết,” Camicia mỉm cười đáp lại. “Cô lúc đó trông có vẻ khá mệt rồi. Tôi thực chất là một phần của nhóm đang tổ chức một buổi họp mặt vào ngày mai. Chúng tôi sẽ mời một vài nhóm khác, và tôi đã được yêu cầu cung cấp phần giải trí.”
“Có rất nhiều chương trình đúng không?” Alouette lịch sự gật đầu. “Tôi đã nghe qua về nó rồi.”
“Cô có thể biểu diễn cho chúng tôi không? Chỉ một bản nhạc thôi cũng sẽ là một niềm vui lớn lao rồi.”
“Tôi ư? Nhưng, ừm, chuyện này thật đường đột…” Đôi mắt cô tròn xoe vì bất ngờ, còn ông ta dang rộng cánh tay như thể bị cảm xúc lấn át, dường như không hề hay biết rằng đôi vai cô đang run lên vì sợ hãi.
“Màn trình diễn của cô thực sự đã làm tôi xúc động!” ông ta kêu lên. “Thật nhiều cảm xúc, thật sống động. Cách cô chơi đàn thật xinh đẹp! Và với đôi tay tàn tật như thế… Thật vi diệu! Sẽ thật tuyệt nếu cô có thể dùng đôi tay tạo tác đó và biểu diễn cho chúng tôi tại buổi tụ họp của mình. Tôi dám chắc rằng khán giả sẽ vô cùng cảm thông và thương xót trước thương tật của cô, bởi không nỗi bất hạnh nào lớn hơn việc một người trẻ tuổi bị mất đi đôi bàn tay.”
“…Tôi rất cảm kích trước những lời động viên của ông,” cô nói nhỏ, thân mình co lại. “Nhưng tôi không thể cho người khác nhìn thấy đôi tay này được.”
“Quả đúng là những gì tôi vừa nói giống như đang bảo cô bộc lộ vết thương đau đớn và quá khứ khổ cực của mình ra trước thế giới. Thật lòng xin lỗi. Tôi hiểu rằng đây là một đề nghị khó khăn, nhưng ít nhất xin hãy xem xét.”
Ông ta quỳ một chân xuống và đặt tay lên trước ngực.
“Này quý cô, tôi đã nhìn thấy ánh sáng của hy vọng từ bên trong cô. Màn trình diễn của cô có thể chiếm lấy trái tim của bất kỳ ai quan sát, hướng sự chú ý của họ vào đôi tay mà cô đã mất đi, dẫn dắt họ hướng tới một tương lai không còn ai bị tổn thương nữa. Trên con tàu này có rất nhiều những con người tuyệt vời, những người nắm vị trí trung tâm trong các quốc gia của họ. Và tiết mục dương cầm của cô đêm này sẽ là đủ để khiến những người đó mong muốn đặt một dấu chấm hết cho chiến tranh.”
“Tôi… Ông đang nói quá rồi. Màn trình diễn của tôi làm lay động trái tim người khác… Chuyện đó…” Alouette cúi đầu và che đi cánh tay tạo tác bên dưới lớp găng opera.
Nắm lấy những ngón tay chất chứa đầy tủi nhục đó, Camicia nói tiếp đầy nhiệt huyết, “Không hề đâu, quý cô. Alouette. Âm thanh tiếng đàn của cô và sự hiện diện cả cô trước cây đàn dương cầm làm củng cố ước muốn hòa bình của chúng tôi. Dù sao đi nữa, chiếc du thuyền này là để kỷ niệm cho tình hữu nghị và nền hòa bình.”
“…Ông thấy rồi đấy, tay tôi gặp trục trặc sau khi mới chơi được chỉ một hai bài. Ông không cảm thấy phiền lòng ư?” cô ngại ngùng hỏi.
“Không thành vấn đề,” ông ta trấn an. “Bản thân tôi, Gino Camicia, tin rằng tiếng đàn của cô có thể làm thay đổi thế giới. Nếu cô có thể vui lòng góp mặt vào chương trình của chúng tôi, xin hãy nói chuyện với nhân viên lễ tân tại sảnh tiếp tân vào trưa ngày mai. Chúng tôi cũng sẽ có một món quà cảm ơn dành cho cô. Tôi hứa rằng cô sẽ không hề hối hận.”
Cô không lập tức trả lời ngay. Nhưng đôi mắt cô run lên trước sự bối rối và do dự. Nụ cười của Camicia càng rộng hơn, ông ta kính cẩn đưa những ngón tay thon dài, nhân tạo của cô lên trán mình.
“Chúng tôi sẽ chờ đợi cô. Chúc cô một buổi tối tốt lành.”
“Ông đã xong chưa?” một giọng nói cất lên.
Những tiếng bước chân mạnh bạo tiếp cận, cánh tay của Camicia bị gạt đi. Theo vòng tay mình quanh bờ vai của Alouette khi cô lảo đảo lùi lại. Anh đẩy cô ra phía sau mình, sắc mặt anh nghiêm nghị.
Nhưng Camicia chỉ mỉm cười đáp lại. “Chà, không phải viên hạ sĩ đây sao. Xin thứ lỗi. Màn trình diễn trước đó của cô ấy đơn thuần quá đỗi tuyệt vời.”
“Màn tình diễn của cô ấy quả thực rất đáng ngợi khen,” Theo thô lỗ nói. “Nhưng tôi không hề hài lòng với việc ông lén lút tiếp cận cô ấy khi không có ai khác ở quanh.”
“Ha-ha-ha! Thật xin lỗi. Với tư cách một kẻ xen ngang, tôi xin được lặng lẽ rời đi. Xin phép.” Camicia cúi đầu trước cặp đôi rồi bỏ đi.
Sau khi hình bóng của ông ta đã khuất bên trong tàu, Theo thở dài một hơi rồi tựa mình lên lan can, còn Alouette thì xóa đi hết toàn bộ cảm xúc trên khuôn mặt. Thấy vậy, Tobias cuối cùng cũng bước ra từ trong bóng tối.
“Trời ạ.” Anh ấy đảo mắt. “Ông ta dễ dụ thật đấy nhỉ? Có lẽ từ đầu tôi không cần phải đứng đợi ở đây làm gì đâu.”
“Chúng ta không biết ông ta sẽ làm gì, vậy nên tôi rất biết ơn rằng anh đang chuẩn bị ở đó, Tobias,” Alouette – Eleven – nói, chậm rãi chớp mắt, nét mặt của cô hoàn toàn lạnh đanh. “Tôi đã dự đoán rằng ông ta sẽ hạ cảnh giác và rò rỉ một số thông tin khi chúng tôi ở một mình, nhưng có vẻ ông ta khá kín miệng.”
“Có thể họ thực sự muốn có Alouette tham gia vào, vậy nên ông ta phải cẩn thận để không làm cô ấy phật ý.” Theo vuốt lại mái tóc rối xù của mình với vẻ mệt mỏi. “Có thể ông ta sẽ giới thiệu Alouette với hội của mình trong buổi họp ngày mai và quyết định xem có gửi lời mời cho cô ấy không. Tuy nhiên, tôi thực sự không ngờ rằng ông ta sẽ lao ra khỏi quán bar như vậy.”
“Tôi cũng đã bất ngờ,” Tobias nói. “Có phải cô đã lên ý tưởng cho việc tạo tác bị hỏng không, Eleven?”
“Phải.” Cô ngẩng đầu lên nhìn họ với đôi mắt điềm tĩnh thường ngày. “Tôi đã xem xét đến lý do gia đình nhà Brouwer được chọn trong số nhiều những gia đình đau buồn vì bị mất đi người thân. Tâm lý của họ bất ổn hơn đáng kể so với những người khác, vậy nên tôi giả thuyết rằng họ bị nhắm tới bởi họ có vẻ dễ bị lừa đảo. Tôi nhận thấy cần phải trang bị cho Alouette một mức độ bất ổn tương tự.”
“…Cô vẫn có thể chơi đàn dương cầm bằng đôi tay đó, nhưng chúng là mẫu cũ và nhanh chóng bị hỏng,” Theo nhận xét. “Ngay cả khi có tiền để mua tạo tác mới, cô mang một sự gắn bó về cảm xúc ngăn cản cô vứt bỏ đôi tay đó đi. Chúng cản trở sự phát triển của cô và làm gia tăng phức cảm của mình qua nhiều năm. Một câu chuyện không quá tệ. Và Camicia có vẻ hoàn toàn tin vào nó.”
Tobias nhăn mày. “Nhìn vào cách cư xử của ông ta, tôi đoán rằng ông ta nhất định sẽ mời Alouette, cho dù có phải vặn tay các thành viên còn lại trong hội. Có lẽ vấn đề còn lại là khi nào bọn họ sẽ tổ chức tại salon.”
“Họ có chia sẻ lịch trình cho nhân viên trên tàu không?” Theo hỏi.
“Không hề. Nhưng họ không thể nào giấu kín hoàn toàn được. Nhân viên nhà bếp cho tôi biết rằng các đơn đặt đồ ăn thức uống sẽ đến đầu tiên vào buổi sáng ngày tổ chức tại salon.” Tobias mở cuốn sổ tay của mình ra. “Giống như với dịch vụ phòng, các đơn hàng từ salon được gửi tới vào buổi sáng của ngày trọng đại. Tuy nhiên, không có sự nhất quán nào cả – trà chiều, trước bữa tối, vân vân. Thời gian không được cố định.”
“Nắm bắt được kế hoạch của họ xem chừng khá khó khăn.” Theo thở dài. “Tàu sẽ cập cảng tiếp theo trong ba ngày tới.”
“Tôi sẽ giữ liên lạc với cậu. Họ hẳn phải mở salon ít nhất một lần trước khi chúng ta đến Zabahlio, vậy nên tôi nghĩ rằng phía họ có thể sẽ tổ chức vào ngày mai hoặc ngày kia,” Tobias nói.
Nói cách khác, hiện tại họ không thể làm gì. Sắc mặt Theo trở nên u ám.
“Dù vậy, tôi không nghĩ là Camicia sẽ đích thân tiếp cận,” anh nói. “Tại sao ông ta lại thấy Alouette quan trọng đến vậy? Ngoại hình? Gia thế?”
“Có thể ông ta chọn cô ấy vì mục đích tiếp thị. Chỉ việc tham gia vào bữa tiệc thôi cũng đủ khiến Alouette trở thành tâm điểm của sự chú ý,” Eleven nói. “Nếu một cô gái chơi đàn dương cầm như vậy với đôi tay tạo tác trình diễn một lần nữa với một đôi tay có vẻ là tay thật, điều đó sẽ làm thu hút sự tò mò, khiến người ta phải thắc mắc về đôi tay đó. Có thể kế hoạch của Jikunokagu là đột ngột xuất hiện khi các hành khách đang sôi nổi vì điều đó? Rốt cuộc, nếu họ có thể làm được tay, chắc chắn họ có thể làm cả các bộ phận khác và các cơ quan nội tạng thay thế. Sau đó họ có thể thu về lợi nhuận khổng lồ từ sản phẩm của mình.”
“Chà, nếu họ có trong tay một nguồn cung proxy vô hạn miễn phí từ Amalgam, họ rất có thể sẽ lơ là,” Theo đồng tình và gãi đầu khó chịu. “Nhưng đây chỉ là vấn đề thứ yếu. Vì sao Amalgam lại tuân theo lệnh của ông ta chứ?”
“Một thứ vũ khí phụ thuộc vào năng lực chỉ đạo của con người thường không hoàn thiện và thiếu chuẩn bị,” Eleven khẽ nói. “Nếu nhận lệnh, nó sẽ tuân theo, bất kể năng lực chỉ huy như thế nào.”
“Khỉ thật,” Theo chửi rủa. “Đúng là lũ vũ khí phiền phức.”
“Thôi nào.” Tobias cười khổ. Anh hiểu cả cảm xúc của Theo và những gì Eleven đang muốn nói. “Vậy từ giờ, chúng ta chỉ nhắm tới việc dò hỏi về Jikunokagu thôi à?”
“Về chuyện đó, anh có thể thu thập một số thông tin khác được không, Tobias?” Eleven hỏi. “Chúng tôi đang nghi ngờ rằng cơ thể chính của cỗ Amalgam đang ẩn giấu dưới đáy biển.”
Tobias liếc nhìn biển cả. Khi nghĩ về việc một Amalgam đang lẩn trốn bên dưới những bờ sóng dịu dàng, anh ấy cảm thấy hơi rùng mình. “Tìm kiếm một Amalgam dưới đáy biển à… Có lẽ là hơi quá sức đối với tôi rồi.”
“Vậy đấy. Anh có thể hỏi các thủy thủ khác về các rắc rối trên mặt biển không?” Theo nói. “Chúng tôi cũng sẽ hỏi han xung quanh, nhưng giả dụ rằng cỗ Amalgam đang ở dưới đáy biển, Jikunokagu phải có cách nào đó để thu gom hàng hóa. Tuy nhiên, chúng ta không biết cách thức hay tần suất, vậy nên anh sẽ phải điều tra mù. Nhưng tôi có cảm giác rằng ít nhất, chúng ta đang tìm kiếm thứ có thể gây chấn động đối với những người làm việc trên biển.”
“Phải đấy. Dù có là lặn lấy hàng hay thu thập những thứ nổi lên trên, chắc chắn phải có một chiếc thuyền khả nghi,” Tobias đồng tình. “Ngoài ra còn phải xem xét đến thủy triều nữa nên tôi không thể dám chắc được, nhưng nếu cỗ Amalgam đó không thể di chuyển, người của Jikunokagu sẽ phải thu thập hàng hóa trong một phạm vi cố định.”
“Không. Chờ đã…,” Eleven đột ngột cất tiếng. Tobias nhìn cô trong bất ngờ, thế nhưng cô không hề nói tiếp.
Cảm thấy tò mò, Theo cũng hướng mắt nhìn cô. “Sao vậy? Có thứ gì làm cô bận tâm à?”
“…Khi tính toán xác suất các Amalgam trở về biển sau khi bị bán đi, tôi đã giả định rằng lịch trình di chuyển của Camicia không liên quan đến việc tiếp xúc với khách hàng. Nhưng nếu các khách hàng đó ở trên cùng một chuyến tàu hoặc đi ra khơi vì lý do gì đó, vậy thì ông ta hoàn toàn có thể tiếp cận họ. Trong trường hợp đó, tôi nghĩ rằng phương án tốt nhất là tính toán cách mà Amalgam đang ở dưới đáy biển phản ứng.”
“Ồ!” Tobias kêu lên. Những gì cô vừa nói quả thực rất đúng. “Nếu chủ nhân đang ở ngoài khơi, trong khi cỗ Amalgam thì ở dưới đáy biển, vậy thì có thể bọn họ thu thập các bản sao khi chúng chìm xuống sau khi cạn kiệt năng lượng trong quá trình cố gắng đến được chỗ của Camicia.”
“…Để tóm được người dùng proxy hẳn cũng yêu cầu họ phải nằm trong tầm nhìn,” Theo nói thêm.
Một bầu im lặng khó xử bao trùm lấy họ. Tobias thở dài và chỉnh lại cổ áo bộ đồng phục của mình.
“Dù gì đi nữa, tôi phải quay lại làm việc đây,” anh ấy nói. “Tôi sẽ hỏi xem có người nào khả nghi hay có rắc rối nào trên biển không.”
“Làm vậy đi.” Theo gật đầu. “Chúng tôi sẽ tiếp tục dò hỏi mọi người.”
Khi họ quay vào trong từ boong dạo mắt, các hành khách đang tấp nập đi ăn tối. Không thể nào phân biệt được ai là du khách thông thường, ai là thành viên của Jikunokagu.
■
“…Cảm ơn rất nhiều. Tạm biệt.”
Emma cúp cuộc điện thoại lần thứ n, thở dài rồi ngả lưng vào ghế. Khi kiểm tra lại danh sách của mình, trên đó chỉ còn lại bảy cái tên. Trong số đó, cái tên làm cô cảm thấy e ngại là đại diện của Lữ đoàn Cứu hộ Banthobuk, Chensey Saika. Emma không có thông tin liên lạc của cá nhân cô ấy, vậy nên số điện thoại trên danh sách thuộc về văn phòng của Lữ đoàn Cứu hộ. Dường như đến tận bây giờ, Saika vẫn đang thực hiện công việc cứu trợ tại những vùng xảy ra xung đột.
“…Cô ấy là đối tượng tình nghi hàng đầu của mình. Cô ấy biết về Promethogia, cô ấy cũng di chuyển đến các vùng chiến sự. Tuy nhiên, mình không nghĩ rằng cô ấy có nhiều thời gian rảnh rỗi đến mức truyền đạt nghiên cứu của mình cho người khác.”
Emma tạm gác Saika sang một bên như phương án cuối cùng và nhìn vào sáu cái tên còn lại. Thông tin liên lạc của họ có thể không phải mới nhất, nhưng tên của họ vẫn sẽ còn trong danh sách ngay cả khi người đó đã qua đời.
“Mình có thể xem qua các bài báo chăng? Dù sao thì tất cả họ đều là các học giả xuất sắc, nên…”
Cô đăng nhập vào cơ sở dữ liệu của Cục Điều tra Hình sự và tìm kiếm tên của những người đó trên mặt báo khắp cả nước. Một người trong số họ xuất hiện trong mục cáo phó – qua đời vì tuổi già/nguyên nhân tự nhiên. Một trang báo cáo khác viết về nỗ lực của một nhà khảo cổ học đã thành công giải mã một pháp trận được tìm thấy trong tàn tích nào đó. Cô đánh dấu từng cái tên trong danh sách và chuyển sang cái tên tiếp theo, cho đến khi tay cô dừng lại theo phản xạ.
Jens Nilholm Tử Vong Trong Vụ Hỏa Hoạn Tại Nhà
Bài báo này được viết vào ba năm trước, sáu tháng trước khi Basil Brouwer ra đời. Một học giả trong lĩnh vực cấu tạo thuật thức và một kỹ sư phép thuật tài năng, Nilholm được phát hiện đã tử vong tại nhà riêng. Đám cháy xuất phát từ trong phòng ngủ và được cho là do xử lý lửa không đúng cách; cảnh sát đã xác định rằng thảm kịch này không có điểm nào đáng ngờ. Vợ của Nilholm, Fanne, người đã hỗ trợ ông trong cả sự nghiệp và đời tư, nói với họ rằng vị giáo sư đã bỏ thuốc từ vài năm trước, và ông ấy không thể nào hút thuốc trong phòng ngủ. Cô ấy kiên trì khẳng định rằng có điều gì đó không ổn. Nhưng không có bằng chứng nào được phát hiện cho thấy đây là một vụ án mạng.
Emma ghi lại tên của tiến sĩ và nơi ông sống, rồi lập tức liên lạc với sở cảnh sát địa phương. May thay, vị thám tử chịu trách nhiệm điều tra vụ việc và bác bỏ khả năng có yếu tố hình sự vẫn còn đang làm việc ở đó.
“Thật đáng tiếc về Tiến sĩ Nilholm,” vị thám tử nói với cô. “Ông ấy từng là một người xuất chúng, là niềm tự hào của cả vùng.”
“Tôi có thể hỏi điều gì đã khiến ông xác định nguyên nhân đám cháy là do xử lý lửa không đúng cách không?”
“Phòng ngủ là nơi phát sinh vụ hỏa hoạn, Tiến sĩ Nilholm lúc đó đang nằm trên giường. Trên mặt bàn kê ở đầu giường có tàn thuốc lá. Khám nghiệm tử thi cho thấy có dấu vết của khói thuốc trong phổi của vị tiến sĩ, được hít vào khi vẫn còn sống, và có thể thấy rõ rằng trên thi thể không có vết thương nào khác ngoài vết bỏng. Nồng độ cồn trong máu cũng cao, chúng tôi đi đến kết luận rằng ông ấy say rượu và ngủ quên với điếu thuốc đang cháy, điều không may đã dẫn đến vụ hỏa hoạn.”
“Vậy ông có chắc rằng đó không phải một vụ án mạng không?”
“…Chúng tôi không tìm được bằng chứng nào đủ thuyết phục. Nhưng có một số thứ khiến tôi bận tâm.”
Vị thám tử có ba câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp. Một, Nilholm được cho là đã uống rượu, nhưng họ không tìm được bất kỳ cái ly đã qua sử dụng nào. Hai, rượu rum ngấm vào giường của tiến sĩ và chảy về phía cửa. Họ tìm được một chai rượu rỗng trên kệ bàn đầu giường, nhưng trong dạ dày của tiến sĩ không hề có dấu vết của rum. Ba, theo như lịch sử cuộc gọi, ai đó đã gọi điện cho tiến sĩ ngay trước khi đám cháy bắt đầu.
“…Chúng tôi muốn tìm ra bằng chứng giết người.” Vị thám tử thở dài. “Nhưng việc tiến sĩ không hề uống một giọt rượu nào vẫn là không đủ, vậy nên chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài khép lại vụ án.”
“Tôi hiểu những gì ông muốn nói.” Emma gật đầu. “Và ông cũng không tìm được dấu vân tay của ai khác trên tàn thuốc đúng không?”
“Đúng. Dấu vân tay duy nhất trên tàn thuốc và chai rượu rum thuộc về tiến sĩ.”
“Cảm ơn rất nhiều. Ông có thể gửi cho tôi một bản sao của hồ sơ vụ án không? Và cả thông tin liên lạc của vợ ông ấy nữa. Tôi muốn được nói chuyện trực tiếp với bà ấy.”
Cô viết số điện thoại vào trong sổ tay, cảm ơn vị thám tử rồi cúp máy. Cô gần như không thể chịu nổi việc chờ đợi hồ sơ được gửi tới qua máy fax, cô gõ mạnh lên cỗ máy một cách nóng vội.
(Một ai đó đã đến nhà của tiến sĩ – một người đủ thân thiết để có thể uống rượu với nhau. Và sau đó, ông ấy uống say, hút nhiều thuốc dù đã bỏ từ lâu, rồi ngủ quên với điếu thuốc đang cháy dở. Không hợp lý chút nào.)
Tiến sĩ Nilholm thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, thúc đẩy sự phát triển và phổ biến của ngành kỹ thuật phép thuật. Chính vì lý do đó mà ông có lượng lớn những người ủng hộ thành kính tiếc thương cho cái chết của mình, cáo phó của ông cũng được đăng tải rộng rãi. Nhưng nếu ai đó nhắm vào ông bởi chính sự nổi tiếng đó thì sao?
Cô có dự cảm không lành và gọi điện, trái tim cô nặng trĩu.
“Đây có phải Fanne Nilholm không? Tôi là Canari từ Cục Điều tra Hình sự. Tôi muốn hỏi bà về cái chết của Tiến sĩ Jens Nilholm ba năm về trước.”
Emma nghiến răng. Tất cả những gì cô đang làm chỉ là khơi lại những vết thương cũ của người khác.
■
Alouette đột ngột rút ra một tấm danh thiếp khi những tiếng nói cười xung quanh đã lắng xuống.
“Mọi người có biết một người tên Gino Camicia không?” cô hỏi. “Ông ấy là chủ tịch của một công ty thương mại. Ông ấy mời tôi biểu diễn trong một sự kiện ngày mai, nhưng chúng tôi không có nhiều cơ hội để trò chuyện.”
Thấy vẻ bối rối trên khuôn mặt cô, những người xung quanh vui vẻ đáp lại.
“Ông ta chính xác là như vậy đấy!” một trong số những người họ cười tươi đáp lại cô. “Ông ta lúc nào cũng phải nói với người khác những gì mình nghĩ là tuyệt vời.”
“Ông ấy thường mới các khách mời đặc biệt lên biểu diễn trên các chuyến du thuyền như thế này,” một người khác nói. “Tôi chắc rằng cô đã rất ngạc nhiên, nhưng ông ấy thực sự say mê tài năng của cô. Cô nên cho ông ấy một cơ hội.”
“Vậy sao?” Alouette mỉm cười, dường như đã an tâm được phần nào. “Ông ấy có mời ai biểu diễn một cách đường đột như thế này nữa không?”
“Đêm qua chẳng hạn, một vũ công nhảy tap với đôi chân tạo tác đã biểu diễn cho chúng tôi.”
Những hành khách khác kể cho cô đủ loại câu chuyện để làm dịu bớt nỗi lo của cô. Theo cẩn thận lắng nghe cuộc nói chuyện không ngừng của họ, đôi chân mày của anh khẽ cau lại.
Dường như Camicia lợi dụng việc biểu diễn làm cái cớ để cho những người ông ta muốn một lời mời đến salon để ông ta có thể cho trình diện người đó cho hội lãnh đạo. Chưa kể đến việc thân phận người du hành của ông ta được biết đến rộng rãi hơn những gì Theo và đội của mình nghĩ. Có phải ông ta xây dựng mối quan hệ thông qua việc liên tục tiếp cận để đưa sản phẩm của Jikunokagu ra thế giới?
Theo nhồi nhét tất cả các thông tin đưa cung cấp vào trong bộ não của mình trong khi gật đầu và nói chuyện khi cần thiết.
■
Tobias dùng bữa xong ở căng tin và đi về khu vực nơi thủy thủ và những người làm lâu năm tập trung lại. Những người này phụ trách động cơ và phần cơ khí của con tàu, vậy nên họ dậy sớm hơn tất thảy những thành viên còn lại của thủy thủ đoàn. Điều đó cũng có nghĩa là họ đi ngủ rất sớm.
Họ sẵn lòng chào đón Tobias trong khoảng thời gian thư giãn ngắn ngủi trước khi đi ngủ. Khi anh đề cập đến chủ đề rắc rối trên biển, nhiều người làm lâu năm liền gật đầu. Đây là những người đã làm việc trên nhiều con tàu khác nhau, vậy nên họ có người quen ở gần như tất cả các cảng.
“Tàu lạ à? Dạo này có nhiều lắm.”
“Nhiều đến bất ngờ ấy. Thường thì có các tàu đánh cá trộm, những tàu đang chạy trốn khỏi thứ gì đó. Đủ các loại tàu khả nghi. Nhưng dạo này thì nhiều hơn hẳn.”
“Tầm sáu tháng trước, tôi thấy có đám người vứt bỏ hàng hóa xuống khỏi tàu của mình – tôi đã khá là bất ngờ đấy. Tôi đã nghĩ rằng họ sẽ bị bắt vì tội đổ rác bất hợp pháp, nhưng đến tháng sau, những người đó xuất hiện trở lại với những bộ đồ lặn cũ chưa từng thấy và dùng lưới bắt sứa.”
Những thủy thủ tranh nhau kể cho anh những gì mình biết, trao đổi ánh mắt nghi ngờ với nhau. Tobias chăm chú gật đầu trong khi ghi nhớ tất cả các thông tin đó. Việc đổ rác bất hợp pháp dường như là để tiếp nhiên liệu sản xuất, còn đám sứa khả năng cao là các Amalgam trước khi ngụy trang.
“Các anh đã thấy họ ở đâu?” anh hỏi. “Tôi có cảm giác rằng họ sẽ nổi bật như một cái gai trong mắt tại bất cứ đâu gần cảng.”
“Tôi đụng phải họ ít nhất một lần ở Zabahlio,” một thủy thủ đáp. “Đám đó nổi giận với tôi – nói rằng tôi đang làm cản trở việc đánh cá. Chỗ đó là vùng nước nông, nên tôi khi đó kiểu, ‘Đến nước sâu thế nào còn không biết thì đừng có mà ra khơi’.”
“Nhưng mà con tàu đó đáng sợ thật. Ý tôi là, ai lại đi bắt nhiều sứa đến vậy chứ? Không cần thiết chút nào.”
“Nghe nói tháng trước họ cũng ở ngoài khơi. Họ dùng ở đó kéo lưới vét đáy. Anh em của tôi đã nổi xung lên.”
Khi một người bắt đầu lên tiếng, mọi người cũng bắt đầu nói theo, kể từ câu chuyện này đến câu chuyện khác. Tobias gần như chắc chắn rằng tất cả những câu chuyện của họ vẽ lên một hình ảnh Jikunokagu bổ sung hàng hóa và không buồn che đậy những gì mình đang làm.
“Anh nói đến việc đánh bắt cá đúng không?” anh chợt nói. “Vậy có phải chúng ta đang nói về lúc sáng sớm phải không?”
“Ừ.” Một thủy thủ gật đầu. “Từ khoảng giữa đêm cho đến trước bình minh. Nhưng điểm lạ đây này. Vùng biển đó không có nhiều sứa, vậy làm thế nào mà họ có thể kéo được một mẻ đầy?”
“Họ cũng mang theo một đống máy móc cồng kềnh nữa, vậy có thể họ đang sử dụng một dạng máy dò sứa nào đó. Tôi không biết đó là loại sứa nào, nhưng chúng cần phải có thiết bị tân tiến mới bắt được.”
“Vậy à?” Tobias nói. “Một du thuyền như thế này không thường xuyên gặp các tàu đánh cá đâu, phải không?”
“Chà, không hẳn. Con tàu tôi làm việc trước đó đã phải dừng khẩn cấp sau khi bị một con tàu đánh cá lạ đâm vào. Chúng tôi đã định giao họ cho hải quân, nhưng rồi bọn họ đột ngột lao vọt đi.”
“Giá mà bọn họ thôi cái trò liều lĩnh đó đi. Dù gì đi nữa, tôi mong rằng cả bọn sẽ không gặp rắc rối gì trên chuyến du thuyền này.”
“Chắc chắn rồi.” Tobias cảm ơn các thủy thủ rồi nói lời tạm biệt khi họ chuẩn bị đi ngủ.
Anh suy nghĩ về tình hình trong khi rảo bước về phía khoang chứa hàng. Jikunokagu không hề công khai, nhưng cũng không hề che giấu khi thu gom hàng hóa từ các địa điểm khác nhau. Amalgam dưới đáy biển cho họ biết vị trí các lõi được tạo ra như thế nào? Có phải có lịch trình cố định nào đó không? Thủy triều? Hay có phải các thiết bị trên tàu gửi tín hiệu cho Amalgam?
(Xem ra chuyện đó phải nhờ Eleven kiểm tra rồi.)
Tobias thở dài một hơi rồi nghĩ lại về buổi tiệc chào đón. Alouette, một cô gái nổi bật với nụ cười ngây thơ và bầu không khí bí ẩn, bi thương. Anh không bao giờ có thể nghĩ tới việc một Eleven bình thường có thể trở nên như vậy. Anh cảm thấy tiếc vì đã không thể chụp lại một tấm hình, bởi anh đang làm việc.
(Miễn sao Theo không trở nên kỳ quặc và khó xử…)
Tobias đã từng cố cho Theo hiểu rằng khoái lạc và giải trí cũng là những thứ quan trọng trong cuộc sống, nhưng Theo lúc nào cũng nghiêm túc quá mức và nhìn chung rất tệ trong việc buông thả. Nếu như anh ấy phải lòng Eleven khi đóng giả làm Alouette thì sao? Hay là anh ấy đã xoay sở vạch ra một lằn ranh rõ ràng giữa hai người như một phần nhiệm vụ?
Thắc mắc những điều này vì sở thích cá nhân, Tobias đột ngột dừng lại khi nghe được tiếng hát phát ra từ khoang chứa hàng. Một giọng ca nữ với giai điệu lạ lùng.
Anh lặng lẽ tiếp cận và thấy người bảo vệ mà anh đã gặp lúc chiều, Tarja, đang ngả lưng vào một thùng hàng và hát.
“…Tarja?” anh cất tiếng. “Cô đang làm gì ở đây vậy?”
Giật mình, Tarja liền ngẩng đầu, tay bịt lấy miệng và đứng phắt dậy. “Ừm, đ-đang nghỉ ngơi thôi,” cô ấp úng.
“Trong khoang hàng à? Cô kỳ lạ thật đấy… Bài hát vừa rồi thực sự rất hay. Giống như một khúc hát ru vậy.” Anh bước lại và ngả người cạnh cô.
Tarja lẩm bẩm gì đó với vẻ xấu hổ, nhưng rồi cô ngồi lại xuống. “Bà tôi là một siren. Bà ấy đã luôn hát cho tôi nghe.”
“Hể. Thật tuyệt vời,” Tobias thành thật nói. “Cả tình yêu mà bà dành cho cô và việc cô đã luôn ghi nhớ bài hát đó.”
Cô e thẹn ngước nhìn anh. “Dòng máu chảy bên trong tôi quá yếu, nên tôi sẽ không thể dùng được sức mạnh của siren hay gì cả. Nhưng tôi có được đôi tai của bà. Vậy nên tôi có thể nghe được giọng nói của những thứ được sinh ra từ dưới biển.”
“Ý cô là cá, cá voi và những sinh vật tương tự phải không?”
“Phải đấy. Bất cứ thứ gì được sinh ra từ biển cả. Và ở đây, tôi có thể lắng nghe được đủ các loại âm thanh. Tôi rất thích.” Một nụ cười yên bình hiện lên trên mặt cô khi cô nói với sự chân thành.
Tất cả những gì tai Tobias có thể nghe được là âm thanh ầm ì của động cơ, và thật thú vị khi nghĩ rằng ở đó là một thế giới âm thanh hoàn toàn khác lạ dành cho cô ấy.
“Vậy cô đang nghe được những giọng nói nào?” anh hỏi.
Cô nhìn anh một cách hoài nghi. “Cậu sẽ không cười chứ?”
“Dĩ nhiên là không?”
Cô lưỡng lự rồi nhìn vào chồng thùng hàng mà anh đang ngả người vào. “Có giọng nói phát ra từ trong chiếc thùng đó.”
“Từ trong thùng?” Anh ngoái đầu lại. “Nhưng đây không có vẻ là một bể thủy sinh hay gì cả.”
“Nhỉ? Thật kỳ lạ. Nhưng trong đó chắc chắn có một giọng nói. Âu lo. Nó làm tôi cảm thấy bận tâm.” Tarja đứng dậy và chạm vào một chiếc hộp. “Thùng này này.”
Trông nó giống như một cái tủ làm mát được khóa lại kĩ càng, thế nhưng nó lại nặng đến bất ngờ. Khi anh thử nghiêng hộp, anh có thể cảm nhận được có chất lỏng bên trong đang đảo qua lại.
“…Ở trong đây có nước,” anh nói. “Nhưng không có bơm khí ô-xi hay gì cả. Lạ thật.”
“Dù bên trong có là gì, dường như nó không biết nói. Tôi không biết phải giải thích như thế nào nữa. Giống như đang nói chuyện với một đứa bé vậy. Nhưng về cảm xúc… Tôi có thể cảm nhận được sự lo lắng, hạnh phúc, những thứ tương tự.”
“Vậy cô đang hát ru để xoa dịu nó.” Anh mỉm cười. “Có phải chỉ có một giọng nói thôi không?”
“Thứ đáp lại nhiều nhất nằm bên trong chiếc thùng này. Nhưng có cảm giác là vẫn còn các thùng khác nữa.”
Tobias rút một chiếc máy dò ra, và nó lập tức phát ra tiếng bíp nhỏ, cho thấy nó đang phản ứng với thứ gì đó ở xung quanh.
“Cái gì vậy?” Tarja nhìn anh với sự ngạc nhiên. “Máy dò kim loại à?”
“Kiểu kiểu vậy… Không có vẻ là có gì nguy hiểm. Dù gì đi nữa, Tarja, tôi nghĩ lòng tốt của cô là một thứ tuyệt vời, nhưng đừng thức quá khuya ở đây. Cô không muốn bị buồn ngủ khi làm việc ngày mai đâu.”
“Được rồi.”
Dù câu trả lời của cô có phần hơi cụt lủn, cô không hề khó chịu. Cô ngồi lại xuống trước đống thùng hàng và ngân nga bài hát ru một lần nữa.
Tobias mỉm cười và vẫy tay chào cô trước khi rời khỏi khoang hàng. Máy dò của anh chắc chắn đã phát hiện ra vũ khí phép thuật.
(Mình không biết là loại nào, nhưng dường như có tổng cộng tám tín hiệu. Nếu chúng đến từ Amalgam dưới đáy biển, có lẽ tai của Tarja đang nghe được giọng nói của những mẫu con hoặc gì đó.)
Tobias cảm thấy toàn bộ chuyện này khó mà nuốt trôi ngay được, nhưng dù vậy, anh vẫn báo cáo lại cho Theo và các thành viên còn lại trong đơn vị.
Tour du thuyền: Ngày hai
Nhà hàng Havmonet, nơi mang một tầm nhìn tuyệt đẹp hướng ra biển qua những ô cửa sổ lớn, đang tấp nập những hành khách đến dùng bữa sáng. Theo nhấp một ngụm cà phê đen rồi khẽ nói nhỏ, sao cho giọng anh bị lu mờ bởi âm thanh xung quanh, “Ông ta trông bảnh hơn tôi nghĩ, cái tên Camicia ấy.”
“Ông ta hòa nhập vào xã hội một cách có chủ đích. Ông ta diễn đủ giỏi để che giấu đi bản chất tham lam của mình, và ông ta cũng có nhiều cộng sự nữa. Không ai có chuyện xấu gì về ông ta để nói cả, đến mức khó mà tin được. Được mời biểu diễn tại sự kiện của ông ta dường như chỉ là may mắn, xét thấy mọi người đều đánh giá cao về ông ta như vậy.” Eleven dùng dao múc si-rô lên và phết lên miếng bánh kếp mà cô cẩn thận đưa vào miệng. Cô không để sót một giọt si-rô hay một mẩu bánh kếp trên đĩa, khiến Theo phải mở to mắt đầy kinh ngạc.
“Cô ăn cũng khá giỏi đấy chứ,” anh nói. “Mặc dù lần đó cô còn gặp khó khăn trong việc ăn kem.”
“Em chỉ sao chép lại cách bạn bè của Camicia ăn uống thôi. Có gì lạ lắm sao?”
“Không, đó không phải những gì tôi muốn nói. Ý tôi là cô khá là khéo léo,” anh nhanh chóng trấn an cô. “Camicia lúc nào cũng ở cùng với đồng bạn của mình nhỉ? Có phải ông ta muốn giảm tối thiểu thời gian phải ở một mình không?”
“Các cặp đôi là điều thường thấy trên những chuyến du thuyền như thế này. Không phải ở cùng với bạn sẽ mang vẻ tự nhiên hơn à?”
“…Có thể ông ta muốn trông chừng thật kỹ những người bạn thân cận, đó là lý do vì sao đến giờ chúng ta vẫn chưa nghe được lời nói xấu nào về Jikunokagu,” Theo lẩm bẩm. “Thật lạ khi ông ta quen biết nhiều người như vậy, thế nhưng vẫn không thấy có lời nói xấu nào về ông ta.”
Eleven chấm môi bằng một chiếc khăn giấy và khẽ mỉm cười. “Ngạc nhiên thay, cũng có thể là tất cả mọi người đều đang giả vờ. Giống như thể họ không muốn bất kỳ ai nghĩ rằng mình là những người duy nhất không nhận được phước lành của ông ta vậy. Nếu thấy người ta được trao cho điều ước còn mình thì không, bất kỳ ai cũng sẽ cảm thấy buồn thảm, đúng không?”
“…Chà, có lẽ sĩ diện ảnh hưởng lớn đến điều đó.” Anh gật đầu đồng tình. “Và cũng không ai biết quá nhiều về Đông Akaryaza, vậy nên họ hẳn sẽ không nói ra rằng mình đã mua sản phẩm mà không nhận ra rằng đó là đồ giả.”
Thực chất, những người mang bùa chú và thuốc dân gian từ Jikunokagu đểu kiên quyết nói rằng chúng có hoạt động. Theo đến mức này thì buộc phải tin vào lời của họ, bởi khi trên tàu thì anh hoàn toàn không hề có cách nào để kiểm tra tính xác thực của những lời đó. Nhưng những người nhiệt tình ca ngợi về tính hiệu quả cho anh và Eleven tại buổi tiệc chào mừng có thể đã biết trước rằng mình đã bị lừa.
Thứ làm anh bận tâm lúc này là những chiếc thùng mà Tobias phát hiện ra ở khoang chứa hàng.
“…Có tổng cộng tám tín hiệu. Và chúng ta đã phát hiện ra mười hai người dùng proxy đi lại trên tàu,” Theo nói. “Nhiều hơn những gì tôi dự tính.”
“Mong rằng họ không vi phạm các điều khoản cấm,” Eleven đáp. “Có phản hồi nào từ phía An ninh Hàng hải không?”
“Vẫn chưa.” Anh lắc đầu. “Dòng chảy thủy triều khá phức tạp nên công cuộc điều tra có đôi chút khó khăn.”
Ngay cả khi tạm gác lại vấn đề các mẫu con vẫn đang ngoan ngoãn đóng vai hàng hóa, vẫn còn quá nhiều yếu tố cần phải điều tra.
Họ đang giả định rằng cỗ Amalgam đã bị thu thập từ một chiến trường nào đó và giờ đang lẩn trốn dưới đáy đại dương. Nhưng thông qua Tobias, họ đã biết được rằng một con tàu đáng ngờ đã được phát hiện ở nhiều địa điểm khác nhau, đánh bắt số lượng lớn những thứ trông giống như sứa, nên dường như họ sẽ phải sửa đổi lại những giả định ban đầu đó.
Về cơ bản, Amalgam ưu tiên hiệu suất lên trên hết. Liệu có phải Amalgam này sẽ chủ động đi thu hồi những mẫu con khi chúng đi vào biển, thay vì chỉ ngồi yên dưới đáy đại dương và chuyển hóa tài nguyên thành lõi? Ngay cả khi cỗ Amalgam không thực sự hấp thụ các mẫu được thu hồi, không thể loại trừ khả năng chúng sẽ được tái sử dụng vào lần tiếp theo con tàu thu thập hàng hóa.
“…Tốt nhất nên để yên đáy biển thay vì liều lĩnh xâm phạm,” Theo kết luận. “Hy vọng rằng các drone dò tìm có thể phát hiện được nó.”
“Tàu khu trục Calwell sẽ đến vào chiều nay đúng không?” Eleven hỏi. “Không biết liệu Emma có thể đến kịp không.”
“Cô ấy có nói rằng mình có chuyện cần điều tra. Khá chắc là cô ấy đã kiểm soát được tình hình.” Anh không thể nói chắc được điều gì, bởi họ vẫn chưa nhận được tin tức gì từ Emma. “Cô cứ tập trung vào bản nhạc mình chọn để chơi ngày hôm nay đi. Cô đã quyết định được bài nào chưa?”
Eleven chỉnh lại chiếc khăn buộc tóc, hướng ánh mắt về phía anh và mỉm cười tự tin. “Em có một bài đặc biệt. Anh sẽ phải đợi xem đó sẽ là bài gì.”
“Sao cơ? Ít nhất, tôi hy vọng rằng đó là bài mà mình biết.”
“Chắc chắn rồi.” Nụ cười của cô rạng rỡ hơn. “Em nghĩ nhiều người trong quân đội và những người yêu thích lịch sử sẽ biết bài này.”
“Nếu vậy thì tôi khó có thể chờ đợi được nữa.”
Theo lặng lẽ uống hết phần cà phê còn lại. Cộng sự của anh hôm nay vẫn thật vững vàng. Gần như đáng tin vậy đến quá mức.
■
Trong khi Fanne Nilholm lau nước mắt bằng chiếc khăn tay, Emma cảm ơn bà rất nhiều và rời khỏi căn nhà ở vùng ngoại ô. Cô quay lại xe của mình và xem lại những ghi chú mình đã viết.
Một vài tháng trước khi vị giáo sư qua đời trong đám cháy, ông ấy đã được phỏng vấn nhiều lần bởi một cây viết tự do cho một loạt bài đăng tạp chí. Tên của cây viết đó là Giorgio Santoro. Ông ta đã ngắt liên lạc với mọi người sau khi bài cáo phó của Nilholm được công bố.
(Biên tập viên nói rằng Santoro là một cựu phóng viên chiến trường đã nghỉ việc sau khi bị chấn thương trong quá trình tác nghiệp. Sau đó, ông ta tận dụng những kinh nghiệm và kiến thức độc đáo của mình để được giao cho mảng kỹ thuật phép thuật, nhưng rồi ông ta đột ngột biến mất.)
Khi bắt đầu phụ trách mảng kỹ thuật phép thuật cho tạp chí hàng tháng, Santoro đã đề nghị phỏng vấn với Nilholm bởi học giả này đã quen trong việc tương tác với các phương tiện truyền thông. Theo như Fanne, Santoro đáng lẽ phải đến phỏng vấn vào ngày Nilholm qua đời, thế nhưng ông ta không hề xuất hiện. Đêm hôm đó, bà phải ra ngoài do có việc đột xuất, và khi bà đi vắng, đám cháy bùng lên, Nilholm qua đời.
(Trong quá trình phỏng vấn, Santoro đã xây dựng mối quan hệ với Nilholm. Nhưng có phải giữa họ xảy ra xích mích, nên ông ta đã phóng hỏa để giết tiến sĩ và dàn dựng thành một vụ tai nạn?)
Khi nói chuyện với biên tập viên của ông ta, Emma biết được rằng Giorgio Santoro từng có tiền án tiền sự. Khi còn trẻ, ông ta thường xuyên phải có mặt ở đồn cảnh sát do gây gổ và trộm cắp. Theo hồ sơ quân đội, ông ta từng được cử đi tác nghiệp với các quân đoàn tại vùng chiến sự dưới vai trò một phóng viên quân sự, nhưng rồi ông ta đẩy một quân đoàn vào tình thế nguy hiểm do liên tục cướp bóc, dẫn đến thương vong và rồi cuối cùng bị loại khỏi quân đội.
(Chi tiết nhiệm vụ được giữ bí mật, nhưng mình biết vùng này. Tại đây đã có rất nhiều thiệt hại dù cho việc các Amalgam đã được điều động đến. Điều đó đã làm dấy lên một cuộc tranh cãi lớn về tính hữu dụng của Amalgam.)
Emma nhăn mày và đặt tấm ảnh chụp cận cảnh của Giorgio Santoro và Gino Camicia sát lại gần nhau.
Fanne biết Santoro, nhưng bà ấy chưa từng gặp Camicia. Santoro là một người đàn ông gầy gò với mái tóc trắng toát, da rám nắng và một bộ râu. Camicia cũng có da rám nắng, nhưng thể hình ông ta vạm vỡ hơn, tóc ông ta màu đen, râu ông ta cũng được cắt tỉa đàng hoàng. Màu tóc và các đặc điểm nổi bật thực sự đều khác biệt hoàn toàn. Nhưng phần mắt, mũi và môi lại hoàn toàn trùng khớp.
Tên thời con gái của mẹ Santoro là Camicia. Gino là một cách gọi ngắn gọn của Giorgio. Nếu như ông ta chọn một bí danh được lấy từ tên thật của mình và tên thời con gái của mẹ mình thì sao?
“…Ông ta đã có mặt tại một vùng chiến sự khốc liệt, ông ta chờ đợi một Amalgam bị phá hủy hoàn toàn để có thể lấy được lõi. Nhưng ông ta không biết cách sử dụng nó nên đã tìm đến Tiến sĩ Nilholm, giết người diệt khẩu khi Nilholm nhận thấy ý đồ của mình, đánh cắp nghiên cứu của ông ấy rồi bỏ chạy. Ông ta thực sự là một kẻ khốn nạn.”
Bất bình, Emma quăng điện thoại của mình vào túi đồ rồi lái xe đến Zabahlio.
■
Rocky thở ra từng hơi khói trong phòng hút thuốc, nhưng cánh tay ông khựng lại khi nhìn thấy phụ tá của mình hớt hải chạy lại.
“Tôi đã có được kết quả phân tích cho Điều tra viên Starling,” người phụ tá nói.
“Ừm. Tốt lắm.” Rocky nhận lấy tập tài liệu rồi bảo anh trợ lý đi ra.
Rocky đã tò mò chuyện gì đang xảy ra khi toàn đội Theo đều vắng mặt, nhưng ông vẫn vui lòng khi có thể giúp họ, ngay cả khi không có thi thể nào. Ông đặt tay lên tập tài liệu để mở nó rồi nhìn qua một lượt kết quả phân tích từ trung tâm nghiên cứu Amalgam.
Thông tin di truyền được trích xuất từ lõi của Amalgam được thu hồi trùng khớp với Giorgio Santoro trong cơ sở dữ liệu tội phạm. Trong đó cũng đề cấp tới số sê-ri của Amalgam đang sản xuất các lõi. Dễ thấy rằng nó đã bị đánh cắp từ chiến trường. Kết hợp với kết quả điều tra của Emma, như vậy đã là quá đủ để ban hành lệnh bắt giữ.
“Hừm. Tin tốt cho cậu nhóc đó và đội của cậu ta… À?” Nhìn xuống đoạn dưới cùng của kết quả phân tích, Rocky nhăn mày.
Amalgam được thu hồi đang nhận tín hiệu từ Amalgam nguyên gốc. Tài liệu trước mặt ông cho thấy cơ thể chính đang liên tục ra lệnh cho mẫu con “bảo vệ”. Nhưng vẫn không rõ phải bảo vệ thứ gì và bảo vệ khỏi thứ gì.


Ghi chú
Cục Điều tra Tội phạm -> Cục Điều tra Hình sự
Phòng Điều hành Thám tử -> Tổ Điều tra Chuyên án
Trưởng phòng Paloma -> Tổ trưởng Paloma
Sản phẩm thay thế -> Proxy
0 Bình luận