Phần I: Hạ

Chương 1

Chương 1

Tôi thức dậy sau một tiếng còi cấp cứu vang vọng từ bên ngoài. Thứ duy nhất có thể nhìn thấy rõ là chiếc đồng hồ điện tử phát sáng hiển thị 5 giờ 15 phút. Tôi xoay cổ nhìn quanh. Dù căn phòng khá tối, ánh sáng hắt từ màn hình đồng hồ cũng đủ để tôi nhận ra hình dạng của các đồ vật xung quanh.

Có vẻ tôi đang ở phòng khách, nằm trên chiếc ghế sofa dài khoảng mét rưỡi. Tôi chậm rãi ngồi dậy, tựa lưng vào thành ghế. Một cơn đau bất chợt xuất phát từ cổ, chạy dọc xuống sống lưng. Đau đến mức tôi bật ra tiếng kêu, nhưng giọng phát ra lại khàn đặc, méo mó đến mức chính tôi cũng không nhận ra nổi.

Dù vậy, nhờ cơn đau ấy mà đầu óc tôi tỉnh táo hơn. Những dòng suy nghĩ ùa về, hiện lên liên tục và mãnh liệt, khơi thông tâm trí vốn đang hỗn độn và mơ hồ.

Chuyện quái gì đang xảy ra? Tôi tự vấn bản thân.

Vài giây sau, bộ não tôi như bật ra câu trả lời. Một đoạn ký ức lướt qua, len lỏi giữa màn đêm đặc quánh trong đầu. Tôi thấy mình người ướt sũng, nằm dài trên ghế sofa ở phòng khách, tay cầm cuốn “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” của tác giả Higashino Keigo. Đó là quyển tiểu thuyết mà em trai tôi mượn từ thư viện thành phố.

Nói là “mượn” vậy thôi, chứ thực ra thằng bé chưa từng đặt chân đến thư viện. Nó có một tài khoản thành viên, chi trả đầy đủ để được mượn sách dưới dạng trực tuyến. Khi thấy cuốn sách để ở phòng khách, lại đúng lúc nó đang đi tắm, tôi tò mò mở ra xem thử trang đang được đánh dấu. Ý định ban đầu chỉ là đọc lướt vài dòng cho biết, nhưng câu chuyện về chàng nhạc sĩ trong đó lại cuốn hút tôi đến bất ngờ.

Và rồi, cơn buồn ngủ nặng nề ập đến. Mọi thứ xung quanh dần tối sầm lại, chìm vào khoảng không mơ hồ. Trước khi đoạn ký ức ấy kết thúc, tôi kịp ngẩng lên nhìn đồng hồ: 16 giờ 49 phút. Như vậy, tôi đã ngủ suốt hơn mười hai tiếng đồng hồ.

Cơn buồn ngủ đến gần như không có dấu hiệu báo trước. Nó đến với tôi đường đột, giữa lúc tôi ngồi xem tivi, lúc đang trong một ván cờ, lúc ăn cơm, lúc tôi đang phơi khô người sau khi tắm (như lần này chẳng hạn). Em trai tôi có lẽ đã quá quen với việc đó nên chỉ lặng lẽ kéo tôi vào chỗ nào an toàn rồi lại tiếp tục việc riêng của nó. Nhưng với những người chứng kiến lần đầu, phản ứng thường là hoảng hốt và gọi cấp cứu ngay lập tức.

Tôi vẫn còn nhớ như in buổi dã ngoại năm lớp mười hai. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Một chiếc mặt nạ thở ép sát miệng, hai tay được truyền dịch. Bên ngoài trời đã khuya, phòng bệnh chỉ có cha dượng ngồi thức cạnh giường. Khi ông nhận ra tôi đã tỉnh, ông mỉm cười gượng gạo. Nụ cười đó tôi không thể nào quên, dù biết rõ rằng lúc ấy chính ông cũng đang mang trong mình một căn bệnh nặng, sức khỏe đã suy yếu trầm trọng.

Các bác sĩ đành bó tay, không tìm được nguyên nhân cụ thể. Họ chỉ xác định rằng nhịp tim tôi đột ngột giảm mạnh làm nguồn oxy cung cấp cho não bị gián đoạn dẫn tới việc rơi vào trạng thái tương đương với khi đang ngủ sâu. Tôi xuất viện ngay hôm sau. Bác sĩ khuyên rằng không được đi đâu một mình mà phải luôn có người đi cùng. Một lời dặn mà sau này tôi ít khi tuân thủ.

Tôi vẫn nằm bất động trên ghế cho đến khi cơn đau dọc sống lưng dịu đi hẳn. Rồi tôi từ từ đứng dậy, lần mò đi tìm công tắc đèn trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng. Ngay khi ánh sáng bật lên, không gian tưởng chừng rộng vô tận trong bóng tối đột ngột thu lại thành một khối vuông trắng.

Miệng tôi đang khô khốc và cái bụng thì đói meo. Không chần chừ, tôi đi xuống nhà bếp uống sạch ba chai nước lọc để trong tủ lạnh. Thỏa mãn xong cơn khát, tôi vào phòng tắm rửa mặt. Ngắm nhìn bản thân trong gương, hai má tôi ửng hồng, vỗ nhẹ vào có cảm giác hơi đau. Ngoài điều đó ra thì không có gì đặc biệt thêm. Quay lại phòng bếp, các món hôm qua tôi nấu giờ còn một nửa được cuộn lại bằng giấy bọc thức ăn. Tất nhiên người làm việc đó chỉ có thể là thằng em trai tôi.

Bỏ thức ăn vào lò vi sóng, cắm lại nồi cơm xong xuôi rồi tôi trở lại phòng khách. Đứa em trai nằm ngủ trên ghế sofa nhỏ nằm vuông góc với chiếc tôi nằm (có lẽ vì phòng tối nên tôi không chú ý). Hai chân thằng bé vắt lên thành ghế, chiếc chăn nhỏ màu nâu che đi cơ thể trần như nhộng của nó. Tôi lấy tay thử vỗ nhẹ vào má nhưng thằng bé không phản ứng. Chẳng thể tin được ai có thể ngủ ngon với tư thế như vậy.

Nhặt cuốn sách đọc dở dưới đất lên, tôi bật chiếc đèn ngủ trên bàn gỗ cạnh ghế sofa đang nằm rồi lật đến trang đang đọc dở. Những sự kiện trong tiểu thuyết đã xảy ra cách đây đã gần nửa thế kỷ. Thật khó để hình dung cuộc sống thời đó như thế nào.

Khi đồng hồ vừa điểm 6 giờ, tiếng chuông báo thức từ chiếc đồng hồ đeo tay của em tôi réo lên.  Tới hồi thứ ba, nó ngồi bật dậy vươn vai như một phản xạ tự nhiên.

Thằng bé không nói gì, chỉ ngồi đó gật gù, ngáp lấy ngáp để, hết nghiêng đầu rồi đưa tay gãi lưng. Giống như tôi, tâm trí nó đang trong trạng thái khởi động. Lúc sau thằng bé hướng mặt nhìn tôi vẻ cáu kỉnh, giơ nắm đấm về phía tôi. Cú đấm dứt khoát chỉ tiếc là chưa đủ mạnh để hất được tay tôi ra.

“Anh ngủ tới giờ mới dậy hả? Biết tối qua đã xảy ra bao nhiêu chuyện không?” Em tôi cất giọng, ánh mắt toát lên sát khí ngút trời.

Tôi ngớ người ra, chẳng lẽ mình làm gì làm thằng bé giận?

“Nào, nào. Bình tĩnh. Có chuyện gì qua đây kể anh nghe. Đừng cáu nữa, anh xin lỗi mà.” Nài nỉ mãi, thằng bé mới hạ hỏa, nó chạy sang nằm gối đầu lên đùi tôi. Nó bắt đầu kể:

 “Tối qua lúc 8 giờ, bọn trẻ con khu chung cư gọi em đi đá bóng. Bố mẹ tụi nó mải xem World Cup hết rồi nên chẳng có ai chơi với chúng hết. Bọn em làm một trận tận hai tiếng đồng hồ, cả bọn chơi mệt lả nên cả đám nằm hết trên sân. Đá xong, em bao tiền ăn kem với nước ngọt cho tụi nhóc nữa. Về đến nhà thì cũng gần 11 giờ.”

“Ừm.” Tôi mới nhận ra bộ quần áo vắt trên ghế sofa đối diện là bộ đồ lẽ ra nó phải mặc hôm qua.

“Về nhà, đang tắm rửa thì gió bên ngoài cửa sổ thổi vào mạnh kinh khủng. Em nghĩ kiểu gì cũng sắp mưa nên chạy lên tầng thượng cất quần áo. Định kéo cái ròng rọc nhưng khổ nỗi nó cao quá không với tới được.”

Kể cả với tới cái nắm tay thì cũng không có sức để kéo đâu, đồ ngốc. Tôi nghĩ thầm.

“Thế là em lấy gậy chọc hết đống quần áo rơi xuống, vừa kịp nhặt hết thì bắt đầu mưa. Còn mấy cái cửa sổ nữa, em phải chạy tới chạy lui mới đóng kín tất cả đó. Mệt lắm anh biết không?”

“Chà, em cũng kinh đấy.” Tôi gãi đầu. Có vẻ như tình hình mười hai tiếng qua cũng khá đáng quan ngại. Nếu như ở một mình thì giờ này tôi sẽ có thêm cả đống chuyện phát sinh. “Mà thôi giờ ra ăn sáng cái đã. Anh hấp lại thức ăn rồi.”

“Ứ... ừ... Không muốn đâu!” Thằng bé nằm giãy giụa kêu toáng lên. “Cho ngủ thêm tiếng nữa đi mà anh. Cả người em vẫn đang uể oải đây này.”

“Làm gì có thời gian mà uể với chả oải!” Tôi hắng giọng. “Rồi biết tại sao em đặt báo thức lúc 6 giờ không?”

Thằng bé nín thinh. Nó nhìn đồng hồ đeo tay, khuôn mặt lộ rõ vẻ hoảng hốt.

“Ôi chết rồi! Mình hẹn với Lan Anh rồi cơ mà.”

Thằng bé nhảy phăng ra khỏi người tôi. Nó chạy thẳng vào phòng vệ sinh.

“Ê, mặc quần áo vào đã!” Tất nhiên nó chẳng thèm nghe.

Chỉ có ngồi dậy vươn vai mà các khớp của tôi đã kêu lạch cạch, quả nhiên lời khuyên vận động sau ba mươi phút của bác sĩ không hề sai. Tôi vào phòng ngủ, lấy trong tủ chiếc áo phông trắng in hình nhà thờ thánh Basil và chiếc quần thể dục từ hồi học đại học. Dù sao thì đây là bộ duy nhất còn lại trong tủ lúc này.

Bỗng chiếc điện thoại của tôi đang để trên bàn học rung lên. Số trên máy là của chủ cho thuê nhà. Tôi thấy làm lạ. Rốt cuộc có việc gì mà họ phải gọi vào giờ này? Đến hồi chuông thứ năm, tôi nhấc máy:

“Vâng, alo?”

“Alo. Đây có phải số máy của cậu Phong thuê căn hộ ở Việt Hưng, Long Biên?” Giọng nói khàn đặc của một người đàn ông từ bên kia đầu dây.

“À vâng, chính là cháu.” Tôi đáp.

“Xin lỗi vì đã gọi cậu vào giờ này. Tôi có chuyện muốn hỏi, nếu cậu không thấy phiền.”

“Dạ không sao, chú cứ hỏi.”

“Mới sáng sớm nay có vài cuộc gọi của khách cho thuê khu bên cậu thông báo rằng nhà cửa bị hư hại đáng kể cần sửa chữa gấp. Nghe bảo là do cơn mưa giông tối qua. Không biết nhà cậu thế nào?”

“Giờ cháu mới ngủ dậy, còn chưa xem cả điện thoại nữa.”

“Ồ, vậy sao? Thế giờ cậu thử nhìn ra ngoài cửa sổ xem tình hình thế nào? Tôi sẽ đợi.”

Tôi để máy điện thoại xuống bàn mở loa ngoài, tôi trèo lên giường mở rèm ra thì thấy chú chim đang gắp vài cành lá trong miệng. Nó nhìn tôi thoáng chốc rồi bay đi, nước bắn tung tóe lên cửa kính. Tôi quan sát bên ngoài, cửa sổ tầng ba hướng ra ngoài đường và cạnh một khu chung cư cao tầng. Một cảnh tượng xác xơ. Lá bàng, hoa phượng, bằng lăng rơi lả tả trên đường. Chín trên mười cái cây trong tầm mắt bị gió quất cho vặn vẹo đến mức không nhận ra được nó đã từng thẳng ra sao. Vài người tụ tập xung quanh một biển quảng cáo rơi từ trên chung cư xuống. Những công nhân thoát nước đang hút nước lên tại một nơi bị ngập. Có vẻ trận mưa hôm qua không bình thường chút nào, chỉ cần nghe về mức độ thiệt hại thôi chắc sẽ có ai đó nghĩ một cơn bão vừa quét qua đây.

“Sao rồi cậu, ngoài ban công tầng ba nhìn sang có cây lim to đấy. Không biết nó có gãy cành nào đổ xuống đó không?” Giọng chủ thuê nhà vốn đã khàn đặc giờ nghe qua điện thoại lại càng khàn đặc hơn.

Tôi ngó ra cửa ngoài ban công. Cửa tất nhiên là đóng, do nằm ở phía đông nên có ánh sáng mặt trời rọi từ cửa chớp vào. Có vẻ như bên ngoài vẫn ổn.

“Cháu chỉ thấy lá rơi vào thôi chú.” Tôi nói dối.

“Ồ vậy sao.” Giọng ông tỏ vẻ tiếc nuối. “À, hay cậu thử lên tầng thượng xem, gió giật có thể làm vỡ cửa kính đó.”

Bất đắc dĩ, tôi phải lên sân thượng kiểm tra. Đúng như ông ta dự đoán, có nước chảy tràn xuống bậc cầu thang dẫn lên tầng thượng. Dù chiếc cửa sắt ra sân thượng đã được đóng chặt, nước vẫn len lỏi qua khe cửa mà trào ra ngoài. Bên cạnh là chiếc xô đựng quần áo phơi, đặt trên một cái ghế nhựa màu xanh cao hơn mét. Chắc hẳn em tôi đã dùng nó để trèo lên lấy quần áo vào tối qua.

Tôi mở cánh cửa. Trên sân thượng, những vũng nước nhỏ vẫn còn vương lại, có vẻ phần lớn đã rút hết qua ống thoát nước. Cánh cửa sổ vẫn còn nguyên vẹn, may mà lần này em tôi không quên đóng lại. Thằng bé thường xuyên đãng trí trong việc nhà. Nhưng điều đó giờ không còn quan trọng nữa.

Thứ đáng lo hơn là một mảng tôn lợp mái đã bị gió bứt tung và cuốn đi đâu mất. Nó đủ to để đè chết ai đó nếu chẳng may rơi xuống. Một cảm giác lạnh sống lưng chạy dọc theo gáy tôi.

“Tình hình thế nào?”

“Có vẻ như mái tầng thượng bị tốc mất cả mảng rồi chú.”

“Ái chà, tệ đấy, tệ đấy.” Tôi có thể tưởng tượng ra nụ cười mãn nguyện của ông ta. “Đừng lo, tôi sẽ gọi người qua kiểm tra tình hình.”

“Dạ vâng, một tuần kể từ hôm nay cháu sẽ không có nhà. Tháng trước cháu đã thông báo rồi.”

“Tôi biết rồi. Cứ đi vui vẻ nhé.” Người đàn ông tắt máy sau đó.

Tôi vác xô quần áo xuống tầng ba, bước vào căn phòng đối diện phòng ngủ. Đó là nhà kho, nơi tôi cất giữ những món đồ ít khi dùng tới, trong đó có chiếc bàn ủi. Tôi cắm điện, đợi bàn ủi nóng rồi bắt đầu công việc. Tổng cộng có mười bộ quần áo, tương ứng với ba ngày giặt một lần. Ủi xong, tôi treo từng bộ lên móc, cẩn thận đưa vào tủ. Công việc tẻ nhạt nhưng lại mang đến chút cảm giác gọn gàng dễ chịu.

Tôi quay lại phòng bếp, mâm cơm chỉ còn một bát cơm và đôi đũa. Có vẻ em tôi đã ăn xong và quay lại phòng khách. Tôi hoàn thành bữa ăn của mình rồi rửa bát. Nhận ra bản thân mình đã bốc mùi dù chẳng làm gì nên tôi đi tắm luôn.

  Trong lúc ngồi đợi nước dâng tôi lấy chiếc điện thoại ra xem. Đồng hồ trên điện thoại hiển thị 6 giờ 35 phút, tôi lên mạng lướt xem bản tin mới nhất.

[Các địa phương khẩn trương chuẩn bị cho ngày thương binh liệt sĩ; Thị trường chứng khoán trước giờ mở cửa: tác động của việc FED hạ lãi suất; Diễn biến World Cup: Bảng đấu tử thần xuất hiện khi mỗi đội đều có 3 điểm; Dự báo thời tiết: Bão số 3 áp sát đảo Đài Loan, miền Bắc tiếp tục nắng nóng, miền Nam có mưa lớn trong những ngày tới...]

Tôi tìm mỏi mắt nhưng vẫn không thấy báo nào đề cập tới trận mưa hôm qua. Thật kỳ lạ, chẳng lẽ không ai quan tâm tới sự kiện này?

Cảm thấy chán, tôi cất điện thoại, cởi quần áo treo lên móc cửa rồi bước vào bồn tắm. Nằm xuống, tôi ngả người ra phía sau, mắt hướng lên trần nhà. Ánh mặt trời chiếu qua khe cửa chớp, hắt những vệt sáng loang lổ lên bức tường đối diện, khiến căn phòng như được rọi lên một lớp bụi vàng nhạt. Trần nhà đã bong tróc vài mảng sơn, các vệt mốc xanh đen dày đặc ở bốn góc, loang như rễ cây ăn sâu vào lớp vôi cũ. Tôi chợt nghĩ đến việc sẽ quét lại trần nhà bằng bộ dụng cụ trong kho nhưng rồi lại thôi. Nước nóng làm tay chân tôi mềm nhũn. Tôi nhắm mắt, chân phải vắt lên thành bồn, mặc cho dòng nước bao bọc toàn thân. Mọi suy nghĩ dần trở nên mơ hồ, như tan ra giữa làn hơi ấm.

Lúc mở mắt, căn phòng đã tối hẳn. Những tia nắng sớm đã biến mất từ lúc nào, thay vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ khi mặt trời lên cao. Nước trong bồn đã nguội đi nhiều, đủ để khiến tôi rùng mình. Hẳn tôi đã ngủ khá lâu. Tôi cố bước ra khỏi bồn tắm, cơ thể nặng nề một cách lạ lùng sau thời gian dài ngâm nước. Chân phải, tay phải rồi đến tay trái, chân trái. Mọi cử động đều trở nên nặng nhọc. Tôi nằm xuống sàn thêm một lúc, đợi cơ thể quen với nhiệt độ xung quanh rồi mới gắng sức đứng dậy.

Ra khỏi phòng tắm với chiếc điện thoại và bộ quần áo trên tay, tôi bước từng bước chậm chạp hướng về phòng khách. Em tôi đang chăm chú đọc tiểu thuyết trên ghế sofa. Hai chân nó ngồi khoanh lại, cuốn sách được đặt lên đùi vừa tầm mắt. Một khi đã đọc, dường như thằng bé chẳng mảy may quan tâm đến mọi thứ xung quanh.

Tôi lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế sofa đối diện vắt quần áo ra đằng sau rồi mở điện thoại. Một thông báo từ trang tin tức, vừa mới đọc xong tiêu đề tôi giật mình thoáng chốc rồi truy cập vào xem ngay. Tiêu đề bài báo được ghi bằng phông chữ Arial:

[Long Biên, Hà Nội: Mưa Giông Lớn Bất Thường, Một Người bị Thiệt Mạng

Theo trạm khí tượng địa phương, từ 22 giờ ngày 21/7 đến 3 giờ ngày 22/7 toàn quận Long Biên và vùng phụ cận ghi nhận lượng mưa lên tới 100mm. Đây là lượng mưa lớn kỷ lục được xác lập kể từ lần đầu tiên đo đạc vào năm 2003. Cơn mưa lớn đã gây ngập nhiều tuyến phố, gây khó khăn cho các phương tiện tham gia giao thông. Cụ thể, người dân sinh sống các tuyến đường lớn như: Ngọc Lâm, Hoàng Như Tiếp, Hà Huy Tập phản ánh nước đã ngập cả vào tầng 1, các cửa hàng buôn bán đã chuyển hàng hóa lên trên tầng cao hơn. Các chuyến tàu điện chạy trong và ngoài thành phố đều dừng hoạt động để đến 4 giờ nhằm đảm bảo an toàn đường điện. Ghi nhận từ các ga: Gia Thụy, Ngọc Lâm, Long Biên hàng dài người mệt mỏi chờ đợi thông tin mới, thậm chí đã có người nằm ngủ trên các ghế ngồi trong ga tàu.

Mưa đi kèm với gió to đã quật đổ nhiều cây xanh. Tính đến 5 giờ sáng, đã có 45 vụ về cây đổ được báo cáo qua đường dây nóng hỗ trợ thiên tai. Đặc biệt, vụ việc cây đổ ở khu đô thị Việt Hưng đã cướp đi sinh mạng một tài xế taxi. Ghi nhận của camera tại hiện trường, một tấm biển quảng cáo đã rơi trúng đầu chiếc xe đang đậu cạnh điểm đỗ ô tô. Tài xế đã thiệt mạng khi đang được đưa đi cấp cứu.

                                                                                                                     TTXVN/Báo Tin tức]

Bên dưới bài đăng là hình ảnh chiếc xe bị phá nát, chiếc biển quảng cáo cắm xuyên lớp kính chắn xe. Tôi giật mình nhận ra đó là tấm biển đã thấy lúc mới đây và tiếng xe cấp cứu khiến tôi thức dậy đó là khi nạn nhân đã được chở đi.  

Xem thêm vài mẩu tin nữa, tôi cất điện thoại để lên chiếc máy sạc pin. Tôi đưa mắt lên chiếc đồng hồ điện từ đã điểm gần 7 giờ 15 phút rồi nhìn về hướng về bộ quần áo của thằng bé vẫn nằm yên vị trí khiến tôi không khỏi ngán ngẩm. Dù vậy, việc hét vào mặt thằng bé cũng sẽ chẳng giải quyết được gì ngoài việc làm cả hai phát bực. Tôi đứng dậy tiến qua ngồi bên cạnh, vỗ nhẹ lên má nó:

“Anh ăn xong rồi, giờ ta bắt đầu khởi hành được chưa?”

Em trai quay sang nhìn tôi ngẩn tò te, có vẻ như tâm trí vẫn đang đắm chìm trong trang sách.

“A!” Thằng bé thở hắt một cái. “Lúc nãy chị Huệ vừa gọi cho em. Chị bảo hôm nay quán chưa mở cửa nên hãy đến muộn hơn nửa tiếng. Với cả chị nói muốn gặp riêng anh.”

“Ồ thế sao? Chị ấy gọi lúc nào thế?”

“6 giờ 20 phút.” Thằng bé nói sau khi kiểm tra lại lịch sử gọi.

Tôi gật đầu. Lúc đó tôi đang trong cuộc gọi với chủ thuê nhà dĩ nhiên máy điện thoại không thể nhận cuộc gọi từ chị Huệ được. Toan định đứng dậy thì em trai lại kéo tôi xuống.

“Chờ chút!” Thằng bé giơ cuốn tiểu thuyết lên. “Có phải anh đọc sách của em không? Có mấy chục trang bị nhàu xoăn cả ra đây này.”

“Anh xin lỗi vì không nói cho em biết. Lúc đầu anh định tò mò đọc mấy trang thôi nhưng đâu ngờ lại đọc hết cả một chương.”

“Hừm!” Thằng bé bĩu môi. “Có thật không đó, hay anh chỉ đọc lướt cho qua thôi?”

“Anh nói thật mà. Dù bối cảnh truyện có hơi xa xăm nhưng nội dung anh vẫn nắm được ý tứ.”

Thằng bé thở dài. “Em chỉ nhắc anh nên cẩn thận trong lúc lật trang. Cuốn này có chữ ký tác giả đấy. Bên thư viện mà làm gắt thì cũng mệt lắm.”

“Ờ, anh sẽ lưu ý.”

“Anh cũng nên ngồi yên một chỗ luôn được không. Giờ còn việc gì nữa đâu?”

Em tôi nói đúng, mọi thứ để chuẩn bị đã xong cả rồi. Những việc xảy ra từ tối qua tới giờ cũng không thể giải quyết một sớm một chiều.

Thấy tôi gật gù đồng ý, nó nhổm dậy thay đổi tư thế sang tựa lưng vào người tôi. Nó không quên đưa cuốn sách đủ gần để tôi có thể đọc. Và hai mươi phút sau đó, chúng tôi không nói gì cả, chỉ có tiếng chim chóc bên ngoài đang hót líu lo. Khi tôi thấy chữ “END” cũng là lúc thằng bé đóng bụp cuốn sách lại. Em tôi ngồi dậy vươn vai hít một hơi thật sâu, cả cơ thể trắng trẻo của nó được tắm trong ánh sáng ngày mới.

“Giờ chúng ta qua nhà Lan Anh thôi nhỉ?”

“Ờ, đi.”

                                                                        ***

Tôi đậu xe trước một cửa hàng trong con ngõ của con đường không nhớ tên. Trái ngược với sự tấp nập vội vã ngoài kia, thời gian gần như không trôi ở chốn này. Một tốp người chạy bộ dàn hàng ngang mặc bộ đồ thể dục, đầu đội mũ lưỡi trai, tay đeo đồng hồ thông minh thi thoảng lại đưa lên nhìn xem quãng đường bản thân đã đi. Một bà mẹ trẻ đang cho con đi hóng gió, một tay đẩy chiếc xe nôi và tay còn lại phe phẩy chiếc quạt cho đứa trẻ đang ngủ lim dim nằm bên trong, bản thân bà mẹ đang mồ hôi nhễ nhại nhưng vẫn cố gắng đẩy chiếc xe lên vỉa hè tiến vào trong con ngách nhỏ gần đó. Một cụ ông trên tay cầm túi mẩu bánh mì rắc dưới đất cho một đàn bồ câu tới ăn, tiếng động từ chiếc xe đi qua khiến chúng bay đi một đoạn rồi lại trở về chỗ cũ.

Tấm bảng tên cửa hàng khuất sau tán cây hoa giấy rậm rạp, những bông hoa nhỏ li ti đung đưa theo gió như đang che giấu một bí mật. Trên đó ghi dòng chữ: MÈO QUÁN. Chữ “O” được thay thế bằng hình ảnh một chú mèo đen đang cuộn tròn ngủ, đầu hơi chếch lên, đó là biểu tượng của quán. Nếu không có tấm biển ấy, hẳn chẳng ai phân biệt nổi đâu là quán cà phê, đâu là một căn nhà dân bình thường.

Từ một góc khuất nào đó, một chú mèo đen bước ra, lặng lẽ quan sát chúng tôi. Em trai tôi liền nhảy tót từ trên xe xuống, chạy lại gần. Chú mèo cũng tiến về phía nó, ngửi nhẹ bàn chân thằng bé rồi đi một vòng quanh chân như muốn nói: “À, chào người quen. Lâu rồi không gặp.” Sau đó, chú nhẹ nhàng nhảy lên chiếc ghế gỗ gần đó, nơi ánh nắng đang chiếu xiên qua cửa sổ, và cuộn tròn lại sưởi ấm.

Kể từ lần đầu tôi gặp chú chưa từng kêu một tiếng nào. Chú giao tiếp với con người qua các tiếp xúc cơ thể và đồ vật xung quanh. Mèo ta hiếm khi rời khỏi quán, hầu như chỉ nằm yên ở chiếc bàn nào đó ngủ nướng tới hết ngày. Có lẽ đó là lý do chú sống lâu vậy.

Tôi để xe sát tường rồi khóa bánh sau và không quên bật chế độ chống trộm. Xách chiếc vali quay lại, em trai tôi đã biến mất, con mèo vẫn nằm đó mắt hướng ra ngoài đường. Khoảng tầm này lẽ ra quán đang tấp nập khách nhưng đến cả bóng người cũng không thấy. Tôi để ý đến tấm biển đặt ở cửa ra vào, một tấm gỗ nâu ghi dòng chữ “đóng cửa” màu trắng. Nếu như đã không mở cửa thì tại sao vẫn bày bàn ghế ra ngoài? Một câu hỏi hiện lên trong đầu tôi. Muốn biết chuyện gì phải hỏi người nắm giữ câu trả lời.

Tôi thử đẩy chiếc cửa gỗ, nó không khóa nên tôi cứ thế bước vào. Mùi của quế phảng phất trong không khí. Quán khá là tối chỉ có ánh sáng từ cửa ra vào rọi vào qua khe hở cửa kính lớn bị phủ sau lớp rèm mỏng nhung hồng. Bốn bức tường sơn trắng trang trí thêm lớp giấy dán tường giả gạch. Đếm qua quán có khoảng mười bộ bàn ghế tính thêm hai bộ bên ngoài tổng cộng tất cả là mười hai, tất cả đều làm từ chất liệu mây tre.

Tại bàn cuối cùng góc bên trái, em trai tôi chăm chú nhìn vào bàn cờ vua tay chống cằm hơi nghiêng về sang phải. Ngồi đối diện là một cô gái cũng đang ngồi suy nghĩ. Cô diện trên mình bộ váy ngắn trăng tinh, đôi chân trần vắt chéo nhau. Cô bé đó là Lan Anh. Đi về hướng hai đứa trẻ, tôi không may va mạnh vào chiếc ghế khiến nó đổ ra sau nhưng dường như hai đứa không hề mảy may để tâm. Tôi dừng lại ở bàn bên cạnh đứng xem. Trên bàn cờ, hầu hết các quân cờ vẫn chưa rời khỏi vị trí ban đầu chỉ có hai con tốt đang cánh vua là đang đối đầu nhau. Chà, chúng nó lại sắp chơi Gambit Vua rồi. Tôi khẽ phì cười, đợi tụi nó nghĩ xem nên đi nước tiếp theo là gì quả thật không đáng để mất thời gian.

Tôi lặng lẽ rời khỏi bàn, đặt chiếc vali ở sau quầy rồi hướng về cánh cửa gỗ đang khẽ mở phía sau quầy pha chế. Đi theo con đường trong trí nhớ, tôi dừng lại trong căn phòng giống như nhà bếp. Một người phụ nữ mặc áo thun ngắn màu đen hở bụng với chiếc quần jean ngắn bó sát tô thêm đường cong duyên dáng cho vòng ba. Tay cầm quai ấm nhấc lên đổ vào chiếc tách sứ đã có sẵn bột cà phê. Khi rót đầy miệng tách, chị ta đặt ấm về chỗ cũ rồi đưa tay lấy cái thìa từ tách sứ bên cạnh khuấy đều. Người phụ nữ hơn ba mươi đó là chị họ của Lan Anh, tên là Bích Huệ.

“Ồ cậu đến rồi à, Phong?” Câu hỏi của chị như xác nhận sự hiện diện của tôi trong căn phòng. “Tôi nghĩ phải muộn hơn nữa cơ. Em cậu bảo khu Long Biên có cơn dông làm cây cối đổ nhiều lắm.”

  Chị Huệ mang hai tách cà phê ra bàn, chúng tôi cùng kéo chiếc ghế ngồi về hướng đối diện nhau.

“À, cái đó không đáng kể đâu chị. Em nghĩ mình đến sớm hơn nếu không có vụ tắc đường ở trên cầu Chương Dương.” Tôi không nói vụ tốc mái tôn đi vì không thấy nhất thiết phải kể với chị ta. 

“Ồ thật sao. Hiếm khi thấy ai nói Hà Nội tắc đường.” Chị lấy trong túi áo ra một bao Thăng Long, ngậm một điếu, rồi dùng chiếc bật lửa để sẵn trên bàn châm lửa.

“Mà kệ đi, hôm nay tôi định mở quán muộn vì cậu bồi bàn mới gọi điện xin đến vào buổi trưa. Chúng ta có khối thời gian.”

“Vậy, chị có chuyện gì muốn hỏi em?” Tôi hỏi, tiện thể uống một ngụm cà phê nóng. Hương vị thật đậm đà, quả nhiên xứng đáng mang danh cà phê thế kỷ, cà phê Trung Nguyên.

“Ừ ha, nói chuyện gì nhỉ?” chị ta nói, ngước mắt nhìn lên ngẫm nghĩ, hoặc làm bộ như đang ngẫm nghĩ. Rốt cuộc là loại nào, tôi cũng không rõ nữa. Trong lời nói và cử chỉ của chị đều thật khó đoán. “Một chuyện rất quan trọng và một chuyện không quan trọng. Cậu muốn nghe cái nào?”

“Thế thì chuyện không quan trọng trước nhé chị, dù sao thì em muốn uống tiếp tách thứ hai.”

“Rất thông minh.” Chị cười. “Từ lúc nghỉ hè tới giờ Lan Anh đi ra ngoài suốt. Hình như chuẩn bị diễn ra giải cờ vua nào đó đúng không? Con bé này còn đi đâu ngoài chỗ câu lạc bộ cờ vua chứ. Nó đi từ sáng sớm đến chiều muộn về, chẳng nói một câu nào. Cậu thấy xem có bực không?”

Tôi lấy thìa khuấy cà phê cho đến khi nó sủi bọt trắng rồi đưa lên miệng uống trong vô thức. Rất nhiều câu hỏi hiện lên trong đầu.

“Đúng như chị nói, chỗ em định cho hai đứa đi nghỉ mát sắp tới sẽ giải đấu giao hữu cọ xát giữa các câu lạc bộ cờ vua lớn ở miền Bắc. Cả hai đứa đã đăng ký giải này từ đầu tháng 6 rồi.”

Chị “ừm” một tiếng, rồi phà ra hơi thuốc vẻ khá thích thú. “Chà, một dịp tốt để kiếm tiền tiêu vặt.”

“Em nghĩ vậy.” Tôi gật đầu đồng tình. “Dù giải nhất chỉ có mười triệu, nhưng số tiền vẫn được coi là lớn với một đứa học sinh.”

“Nó bằng với ba tháng làm thêm tạp vụ thời tôi còn là sinh viên.” Chị ta cười khẩy. “Nếu đã đăng ký từ tháng sáu rồi thì có lẽ giải sắp bắt đầu rồi nhỉ? Mà giải tổ chức ở đâu thế?”

“Nhà thi đấu Song Mai, thành phố Bắc Giang. Ngày mai sẽ bắt đầu khởi tranh.”

“Bắc Giang à.” Chị ngừng một chút rồi nói tiếp. “Như vậy phải đi hai chuyến tàu điện sau đó có thể gọi xe taxi ở ngoài ga chở đến nơi.”

“À, em đi xe moto đi cơ chị. Sẽ mất hơn ba mươi phút nếu như không nghỉ chân giữa đường.”

“Cậu vẫn đi cái xe đó sao? Chưa định mua ô tô à?” Chị ta tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Ý chị là sao?”

“Không có ý gì đâu nhưng mà sắm chiếc ô tô là điều không khó đối với cậu mà.”

“Chiếc moto này là phần thưởng của nhà tài trợ, được bảo hành linh kiện tận nơi sản xuất thì sao em không dùng. Ngoài ra đây là loại mô tô có gắn thùng bên, giá trị của cũng đáng giá bằng món đồ cổ đem đấu giá.”

“Thôi kệ, sắp tới tôi định sửa lại gara nên lần này cậu vác cái thùng về nhé.”

“Buổi chiều em sẽ mang nó đi.”

Sau đó chúng tôi không nói gì, chỉ ngồi đó uống cà phê. Thứ âm thanh chủ đạo giờ là tiếng quạt cây kêu phành phạch theo nhịp và tiếng lũ muỗi vo ve từ đâu đó bay ngang qua tai. Tôi vừa uống vừa ngồi quan sát căn bếp. Những tia sáng từ ô cửa sổ phòng bên hắt vào lộ rõ những hạt bụi lơ lửng trong không trung. Mùi khói thuốc lá ám trong không khí vì thiếu lỗ thông hơi. Sàn nhà gần như không có viên lát nào nguyên vẹn, những viên mất tới ba phần mảnh được thay thế bằng lớp xi măng tự trát.

Đang suy nghĩ đăm chiêu thì cả thuốc lẫn cà phê đã hết. Chị ta tặc lưỡi, vứt mẩu thuốc lá vào gạt tàn vào tách rồi đứng dậy. Thay vì rót cà phê, chị lại đi vào phòng bên cạnh lấy ra tập tài liệu được bọc bên ngoài cẩn thận bên trên không ghi gì.

“Đừng mở ra vội.” Chị ta nói đặt tập tài liệu lên bàn rồi hỏi tôi muốn uống thêm không, tôi gật đầu. Lấy sau cà phê chị quay lại bàn, không quên châm thêm một điếu thuốc.

“Cái gì bên trong đây chị.” Tôi cầm tập tài liệu xoay các mặt. Quả nhiên chẳng có chữ trên đó.

“Nội dung gì không quan trọng. Chỉ cần cậu ký vào giấy bên trong là được.”

“Dạ?”

“Nghe này, tôi đang nói tới chuyện quan trọng đó. Người như cậu không biết ý tứ gì hết.”

Tôi gật đầu. Chị ta ngả lưng ra sau, hút một hơi dài rồi nhả ra. Chị nhìn lên trần nhà màu trắng hồi lâu như đang chuẩn bị nói ra thứ quan trọng nhất trong đời. Bầu không khí thật ngột ngạt, căng thẳng. Đến cả tôi cũng không dám động tới tách cà phê.

“Về chuyện con Lan Anh. Đầu tháng này tòa đã ra quyết định hủy bỏ quyền giám hộ của mẹ tôi với Lan Anh, trước mắt là như thế vì bà ta sẽ kháng cáo việc bồi thường thiệt hại. Tôi đề xuất bên họ chỉ định cậu làm người giám hộ cho con bé. Bên đó cũng dễ dàng thôi miễn sao cậu ký vào tờ giấy kia là được, người ta cũng đã hỏi Lan Anh và nó đã đồng ý.”

Tôi nâng tách uống cà phê chậm rãi như để từ từ tiếp nhận lời nói của chị ta. Có những thứ tôi đã băn khoăn bấy lâu. Tôi muốn kể cho chị ta những chuyện đó một cách ngọn ngành nhưng bây giờ điều đó không còn quan trọng nữa. Tôi ngồi lì đó, mặt vờ như tỏ vẻ đăm chiêu, thi thoảng lại uống cà phê một cách chậm rãi. Chị ta nhìn tôi, không biểu lộ cảm xúc gì ra ngoài. Cũng như tôi, chị ta hút thuốc cho tới khi còn mẩu ngắn tũn rồi lại lấy cái mới. Một sự kiên nhẫn phi thường. Khi tách cà phê đã hết, rốt cuộc tôi cũng phải nói gì đó. Giống như chị ta lúc trước, tôi lấy một hơi thật sâu trước khi thở ra, ngồi thẳng, đặt hai tay lên bàn.

“Nếu đó là mong muốn của con bé, em cũng không có gì để từ chối.”

Tôi mở chiếc túi đựng tài liệu, vờ như đọc những gì ghi trên đó rồi lấy bút ký.

“Cảm ơn cậu.” Khuôn mặt chị ta giãn ra không căng cứng như trước, bộ ngực xệ xuống thấy rõ, cảm giác như vừa già thêm mấy tuổi.

“Lan Anh năm sau thi cấp III rồi. Em không muốn con bé bị ảnh hưởng vì việc này.”

“Mong là như vậy. À, có phải đứa em trai của cậu cũng bằng tuổi con bé đúng không?”

“Thằng bé học tại gia, giống như em hồi trước. Em vẫn đăng ký thằng bé vào ngôi trường học liên cấp dạy từ xa trước đây em từng theo.”

“Mà cũng phải, nhìn thằng bé giống đứa tám tuổi hơn là một đứa học lớp tám. Ai mà...” Chị ta bỏ lửng câu nói. Một cơn gió nhẹ thổi từ hướng cửa sổ làm tàn thuốc lá trên tay rơi xuống tách cà phê. Chị ta tặc lưỡi, đem đổ tách cà phê vào bồn.

“Phiền cậu ra ngoài trông chừng quán giùm một lúc. Tôi chuẩn bị hai đứa kia sữa mật ong.”

Tôi gật đầu, đứng lên cất gọn ghế, dạo bước ra khỏi căn bếp. Quay trở lại quán, không gian vẫn u tối và mùi quế vẫn phảng phất đâu đây. Không gian quán và căn bếp như hai thế giới khác nhau ngăn cách qua cánh cửa ra vào.

Hai đứa vẫn ngồi đối diện nhau, mắt dán vào bàn cờ. Tôi lại gần quan sát, ván đấu đã bước vào thế tàn cuộc. Bên trắng có một tốt thông chuẩn bị phong cấp, được bảo vệ bởi quân tượng cùng màu. Phía đen còn lại một quân xe, đang cố gắng chặn đường tiến của con tốt kia.

Thoạt nhìn, có thể thấy rõ đây là một ván cờ hòa. Tượng trắng và xe đen đều bị buộc phải giữ vị trí quanh con tốt. Các quân tốt còn lại của hai bên thì giằng co, đứng yên ở thế đối đầu. Còn hai quân vua thì chỉ quanh quẩn di chuyển trong phạm vi hẹp, không thể làm thay đổi cục diện.

Tôi ngước mắt lên quan sát hai đứa trẻ. Lan Anh trông rõ ràng đang căng thẳng, tay cầm quân hậu đen gõ nhẹ xuống mặt bàn theo nhịp vô thức. Ánh mắt con bé lướt hết một lượt qua bàn cờ rồi dừng lại ở chiếc đồng hồ đang đếm ngược: 2 phút cho trắng và 10 phút cho đen. Đến lượt trắng đi.

Con bé đẩy vua lên một ô rồi bấm đồng hồ. Không đầy 5 giây sau, em trai tôi cũng đẩy vua lên đáp trả và bấm đồng hồ dứt khoát không kém. Nó đang áp dụng lối chơi ép thời gian buộc đối thủ vào thế phải tự mắc sai lầm. Một chiến thuật quen thuộc, cũng là con dao hai lưỡi. Cách chơi này đánh đổi độ chính xác lấy áp lực thời gian, hiệu quả nhưng là một thói xấu khó bỏ. Cứ thế, hai bên luân phiên di chuyển vua, cho đến khi đồng hồ vang lên báo hiệu ván cờ hòa do không bên nào còn đủ quân để chiếu bí.

Lan Anh ngả người ra sau, tay vắt lên trán, hít vào một hơi thật sâu rồi thở ra, mệt mỏi như thể vừa trải qua một trận chiến dài ngày. Mái tóc dài ngang vai của con bé hất ngược ra sau, để lộ đôi tai nhỏ ửng hồng. Phải mất một lúc, Lan Anh mới ngồi thẳng trở lại. Con bé vỗ nhẹ hai bàn tay lên má rồi xoa dọc sống mũi, như để kéo lại chút tỉnh táo sau màn đấu trí căng thẳng vừa rồi.

“Đánh từ nãy tới giờ không thắng được trận nào cả, chán quá trời chán.”

“Cậu chơi kiểu đó mai mới thắng được. Nhìn cái khai cuộc tốt bao nhiêu thì cậu làm cái trung cuộc tệ bấy nhiêu.” Em tôi cười khẩy, tay cầm quân vua đen chỉ về phía con bé.

“Nhưng ít nhất tớ đã có thể hòa được với cậu đó!”

“Hòa một trận và thua tận bốn trận. Thế là đủ để cậu đứng bét bảng.”

“Ồ xem ai tự nói chính mình kìa!”

“Cậu dám nói chuyện đấy sao? Đồ... đáng ghét!”

Hai đứa ngoảnh mặt sang phía đối diện nhau, thở hắt thành tiếng. Lan Anh nhìn về hướng tôi đang ngồi, phải mất một lúc đẻ con bé nhận ra sự hiện diện của tôi. Vẻ mặt nó lộ rõ sự bất ngờ.

“Ồ anh Phong đây rồi. Anh ngồi xem tụi em từ nãy tới giờ à?”

“À, anh vừa mới ngồi xem thôi. Chưa thấy gì hết.”

“Trời, anh vừa bỏ lỡ trận đấu kinh thiên động địa rồi đấy.” Con bé cười, chạy tới nắm tay tôi kéo về phía chỗ hai đứa. “Anh xem cho kỹ nhé, có mấy pha em thí quân siêu đỉnh luôn!”

Tôi ngồi vào ghế, dọn hết các quân còn lại trên bàn cờ, rồi ấn vào chiếc nút nhỏ nằm ở bên cạnh. Ngay lập tức, hình ảnh ba chiều của các quân cờ hiện lên rõ ràng trên mặt bàn. Chỉ cần gõ nhẹ ngón tay phải vào mặt bàn là có thể xem nước đi tiếp theo; nếu muốn quay lại, chỉ việc gõ tay trái.

Không ngoài dự đoán, đây là một ván đấu phức tạp. Hai bên tạo thế trận kín ở trung cuộc, kéo dài nhịp đấu bằng những nước chặn nước giữ, cho đến khi một bên buộc phải chấp nhận trao đổi tốt. Sau đó là màn đọc vị tâm lý và ý đồ đối thủ. Bước ngoặt xuất hiện khi bên trắng quyết định hy sinh hai quân mã và tượng để đổi lấy quân xe, mở đường cho một tốt thông sắp sửa phong cấp. Trong khi đó, bên đen dù có lợi thế hơn quân  lại phải căng sức tạo áp lực lên quân xe còn lại đang chiếm lĩnh hàng ngang số bảy. Kết cục ván cờ thì tôi đã rõ. Vừa xem lại từng nước đi, tôi vừa liếc nhìn phản ứng của hai đứa nhỏ. Chỉ có Lan Anh là chăm chú quan sát tôi, còn em tôi thì ngoảnh mặt sang hướng khác, như thể chẳng mấy bận tâm.

Bất chợt, một tiếng cót két nhẹ vang lên từ sau quầy pha chế. Chị Huệ xuất hiện, tay bưng khay nhỏ có hai cốc sữa mật ong, bước đều về phía bàn. Chị đặt khay ngay trên bàn cờ đang phát ánh sáng ba chiều, khẽ nghiêng đầu mỉm cười rồi lặng lẽ rời đi.

“Hai đứa! Tạm ngừng chơi cờ một lát nghỉ giải lao được không! Chị mang món mấy đứa thích nè.” Chị ta nói với một tông giọng khác hoàn toàn lúc nói chuyện với tôi.

“A! Sữa mật ong!” Em trai tôi hí hửng nhanh như cắt đưa tay lấy ngay một cốc đưa lên mũi ngửi. “Thơm quá đi mất!”

Trái ngược lại thằng bé, Lan Anh dường như tỏ ra thờ ơ trước sự xuất hiện của cô chị họ. Đợi mãi không thấy con bé phản ứng, chị ta đưa cốc sữa về phía con bé.

“Uống đi em, kẻo sữa nguội mất.” Chị ta nở nụ cười vô cùng thiếu tự nhiên, giống như ai đó đang đắp sáp lên thành khuôn mặt đó vậy.

“Cảm ơn.” Lan Anh nói trống không tiếp nhận chiếc cốc, mặt lạnh như băng.

Bầu không khí trong căn phòng giờ nặng nề hơn bao giờ hết, tôi muốn nói gì để hai chị em họ bớt căng thẳng nhưng không có lời nào ra khỏi miệng. Duy chỉ em trai tôi có vẻ như không cảm nhận được điều đó. Nó uống ly sữa một cách ngon lành dù vẫn còn nóng. Uống xong không quên liếm một vòng miệng cốc rồi mới đặt xuống khay.

“Sữa mật ong vẫn là ngon nhất!” Thằng bé nói, đưa tay chùi miệng.

“Ôi trời, tớ nhắc cậu bao nhiêu lần là dùng giấy ăn lau miệng rồi mà. Chẳng thấy cậu nghe bao giờ.”

“Nhưng mà tớ đâu có với tới được cái hộp giấy.” Nó lại đưa tay lên ngoáy tai.

“Eo ơi, tụi con trai lúc nào cũng như thế này à?”

Tôi và chị Huệ ngồi đó chỉ biết cười trừ. Nhìn chúng tôi không khác mấy vị phụ huynh trong buổi làm quen trường tiểu học. Đó là ngày bố mẹ đưa con đến trường để bọn trẻ làm quen với môi trường mới khác hoàn toàn so với thời mầm non.

“Hay tụi mình lên tầng trên đánh cờ tiếp đi, dưới này nóng lắm.”

“Ừ, phải đó. Nhưng mà cầu thang tối lắm. Đi theo tớ nhé!”

Thế là cả hai đứa dọn dẹp đống quân cờ trên bàn. Lan Anh nắm tay em trai tôi đang kẹp bộ cờ vua trong nách lẽo đẽo đi sau, cảm giác cứ như người chị lớn với đứa em nhỏ. Tôi thầm cảm ơn thằng bé đã vô tình phá đi bầu không khí căng thẳng ban nãy.

Nét mặt của chị Huệ bây giờ đã dãn ra trông đã tự nhiên hơn trước. Chị ta ngắm chiếc cốc sữa mà Lan Anh uống dở hồi lâu rồi bỏ lại vào khay.

“Có vẻ như mọi chuyện vẫn chẳng đi về đâu.” Chị ta nói, lấy điếu thuốc trong túi quần ra châm lửa hút. “Trong mắt con bé tôi chỉ là người chị họ dối trá đang cố gắng lấy lòng nó thôi.”

“Chị đừng quá bi quan. Thời gian sẽ giúp con bé hiểu ra.” Tôi cố nói đỡ.

“Thật đáng tiếc vì cái thứ đó tôi cũng đâu có nhiều.”

“Ý chị là sao?” Thực sự tôi không biết hàm ý việc chị ta nói là gì.

“Vì tôi là luật sư. Đặc thù công bắt buộc tôi phải đi lại nhiều nơi. Có thể buổi sáng tôi ở Hà Nội thì buổi trưa tôi đã phải có mặt ở Đà Nẵng và tới chập tối thì đang ở Hồ Chí Minh. Thậm chí có những lần tôi phải vào trại giam để lấy lời khai bên thân chủ. Có ngày phải ngồi ở tòa cả ngày để tranh luận với bên luật sư đối phương, không thì là bên kiểm sát. Nói thế thôi cậu đã hình dung ra rồi chứ?”

Tôi gật đầu. Chị ta hút một hơi rồi nhả khói ra. Làn khói ngay lập tức được hút vào ống hút khói lắp phía bên trên.

“Nhân tiện, công việc của cậu dạo này thế nào?”

“Vẫn đi dạy học cờ vua đều đều thôi chị. Thi thoảng em cũng tham gia một số giải quốc gia. Sắp tới em dự định dạy trực tuyến để sát sao hơn việc học đứa em trai và Lan Anh. Chuẩn bị càng sớm thì càng tốt.”

Chị Huệ nằm ngả người ra sau ghế, hai tay đan chéo để trước bụng. Lần đầu tôi thấy chị ta cười trông nó tự nhiên đến thế.

“Quả thật cậu rất chu đáo. Dù chỉ là người dạy cờ cho Lan Anh nhưng nhờ đó mà con bé có điểm tựa tinh thần mà nó đã mất đi từ lâu. Tận đáy lòng, tôi cảm ơn cậu là điểm tựa tinh thần cho con bé. Một đứa trẻ đã mất cả cha mẹ lại bị họ hàng là cha mẹ tôi đối xử tệ bạc. Có những lúc tôi liên tưởng đến việc con bé làm điều gì đó dại dột. Nếu như được ước, tôi mong mình sẽ thế chỗ Lan Anh mà chịu đựng nỗi đau này. Đó là cách mà tôi có thể tạ lỗi với con bé.”

Nói xong, chị Huệ đưa hai tay ôm mặt. Phải chăng lúc đó chị ta đang khóc? Đáng lẽ ra lúc đó tôi nên hỏi ngay nhưng không có lời nào thốt ra.

Chị ta cứ nằm thế một lúc rồi kêu tôi ra giúp cất gọn lại đống bàn ghế bày bên ngoài quán. Sau đó chị về phòng nghỉ ngơi vì cảm thấy mệt. Bản thân tôi cũng lên phòng nơi hai đứa nhóc đang chơi cờ.

                                                                        ***

Chiếc điện thoại đổ chuông trong túi quần làm tôi đứng khựng lại. Dòng suy nghĩ trong tôi bỗng đứt đoạn một cách đột ngột tạo ra một khoảng trống trong tiềm thức. Sau hồi rung thứ năm, điện thoại tắt lịm. Tôi lấy ra kiểm tra. Một dãy số lạ hiện lên màn hình. Cuộc gọi gần nhất từ số máy này đã là bốn ngày.

 Ai có thể gọi tôi vào giờ này nhỉ?

Đang chìm đắm trong suy tưởng, tiếng chuông báo giờ giải lao bất chợt vang lên. Nó khiến tôi sực tỉnh, quay trở lại với thực tại. Đám học sinh tầm khoảng ba mươi đứa đang nhìn tôi. Vẻ mặt chúng lộ rõ sự bối rối.

“Thầy ơi, thầy làm sao thế?”

Đứa trẻ đầu bàn lên tiếng. Một đứa con trai. Thằng bé kéo nhẹ tay áo sơ mi của tôi.

“À.” Tôi ho một tiếng, đưa tay lên che miệng. “Thầy ổn.” Ngoảnh người về phía sau, chiếc máy chiếu đang trình chiếu hình ảnh một ván cờ ở thế trung cuộc.

“Các em nghỉ giải lao đi. Lát nữa chúng ta sẽ chia nhóm ra thực chiến.”

Chưa kịp dứt lời, đám học sinh ngồi gần cửa đã ùa ra ngoài trước, từng nhóm khác cũng lục tục kéo theo, cho đến khi trong lớp không còn một bóng người. Tôi bước lên bục giảng, ngồi xuống ghế giáo viên, xắn tay áo lên cho đỡ nóng.

Giờ đã là tháng sáu, trường học tiểu học nơi tôi dạy đã kết thúc học kỳ II, bước vào kỳ nghỉ hè. Song, câu lạc bộ cờ vua trường vẫn hoạt động bình thường. Do không có chỗ ôn luyện bên ngoài, nhà trường đã thể theo nguyện vọng của học sinh tiếp tục mở lớp vào mỗi buổi chiều trong tuần. Tất cả đều giành cho giải đấu cấp thành phố diễn ra cuối tháng. Tôi tự hỏi, liệu đó có thực sự là nguyện vọng của bọn trẻ hay không, khi đứa nào đứa nấy trông cũng chán nản đến tội. Trong khi bạn bè cùng trang lứa đang thảnh thơi chơi game, đi du lịch ở những bãi biển đông đúc, thì tụi nhỏ vẫn phải lê lết đến câu lạc bộ dưới cái nắng chiều oi ả lên tới bốn mươi độ. Chỉ nghĩ đến thôi đã thấy xót xa rồi. Bản thân tôi, người thầy và là hàng xóm của đám nhóc cũng chỉ biết động viên các em ráng tập luyện, rồi ngày hái quả ngọt cũng sẽ đến.

Chiếc điện thoại một lần nữa đổ chuông, tôi lập tức nhấc máy.

“Alo?”

“Dạ vâng chào cậu.” Giọng nói của một người đàn ông trung niên trả lời bên kia đầu máy.

“A.” Tôi nhận ra người đó là ai. “Có phải ông Trung, bên công ty tư vấn bất động sản chi nhánh Bắc Giang đúng không?”

“Phải, tôi đã tới chỗ hẹn. Giờ cậu đã rảnh chưa?”

“Vâng, bác đợi cháu một chút.”

“Tôi sẽ đợi.” Người đàn ông tắt máy.

Tôi rời khỏi câu lạc bộ, dạo bước ra phía cổng trường. Nhìn quanh sân trường hầu hết tụi nhỏ đang ngồi trong căn tin tự động. Đứa thì uống nước giải khát hoặc nằm chợp mắt trên các dãy ghế inox. Một nhóm nhỏ đang chơi đá bóng, cả bọn cởi trần, mồ hôi bóng loáng trên tấm lưng.

Băng qua đường là một tiệm đồ ăn vặt. Thông thường quán rất nhộn nhịp bởi đám học sinh qua mua đồ ăn trong giờ ra chơi. Giờ là thời gian nghỉ hè, khách hứa không nhiều, quán trở nên đìu hiu. Tuy nhiên giờ đó lại là một nơi lý tưởng cho các cô cậu lớp chín đang ôn thi vào cấp III.

Tiến đến quầy, tôi hỏi chị chủ quán về tên của người đàn ông trong điện thoại. Sau một lúc suy nghĩ. Chị ta chỉ tay về chiếc bàn cuối bên tay trái hơi cúi đầu.

“Là cái ông đang ngồi cái bàn có hai chiếc cốc nước cam đó.”

Tôi cảm ơn, bước đến bàn. Người đàn ông vận áo sơ mi với vest mỏng khoác ngoài, chiếc quần âu đã phai màu và đôi giày thể thao. Ông đứng dậy bắt tay mặt đầy niềm nở. Chúng tôi chào hỏi nhau rồi trao đổi danh thiếp.

“Ồ.” Người đàn ông lên tiếng sau một hồi ngắm nghía tấm danh thiếp. “Cậu mới có 22 tuổi thôi à.

“Vâng. Tháng sau cháu mới chính thức lên 22.”

“Đứa con trai đầu của tôi cũng trạc tuổi cậu. Khổ nỗi nó vẫn đang tìm kiếm việc làm.”

Ông ta cười khổ, đưa tay lên vuốt mái tóc bạc thưa. Chợt ánh mắt ông lóe lên như vừa nhớ ra việc gì đó.

“Chắc là cậu biết ông Hưng đúng không nhỉ. Người đang quản lý cho thuê nhà ở khu Long Biên này đúng không?”

“Có chuyện gì hả chú?”

“Không có gì to tác lắm, gã này hay chuyên đòi tiền bảo hiểm cơ sở vật chất. Khi có khách báo nhà bị nứt toác thôi là chiều hôm ấy thấy gã đi cãi nhau với đám ngân hàng. Kiểu gì ông ta mỗi tháng sẽ gọi điện một lần để hỏi tình hình. Chắc cậu cũng thể nhỉ?”

“Cháu thấy ông ta chỉ hỏi han chút thôi.”

Người đàn ông gật gù tỏ vẻ đồng ý. Ông cầm cốc nước cam uống ừng ực một hơi rồi chỉnh sửa dáng ngồi cho thẳng hơn.

“Vào việc chính nhé. Cậu vẫn quyết định thuê căn biệt thự sao? Tôi đã giới thiệu những căn khác đẹp hơn, lại còn rẻ nữa.”

“Dân cờ vua tụi cháu chỉ thích nơi nào thật yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhìn trên ảnh, tòa nhà nằm trên ngọn đồi ngắm quang cảnh núi non xung quanh còn gì đẹp bằng. Cháu chỉ thắc mắc tại sao bên chú chỉ cho thuê chỗ đó một tuần, không thể ở lâu hơn được sao?”

“Những vị khách đến thuê căn biệt thự này cũng có lý do như cậu thôi. Tuy nhiên sau khi ở được một tuần họ thì yêu cầu chuyển chỗ khác. Họ phản ánh về những hiện tượng lạ xung quanh căn nhà kiểu như nhìn thấy linh hồn đi lang thang hoặc đồ vật tự di chuyển. Tin đồn lan truyền khắp nơi nên chẳng có mấy ai đặt chỗ. Căn nhà cũng thuộc diện lâu năm nên phải trùng tu thường xuyên. Đó là lý do tôi khuyên cậu chuyển chỗ khác.”

“Cháu thì không tin chuyện tâm linh. Hẳn là vì trải nghiệm của họ quá tệ nên mới đồn thổi như vậy.”

“Cũng có thể lắm, những trường hợp thế này bên công ty sẽ kiện khách hàng vì đưa thông tin chưa được kiểm chứng. Chúng tôi làm ăn đàng hoàng nên cũng chẳng có gì phải ngại. Tuy nhiên lời đồn căn biệt thự ma ám không phải là không có nguyên nhân.”

“Vậy chú cũng tin vào điều đó sao?”

“Trước đây thì không, cho tới khi tôi nhìn thấy cậu. Tôi lại phải suy nghĩ một chút.”

Người đàn ông lấy điện thoại ra và bắt đầu tìm kiếm điều gì đó. Sau một hồi, ông đưa màn hình cho tôi xem. Tôi sững sờ khi nhìn thấy hình ảnh hiện lên trước mắt. Chẳng biết tôi đứng hình bao lâu, chỉ khi chiếc điện thoại tuột khỏi tay tôi mới hoàn hồn. Chiếc điện thoại rơi trúng vào cốc nước cam. Ông ta vội vàng nhặt lên, dùng giấy ăn lau sạch nước rồi đưa cho tôi một tờ để lau phần nước bị đổ về phía mình.

“Cháu xin lỗi.” Nước cam đã dính lên áo sơ mi của tôi tạo thành một vệt dài nổi bật trên nền vải.

“Không sao.” Người đàn ông phì cười, cất lại chiếc điện thoại vào túi. “Nhìn thấy bản thân trong một bức hình cách đây cả trăm năm lướt qua thôi đã đủ sốc rồi.”

“Vậy chú có biết người đó là không ai ạ?”

“Đó là người chủ đầu tiên của căn nhà, bức ảnh của hai vợ chồng chụp trong ngày cưới. Trước đó họ đã có con nên đứa trẻ cũng được chụp cùng. Sống hạnh phúc được mấy năm thì người chồng qua đời vì bạo bệnh. Người vợ, mang hai quốc tịch, không muốn vướng bận đến tài sản của chồng nên đã chính thức từ chối quyền thừa kế. Bà đưa đứa con nhỏ ra nước ngoài sinh sống. Người anh trai bên chồng đã đứng ra lo liệu thủ tục và chi trả các khoản phí cần thiết để thừa kế ngôi nhà. Song, vì bản thân cũng đang định cư ở nước ngoài nên không thể sử dụng ngôi nhà. Đành để trống cho thuê."

“Chuyện buồn quá, chú nhỉ? Dù vậy cháu vẫn không tin có chuyện nhà bị ám thế đâu.”

“Phải, nhưng việc cậu trông giống với người sống cách đây cách đây cả trăm năm thì khó có thể không nghĩ đến chuyện tâm linh.”

“Chắc là sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi mà.”

“Không đâu. Tôi nghĩ có khả năng là do di truyền. Cậu nghĩ lại xem ông bà, bố mẹ cậu ngày xưa trông như thế nào.”

“Cái đó...”. Tôi không trả lời. Đúng hơn là không có câu trả lời.

“Ồ, xin lỗi.” Ông ta cúi đầu chắp tay, có lẽ nhận ra bản thân đã đi quá xa. “Thật là, tôi có cái tật xấu là hay đi tró mũi vào chuyện người khác. Mong cậu bỏ qua.”

“À, không sao đâu. Cháu không để bụng.” Tiếng chuông báo vào giờ vọng từ phía ngôi trường. “Có vẻ như cháu phải vào dạy tiếp. Cảm ơn vì chú đã đến tận đây nói chuyện.”

“Không, tôi mới là người mới là người phải cảm ơn. Vì sự cứng đầu và đôi chút tò mò nên đã mất thời gian nghỉ ngơi quý giá của cậu. Mời cậu về trước, tôi sẽ thanh toán tiền.”

Rời khỏi tiệm đồ ăn, tôi trở lại trường. Đám học sinh vẫn còn ngồi ở căng tin. mặt mày đứa nào đứa nấy đều ủ rũ như vừa bị ép học thêm ba tiết liền. Không ai có vẻ muốn quay lại lớp.

Tôi tiến lại gần, rút từ ví ra tờ năm trăm, giơ lên như một lá cờ hiệu.

“Các em muốn mua gì, để thầy mua cho.”

“KEM!!!”

Cả bọn đồng thanh, ánh mắt toát lên sự hồn nhiên của trẻ con. Một khoảnh khắc hồn nhiên đến lạ, khiến tôi cũng bật cười.

                                                                         ***

Đã gần một tiếng đồng hồ trôi qua, ba người chúng tôi vẫn đang rong ruổi trên chiếc mô tô. Bầu trời không một gợn mây, ánh nắng đầu chiều cứ thỏa sức chiếu vào mắt tôi. Thật tình! Lẽ ra tôi phải thuê người dẫn tới nơi chứ không phải tự mình đi mò đường. Với tình hình này có lẽ đến đêm nay sẽ ngủ ngoài đường.

“A!” Giọng Lan Anh ngồi phía sau, tay cầm chiếc điện thoại. “Anh đi chậm lại, phía trước có ngã rẽ lên đồi.”

“Thật không đó?” Tôi giảm tốc độ, đi xe sát lề đường. “Ba lần trước toàn đi vào đường cụt cả.”

“Chắc chắn lần này sẽ được.” Em trai tôi ngồi trong sidecar[1] cất tiếng đầy dõng dạc.

“Thế ư? Cả tiếng đồng hồ sao giờ mới nói được một câu thế?”

“Nếu em không lên tiếng chắc anh lại đi thêm mấy vòng quả đồi này mất.”

Đi thêm trăm mét nữa, một lối rẽ ra khỏi con đường liên tỉnh. Khác với những lần trước, lối này đã được trải nhựa, dù lớp nhựa ấy trông đã sờn cũ theo năm tháng. Càng đi vào sâu, con đường càng trở nên dốc đứng, các khúc cua xuất hiện ngày một nhiều và trở nên gấp hơn. Tôi phải tập trung hết cỡ, hết hãm phanh lại dận ga, liên tục sang số từ hai lên ba, rồi lại từ ba xuống hai.

Con đường dẫn chúng tôi vào một khu rừng, những tán cây cao che đi ánh nắng và làm dịu đi cái nóng mùa hè. Cuối con đường là một chiếc cổng rào lưới sắt, tôi giơ chiếc thẻ do công ty tư vấn nhà đất cấp lên máy quét. Cổng mở, chúng tôi tiếp tục tiến vào con đường đá vôi ngoằn ngoèo. Căn biệt thự xuất hiện trước mắt, ánh nắng xuyên qua tán cây rừng in bóng những đường vân mờ ảo lên bức tường trắng của ngôi nhà.

Xe vừa tắt máy, em trai tôi đã nhảy xuống đầu tiên. Nó chạy nhanh vào, cởi giày đặt lên kệ rồi bước thẳng vào nhà. Thấy vậy, Lan Anh cũng xuống xe, tháo giày để lên kệ và vội vàng bước theo sau.

Tôi cởi chiếc mũ bảo hiểm, hít một hơi thật sâu rồi thở ra. Không khí chốn rừng núi khác hẳn với nơi thành thị. Thật trong lành, mát mẻ, thoải mái. Tôi dắt xe vào gara nằm sát bên hiên nhà. Gọi là gara chứ thực ra chỉ là một khoảng trống nhỏ có mái che trên đầu. Có lẽ ngày xưa chẳng mấy ai lái ô tô vào tận rừng, nên từ lối đi đến chỗ đậu xe đều chật hẹp, vừa vặn cho một chiếc xe máy đi lại.

Tôi xách hai chiếc vali buộc sau xe máy bước vào nhà. Sau cánh cửa ra vào là một căn phòng được bài trí gọn gàng. Một chiếc ghế sofa dài làm tâm điểm căn phòng, đối diện là chiếc tivi treo tường, hai bên là hai chiếc đèn gắn tường phát ra ánh sáng dịu nhẹ. Phía dưới tivi là lò sưởi kiểu truyền thống. Ngay giữa phòng, chiếc bàn dài mặt kính đã được bày sẵn một giỏ hoa quả. Đây hẳn là phòng khách.

Tiếp tục bước dọc theo lối đi hành lang, tôi thấy sân sau nằm về phía bên trái. Mặt sân phủ cỏ xanh mướt, từ xa có thể trông thấy một gốc cây lớn với chiếc xích đu hai chỗ ngồi có mái che bên cạnh. Cuối hành lang là cầu thang dẫn lên tầng trên. Trước khi bước lên, tôi ghé vào căn phòng có cửa kính nằm sát lối đi. Không mất nhiều thời gian để nhận ra đó là phòng tắm.

Từ phía dưới, tôi đã nghe thấy tiếng cười đùa vọng xuống từ tầng trên. Có gì ở trên đó mà vui thế nhỉ? Tôi nghĩ thầm, tiếp tục xách hai chiếc vali lên tầng hai, lần theo âm thanh đó. Bước vào căn phòng phát ra tiếng ồn. Lan Anh và em tôi đang nhún nhảy trên chiếc giường đệm lớn chiếm gần hết diện tích căn phòng. Hai đứa đứng đối diện nhau, đứa này nhún thì đứa kia lại bật lên. Cả bọn cười choe choét.

“Nhảy vừa thôi không sập giường bây giờ.” Tôi quát lớn.

Lan Anh giật mình ngưng nhún, em tôi bị hớ đà ngã lăn lộn trên giường. Tôi phì cười lấy tay che miệng. Ai mà nghĩ được tụi này sắp vào cấp III cơ đấy.  Kéo hai chiếc vali vào một góc phòng, tôi ngồi xuống chiếc ghế mây kê sát bên, hít một hơi thật sâu rồi thở ra để quên đi cái cảnh hài hước vừa rồi.

“Hai đứa đi dọn đồ đi rồi tý anh kêu qua phụ nấu ăn nữa.”

Cả hai gật đầu. Em tôi kéo chiếc vali màu xanh, còn Lan Anh lấy chiếc màu hồng. Chúng bày ra giường đủ loại quần áo và đồ dùng cá nhân, rồi bắt đầu sắp xếp vào hai chiếc tủ đặt đối diện nhau. Lan Anh dùng chiếc tủ bên trái, còn hai anh em tôi dùng chung tủ bên phải. Nhìn chúng sắp xếp được chừng một nửa, tôi rời khỏi phòng, đi xem qua các phòng còn lại.

Căn phòng tiếp theo tôi bước vào là phòng ăn. Khá dễ nhận ra với bếp điện, lò vi sóng, bồn rửa, tủ lạnh cùng dãy kệ tủ treo tường. Phía trên bếp điện là một ống hút mùi nối dài ra bên ngoài, chắc để giữ cho không khí luôn thông thoáng. Ở chính giữa phòng, một bộ bàn ăn bốn người được kê ngay ngắn, kiểu bàn thường thấy trong những quán ăn gia đình. Điều khiến tôi bất ngờ là chiếc máy giặt đặt ở một góc phòng ăn. Hình ảnh ấy lập tức gợi tôi nhớ đến khu ký túc xá mà vài người bạn ngoại tỉnh từng ở. Nó gây ấn tượng trong tôi bởi mọi thứ được tận dụng tối đa, gói gọn trong một không gian nhỏ. Bên cạnh đó còn có một ban công mở ra phía ngoài, càng khiến cảm giác ấy rõ ràng hơn. Nghĩ lại, đúng là giống thật.

Tôi mở tủ lạnh để kiểm tra đồ ăn. Bên trong hầu hết là thức ăn sơ chế và một vài hộp đồ đóng gói sẵn. Với lượng này, cùng lắm chỉ đủ cho hai bữa. Chẳng lẽ họ quên chuẩn bị sao?

Một cơn gió nhẹ từ ban công thổi vào bếp, làm rơi một tấm thiệp nhỏ đặt trên kệ tủ lạnh. Đó là tấm thiệp của bên cung cấp thực phẩm, có vẻ như ai đó đã để sẵn ở đó. Sao họ không dán một tờ giấy trên tủ lạnh sẽ tốt hơn không?

Ngay lập tức, tôi lấy điện thoại ra gọi ngay theo số được in trên đó. Đầu dây bên kia là giọng một người phụ nữ. Tôi giới thiệu tên mình và địa chỉ căn biệt thự, sau đó hỏi về tình trạng đồ ăn. Cô ấy dường như đã lường trước tình huống này nên trả lời khá nhanh. Vì không có thông tin thời điểm khách đến, họ đã chủ động lùi lịch giao thực phẩm tươi sang sáng hôm sau. Trước khi kết thúc cuộc gọi, cô ấy xin lỗi rối rít. Tôi nói không sao, điều đáng tiếc này là do lỗi của tôi.

Dự định nấu món ăn cho buổi tối đầu tiên đã phá sản. Giật mình, tôi nhận ra bản thân có cả một khoảng thời gian rỗi kéo dài từ giờ đến lúc mặt trời lặn. Quả là điều hiếm có. Đang nghĩ xem nên làm gì tiếp theo thì gió từ ban công lại thổi vào. Chiếc chuông gió treo ngoài ban công khẽ lay động, phát ra tiếng lanh canh trong trẻo. Âm thanh đó như một lời mời gọi dịu dàng. Tôi bước ra ngoài.

Từ ban công tầng hai, quang cảnh sân sau hiện ra dưới một góc nhìn bao quát hơn. Đằng xa tôi trông thấy một cây cầu vắt dọc qua tầm mắt. Nhìn vào cấu trúc mạng điện chằng chịt bên trên, tôi nhận ra đó là cầu dành cho tàu cao tốc. Muốn nhìn kỹ hơn cây cầu kia, tôi thử nhoài người ra ban công để xem nó dẫn về đâu nhưng có vẻ như chẳng mấy tác dụng. À, phải rồi. Một ý nghĩ chợt bật lên trong đầu. Tôi nhớ đã từng thấy trên trang web giới thiệu biệt thự rằng nơi này có tầng thượng. Có lẽ từ đó sẽ quan sát được rõ hơn.

Tôi quay trở vào nhà, đi đến cuối hành lang tầng hai. Quả đúng như dự đoán, một cầu thang khác nằm khuất ở đó, hướng lên phía trên. Cấu trúc của nó dạng xoắn ốc, trông không khác gì những tháp canh trong các lâu đài cổ châu Âu. Bước lên sân thượng, nắng chiều rọi xiên qua những tán cây rừng gần đó đổ bóng xuống khoảng sân sau nhà. Bầu trời vẫn không một gợn mây như lúc tôi còn đang trên đường nhưng không khí thì lại thật dịu mát. Từ đây, tôi có thể thấy toàn bộ cây cầu vắt dài từ Đông sang Tây.

Lúc này, cuộc trò chuyện sáng nay lại hiện lên trong đầu tôi. Chị Huệ từng nói, để tới Bắc Giang phải đi hai chuyến tàu. Có lẽ chị đang nhắc tới tuyến đường tàu chạy qua chính cây cầu này. Tưởng tượng thấy chị ta đang ngồi trên tàu cùng với ai đó đi qua đây rồi chợt thốt lên: “Ồ, hình như cái cậu tên Phong nào đó bảo cậu ta nghỉ hè ở đây này.”

Chị ta có một trí nhớ đáng nể. Lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, chị ấy đã biết tôi dạy cờ vua tại một câu lạc bộ ở trong quận Đống Đa. Tôi thậm chí còn chưa từng nhắc đến chuyện đó cho Lan Anh. Khi ấy tôi chỉ cười, hỏi sao chị biết. Chị ta nói rằng bản thân đang điều tra án mạng. Buổi tối sau khi đưa con mình đi học thêm thì nạn nhân bị sát hại. Khi nghe tên học sinh tôi giật mình. Thằng bé là người về muộn nhất hôm đó. Khổ nỗi nó lại không có điện thoại, bụng thì đói meo. Không thể để nó ở đồn cảnh sát một mình, tôi đành phải dẫn nó đi ăn tại một cửa hàng gia đình gần đó. Tôi vừa dỗ dành vừa ngồi chờ tới tận mười giờ. Chuyện đó diễn ra tận hai tháng vậy mà chị ta còn nhớ được. Điều đó làm tôi thực sự ấn tượng.

Đang ngồi đăm chiêu, tôi chợt nghe tiếng cười đùa phía dưới. Hai đứa nhỏ vừa ùa ra sân sau. Em trai tôi chạy trước, Lan Anh rượt theo sau. Cả hai đuổi bắt quanh gốc cây to. Đứa này vòng trái, đứa kia quẹo phải. Mỗi lần tưởng sắp bắt được lại hụt, đến lần thứ năm thì Lan Anh cũng chộp được. Cả hai ngã lăn ra bãi cỏ xanh rờn, cười đùa giòn giã, gương mặt đứa nào cũng hớn hở.

Trời ạ, tụi nó lại như thế nữa rồi… Tôi thầm nghĩ, khẽ thở dài rồi liếc về phía lối vào biệt thự. Nếu ai tình cờ bắt gặp cảnh này, chắc tôi cũng chẳng biết phải giải thích ra sao. Cũng may cả quả đồi này chỉ có mỗi nhà chúng tôi, chẳng ai chứng kiến nên thôi… cứ để tụi nhỏ tự do cũng chẳng sao.

Bỗng có một thứ gì đó màu đen sượt qua mặt tôi. Chưa kịp định thần thì nó lại lao vút qua lần nữa khiến tôi giật bắn người, vội lùi về phía cầu thang. Sinh vật kia không đuổi theo mà chỉ sải cánh, phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc. Nhìn kỹ lại, tôi mới nhận ra đó là một con chim nhưng không rõ thuộc loài nào. Khi thấy tôi không còn là mối đe dọa, nó quay đầu bay lên đậu trên đỉnh ống khói, có lẽ là của lò sưởi ở phòng khách. Quan sát kỹ hơn, tôi nhận ra nó đã xây tổ ở đó từ lúc nào rồi. Có lẽ do không có người ở đây nên con chim đã biến cái sân thượng thành địa bàn của nó. Tôi lấy điện thoại ra kiểm tra giờ, đã 3 giờ 45 phút chiều. Có lẽ tôi nên làm buổi tối rồi đi tắm. Ngồi đợi hai đứa kia nô đùa chán chê tới 5 giờ đi ăn cơm là đẹp.

Quay lại phòng bếp, tôi bắt tay vào nấu ăn. Mới đứng bếp một lúc mà mồ hôi đã bắt đầu túa ra, bám dính lưng áo, cảm giác nhễ nhại khó chịu. Tôi làm món bít tết trước, rồi tranh thủ trộn thêm một đĩa salad đơn giản. Công đoạn chế biến khá nhanh vì phần lớn nguyên liệu đều là đồ đóng gói sẵn trong tủ lạnh. Tiếc là không có gạo, nên đành thay bằng vài lát bánh mì cắt sẵn.

Làm xong bữa tối, tôi ngồi xuống ghế để nghỉ lấy sức. Đến lúc đó mới nhận ra căn nhà đã im ắng hẳn, không còn tiếng cười đùa ríu rít vang lên như trước.  Tôi nhìn ra ban công thì không thấy bóng dáng hai đứa đâu. Bây giờ vẫn còn quá sớm, chắc chắn chúng chưa thấy mệt. Có lẽ cả bọn chạy ra khoảng rừng nhỏ phía sân trước chơi trốn tìm. Tôi lại không thấy lo chúng bị lạc, vào những kỳ nghỉ hè trước chúng tôi thường đến những nơi có rừng nên tụi nhỏ chẳng lạ gì địa hình như thế này.

Phòng tắm nhìn bên ngoài trông khá nhỏ, nhưng bước vào rồi tôi mới ngạc nhiên vì không gian bên trong lại rộng hơn tưởng tượng. Gần như mọi thiết bị ở đây đều giống trong nhà tôi, chỉ là ở phiên bản cao cấp và hiện đại hơn. Nó được lắp hệ thống cảm ứng, cho phép tôi tùy chỉnh cách tắm theo ý muốn. Tôi chỉ việc ngồi vào, chọn nhiệt độ, rồi nước sẽ tự động xả vào bồn. Nước bắt đầu ấm dần lên, mọi sự mệt mỏi từ sáng đến giờ cứ thế xâm chiếm cơ thể và đánh gục tôi bằng một giấc ngủ. Tôi chẳng biết mình đã thiếp đi bao lâu trong phòng tắm, chỉ đến khi bước ra ngoài và ngẩng đầu nhìn trời. Bản thân mới giật mình nhận ra cảnh vật đã tối hẳn từ lúc nào.

Khoác tạm chiếc áo choàng tắm, tôi đứng ngoài hiên nhà, mắt nhìn về phía rừng. Đã hơn 5 giờ mà vẫn chưa thấy hai đứa nhỏ quay lại. Tôi bắt đầu đâm lo. Chẳng lẽ chúng đi lạc thật? Hay là trong rừng có thú dữ. Cứ ngồi đó, đầu óc quay cuồng với những suy nghĩ, nếu tôi còn chần chừ e là sẽ không kịp nữa.

Bỗng tiếng bước chân vang lên từ phía sân sau. Tôi bật dậy, chạy vội ra sân sau và thấy Lan Anh. Toàn người con bé ướt sũng, tóc bết lại, bùn đất bám đầy tay chân. Khi nhìn thấy tôi, khuôn mặt nó tái mét. Chẳng nói một lời, con bé chỉ lặng lẽ bước vào nhà, đi thẳng vào phòng tắm. Tôi vội vàng đuổi theo, nắm lấy cổ tay nó.

“Chờ đã, em đi đâu giờ này mới về?”

Lan Anh cố gắng vùng vẫy. Tôi nắm luôn tay còn lại.

“Lại còn ướt thế này nữa. Mà đứa kia đâu?”

Bị siết tay một lúc, con bé mặt nhăn nhó nhìn như sắp khóc. Cuối cùng nó cũng chịu nói:

“Đi bơi, tụi em đi bơi.”

“Bơi? Ở đâu?”

“Có một... con hồ bên dưới. Em đi theo cậu ấy... xuống núi.”

“Hồ? Là chỗ nào vậy.” Tôi thả lỏng tay con bé. “Dẫn anh xuống chỗ đó!”

Lối đi bí mật xuống núi nằm ngay dưới gốc cây ở sân sau. Đó là một con đường đất nhỏ, chạy sâu vào bên trong lòng núi, rễ cây và dây leo che phủ bên ngoài. Đường khá thoai thoải, dễ đi, hầu như không gặp trở ngại gì. Cứ thế men theo con đường ấy, địa hình dần trở nên bằng phẳng. Con hồ xuất hiện trước mắt, ẩn mình giữa thung lũng bao quanh bởi vách núi. Nước từ trên cao chảy xuống kêu róc rách. Mặt hồ phản chiếu bầu trời cuối chiều. Mây hồng trôi lững lờ và nắng vàng óng ánh.

Em tôi từ dưới nước ngoi lên khỏi mặt nước. Nó đưa tay xoa mặt vuốt lại tóc. Sau đó, thằng bé chuyển sang tư thế bơi ngửa, chỉ dùng chân để bơi vào bờ. Khi nước chỉ còn ngang hông, nó bắt đầu đứng lên đi. Nhìn thấy tôi, thằng bé không tỏ vẻ gì làm bất ngờ, dường như nó biết chắc tôi sẽ ở đây.

“Có lời giải thích nào không?” Tôi hắng giọng. Cơn giận dữ tích tụ từ nãy tới giờ chút lên hết câu hỏi.

“Em xin lỗi.” Thằng bé trả lời lí nhí. Mặt cúi gằm xuống.

“Biết anh lo lắm không? Chạy đi đâu phải báo một tiếng chứ? Lại còn trông bộ dạng thế này nữa, có ai nhìn thấy thì sao?”

“Chỗ này không có ai biết đâu anh. Lối mòn dẫn xuống núi là con đường duy nhất.” Thằng bé nói chắc như đinh đóng cột.

“Làm sao mà biết được?”

“Giữa hồ không có cọc cảnh báo. Anh nhìn xem. Nước chỗ này sâu lắm, nếu có ai từng đến đây chắc chắn phải cắm cọc.”

“Kể cả vậy.” Tôi thở dài. “Sao lại xuống tận dưới này? Lan Anh không bơi giỏi, nhỡ bị làm sao thì mình em xoay sở kiểu gì?”

“Vì cậu ấy muốn thế?” Thằng bé nhìn Lan Anh.

“Hả?”

“Sao anh không đi mà hỏi? Lời từ miệng em chắc anh không tin đâu.” Nói xong, nó đưa hai tay sau đầu, đi về hướng con đường đất.

Tôi bỗng cảm thấy tay mình hơi mỏi. Nhìn lại mới nhận ra Lan Anh vẫn nắm tay tôi từ lúc bắt đầu xuống núi. Con bé đứng không còn vững nữa. Phải rồi, lúc vừa mới về đến nơi, tôi trong cơn bực tức đã kéo nó đi tiếp không cho nghỉ. Nó còn đang đi chân trần. Chắc giờ chân đau lắm rồi. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy tay nó, dìu Lan Anh ngồi xuống đất.

“Anh... anh xin lỗi. Chân có bị đau lắm không?”

“Em không sao. Nhưng mà, hiện tại chân em mỏi lắm không đi được nữa.”

“Ừ, được thôi! Anh sẽ ngồi đợi.” Tôi cởi chiếc áo choàng tắm ra, đắp lên người của cả hai.”

“Ơ, anh làm gì thế.” Lan Anh nhìn tỏ vẻ ngơ ngác.

“Khoác lên người kẻo bị lạnh. Không tắm qua nước nóng thì mai ốm ngay. Mà thằng bé đã nói ở đây không có người thì cứ thoải mái đi. Hai anh em mình đâu có gì phải ngại chứ.” Tôi cười.

Con bé không nói gì, tựa đầu vào vai tôi. Bàn tay nó lại chặt tay tôi hơn. Lúc này tôi thấy bàn tay Lan Anh khô ráp, nứt nẻ đầy vết chai. Ngoài cờ vua, nó cũng là thành viên trong câu lạc bộ Taekwondo trường. Mỗi lần tôi đón về là phải bế nó lên vì bàn chân không thể nhấc lên xe máy. Bàn tay này hẳn cũng do quá trình khổ luyện kia.

Chúng tôi cứ ngồi như thế, quan sát mặt hồ phản chiếu bầu trời chuyển dần sang tối. Chỉ có tiếng nước chảy róc rách và gió thổi rì rào qua khu rừng. Một lúc sau, Lan Anh khẽ lên tiếng.

“Đợt nghỉ đông vừa rồi, lớp em có chuyến đi chơi SaPa.” Lan Anh nói, giọng chậm rãi như đang nhớ lại. “Thứ khiến em ấn tượng nhất là phòng tắm lộ thiên ở khách sạn. Ngồi một mình trong bồn tắm nhìn bầu trời phía trên… cảm giác sướng lắm. Cứ như tan chảy ra vậy.” Con bé cười khẽ, rồi tiếp tục: “Lúc nhìn thấy cái hồ từ sân sau, cảm giác đó tự nhiên quay lại. Nên em mới năn nỉ cậu ấy tìm bằng được đường xuống.”

“Thế thôi á? Anh tưởng chuyện gì nó to tát lắm cơ.” Tôi phì cười, đưa tay xoa đầu con bé. “Vậy mai mốt em chuyển hẳn sang nhà anh, anh mua cho cái bể bơi phao để lên sân thượng. Lúc đó muốn ngồi ngắm tới khuya cũng được, khỏi phải đi đâu cho mệt người.”

“Hơ, ý anh là sao? Em không hiểu?”

 “À, chị Huệ thông báo người giám hộ mới của em là anh. Cái đó em phải biết rồi chứ?”

“Em chẳng nghe ai nói như vậy cả. Thế hết hè em muốn chuyển qua nhà anh luôn!”

“Không được. Năm sau thi cấp III rồi mà tự nhiên chuyển nhà thì phiền lắm. Nhất là việc đi lại, từ nhà anh mà đến trường đúng giờ phải dậy sớm.”

“Em không quan tâm. Chỉ cần rời khỏi căn nhà đó thì chịu khổ thế nào em cũng làm.”

“Ít nhất em cũng nên làm hòa với chị Huệ đi. Nói một câu cảm ơn chị ấy thôi cũng được.”

“Chị ta tự làm theo ý mình, em đâu có cần. Sao phải cảm ơn chứ!”

“Gia đình chị ấy có sao thì có, chứ chị ấy thì không xấu. Anh chỉ nói vậy thôi.”

“Người như chị ta mà anh không nhận ra sao?”

“Thôi, đừng nói chuyện này nữa. Lần sau xuống đây nhớ mang theo điện thoại. Anh còn gọi về ăn cơm.”

“Vâng… Mà giờ em đói rồi, nhưng chân vẫn còn mỏi.”

“Không sao. Để anh cõng. Dù gì cũng là lỗi của anh. Bám chắc vào nhé.”

Sau bữa tối, ba chúng tôi ra phòng khách ngồi xem phim. Hai đứa nhỏ mê mẩn mấy bộ hoạt hình của Studio Ghibli. Tuổi đời của bộ phim có lẽ đã hơn cả chúng tôi nhưng nét vẽ vẫn không bị lỗi thời. Mấy bài hát trong phim, tụi nó hát vanh vách vì đã nghe cả trăm lần. Xem xong một bộ, cả hai đứa đều ngủ quên từ lúc nào, miệng hé ra, nước dãi chảy ướt cả gối. Tôi nhìn mà phì cười, không nỡ gọi dậy, đành lên phòng lấy một chiếc chăn mỏng đem xuống đắp cho chúng.

Từ xa, tiếng tàu cao tốc vọng lại. Đã lâu lắm rồi tôi mới nghe lại âm thanh ấy, nhưng làm sao quên được. Ngôi nhà cũ của tôi nằm sát một trạm ga. Tôi thường trải đệm ngủ ngay phòng khách, mỗi đêm đều nghe tiếng tàu đi qua. Khung cảnh bây giờ cũng giống y như thế. Một cảm giác hoài niệm dâng lên.

Tôi chợt tự hỏi, không biết dượng giờ đang sống thế nào. Lần cuối tôi gặp ông là cách đây đã bốn năm. Đã từng đó thời gian rồi sao. Từ lúc ấy đến giờ, chúng tôi không còn liên lạc.

[1] Sidecar: Ghế ngồi một bánh được lắp bên hông của một số loại xe máy.

Hãy bình luận để ủng hộ người đăng nhé!