[ONE SHOT] âm trầm
Hoa loạn trí
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

One shot

One

0 Bình luận - Độ dài: 4,651 từ - Cập nhật:

Tôi về nhà vào lúc 11 giờ 46 phút tối, ướt gần như chuột lột.

Mưa bắt đầu từ chín giờ mười tám, khi tôi đang lau bụi trên cần đàn một cây bass màu xám tro. Đó là mẫu cổ điển của hãng Ibanez, không mới, cũng chẳng cũ, chỉ hơi quạnh hiu, như tiếng của nó khi người ta chơi không đủ lực.

Lúc đó, trong cửa hàng chỉ còn một bóng đèn vàng nhỏ treo lủng lẳng ngay trên quầy thanh toán. Một bản nhạc jazz vang từ chiếc loa bluetooth xước sơn, nhưng tôi nghe như tiếng ai đang gõ nhẹ ngón tay vào trán mình. Cơn mưa bắt đầu như thế, mưa rất nhỏ, như thể bầu trời chỉ ho khan vài tiếng trước khi quên mất phải làm gì tiếp theo.

Tôi không mang ô. Tôi chưa bao giờ mang ô. Tôi ghét cảm giác cầm một thứ phải bảo vệ mình giữa thế giới, khi mà chính tôi còn không bảo vệ nổi bản thân. Đường về nhà dài sáu trạm xe buýt, và một đoạn dốc đổ qua hẻm tối. Tôi chọn đi bộ. Những lúc trời mưa, với mỗi tiếng bước chân vang lên trong khu phố nghe có vẻ nặng và thật hơn.

Khi về tới căn phòng thuê tầng ba, tôi không bật đèn ngay. Tôi ngồi xuống giường, cởi đôi vớ ướt, đặt bass lên đùi, và chạm nhẹ vào dây thứ tư. Một tiếng "bụng" vang lên trong bóng tối. Âm thanh vòng cung tròn, rỗng, và đặc biệt không có người nghe.

Có lẽ, tôi thích bass là vì nó không đòi hỏi được hiểu. Nó ở đó, nền sâu, âm ấm, đủ để làm rung ngực cảm người nghe nhưng không bao giờ nổi bật. Tôi cũng giống nó. Hoặc ít ra, tôi nghĩ vậy để không thấy mình đang biến mất. Ở trường, tôi là cái bóng. Nhưng cái bóng đôi khi cũng khiến người ta khó chịu.

Huỳnh Trường Như thấp hơn tôi gần một cái đầu. Cô ấy thích mang giày platform, sơn móng tay đen, và gọi tôi bằng cái tên "Thùng Rác", không to tiếng, chỉ đủ để ai cũng nghe. Mỗi khi tôi bước vào lớp, cô ấy lại giả vờ bịt mũi, hoặc kéo ghế lùi xa.

Cô ấy không ghét tôi. Tôi biết. Cô ấy ghét chính mình khi đứng cạnh tôi, và tôi, với gương mặt bất cần sáo rỗng, ánh mắt không cầu xin, dáng đi không sụp đổ, chỉ đơn giản là cái gương phản chiếu điều đó. Có lần tôi viết vào lưng tay mình một câu, "Tôi không vô tội. Tôi chỉ đang im lặng."

Câu đó phai đi sau một buổi tắm. Nhưng cái cảm giác vẫn còn đó, âm ỉ như tiếng dây bass đánh chậm trong một khúc nhạc không ai nghe.

Tôi sống một mình từ năm mười lăm tuổi, sau khi cha tôi rời khỏi nhà bằng một tiếng sập cửa và mẹ tôi rời khỏi thế giới bằng một tiếng ho khan rất nhỏ, không ai nhớ rõ lúc mấy giờ. Tôi không kể với ai, vì không ai hỏi. Mọi người chỉ hỏi bài tập nhóm, điểm trung bình, và lý do vì sao tôi không dùng mạng xã hội.

Tôi làm ở cửa hàng bass mỗi tối từ bảy giờ đến mười một giờ ba mươi. Anh chủ tên Bằng, ba mươi hai tuổi, đầu húi cua, có hình xăm chữ "Silence" ở cổ tay phải. Anh ít nói, trả lương đúng hẹn, và luôn đặt một chai nước lọc nhỏ ở cạnh chỗ tôi lau đàn.

Anh không hỏi về vết bầm trên tay tôi. Tôi không hỏi về lý do anh không chơi đàn nữa.

Chúng tôi tồn tại cạnh nhau như hai phím đàn không bao giờ được đánh cùng lúc.

...

Tối nay tôi lại cô độc, khi đặt bass xuống và nhìn lên trần nhà mốc, tôi thấy mình đang run nhẹ. Không phải vì lạnh. Không phải vì mệt. Mà vì tôi không biết mình còn tồn tại bao lâu nữa nếu mọi thứ cứ tiếp diễn thế này, đều đặn, trầm mặc, và không ai đụng vào.

Tôi đã từng nghĩ, một người không bị tổn thương thì không cần được chữa lành. Nhưng rồi tôi nhận ra, có những vết thương không chảy máu, chỉ rò rỉ sự sống qua từng ngày, từng giờ, từng phút giây. Ngày qua nối tháng nọ năm dài.

Và tôi sợ. Tôi sợ một ngày mình không còn cảm được tiếng bass nữa. Đó có lẽ sẽ là ngày tôi thực sự không còn là tôi. Tôi bật đèn. Ánh sáng vàng nhạt rọi xuống cây bass, thân đàn ướt, dây rung khẽ, như vừa được chơi qua không nhưng không quá lâu. Tôi viết vào mặt sau vỏ đàn một dòng rất nhỏ.

"Nếu ai đó tìm thấy tôi, hãy chơi thử một nốt. Nếu nó còn vang, tôi chưa chết."

...

Sáng hôm sau. Một ngày âm u đầy sầm uất, Huỳnh Trường Như ném một tờ giấy lên bàn tôi.

Tôi đang mở hộp sữa đậu nành thì bị giấy đập trúng trán. Không đau. Nhưng một vài ánh mắt đã kịp bật cười. Một đứa con gái tóc xoăn đỏ lẩm bẩm gì đó như "tỉnh rồi". Tôi không đáp. Tôi mở tờ giấy.

"thức dậy đi đồ đần." Viết bằng bút xanh, chữ tròn trịa, nữ sinh, nhưng sắc lạnh. Cuối dòng có ký hiệu mặt cười méo xệch.

Tôi gấp tờ giấy lại, cất vào ngăn để nước ở cặp. Hôm nay trời nhiều mây. Cửa sổ lớp bị mờ vì hơi nước từ trong lớp phả ra, do mồ hôi tụ lại chăng? Hoặc sương mai. Tôi không biết tại sao Như lại tức giận đến thế. Tôi cũng không chắc có phải mình đã làm gì. Nhưng tôi cũng không chắc mình không làm gì.

Chúng tôi học tiết Sinh vào tiết bốn. Cô giáo tên Mai Ly, ngoài bốn mươi, có thói quen nhấn mạnh mỗi khi nói đến "phôi" hay "tế bào gốc" bằng cách đưa tay chạm nhẹ vào bảng. Hôm nay cô dạy về di truyền. Về cái gì đó trong máu mà ta không chọn được. Thật tàn nhẫn.

Tôi nhìn Trường Như trong lúc cô ấy đang cắm cúi chép bài. Không ai hay biết, nhưng bàn tay cô ấy run nhẹ mỗi khi viết quá nhanh. Như thường viết chậm, cẩn thận. Nhưng hôm nay thì khác. Khi tiếng chuông hết tiết vang lên, tôi không đứng dậy. Tôi chờ.

Huỳnh Như bước đến, đứng cạnh bàn tôi, hít một hơi rồi nói rất khẽ,

"Mày nhìn tao kiểu gì đấy?."

Tôi ngẩng lên. Tôi có hơi bối rối và sượng trân lại một nhịp nhanh nhưng đủ để ý, nghĩ mình đã không nhìn gì cả. Nhưng rõ ràng, ánh mắt tôi có lẽ luôn làm người khác nghĩ đến một điều gì đó khác với sự thật.

"Tao thấy mày nhìn tao. Như kiểu mày thương hại tao ấy."

Tôi đáp "Không. Tao chỉ đang nghĩ nếu mày cầm đàn bass, có lẽ tiếng nó sẽ đứt ngay nốt đầu."

Cô ấy nhíu mày, nhưng rồi bất ngờ bật cười, kiểu cười nghẹn, như thể không ngờ tôi biết nói. Rồi cô ấy khịt mũi, gật đầu một cái, quay đi. Lần đầu tiên trong nhiều tháng, không ai gọi tôi là Thùng Rác cả buổi sáng.

Tôi cũng không hiểu vì sao mình lại nói vậy. Nhưng có lẽ, nếu không có gì đáng để giữ, thì ta cũng không cần phải im lặng nữa.

...

Tối hôm đó, Bằng đi trễ gần nửa tiếng. Tôi ngồi chờ ngoài cửa hàng, lưng tựa vào khung kim loại, tay lật tới lật lui cây đàn Jazz Bass cũ kỹ. Trời không mưa, nhưng lạnh, kiểu lạnh dai dẳng như đèn neon hắt bóng xuống nền gạch.

Khi Bằng đến, anh không xin lỗi. Chỉ mở cửa, ra hiệu bằng cằm rồi đi vào phía trong như thường lệ. Tôi theo sau. Nhưng hôm nay, thay vì mở hộp lau dây, tôi đặt đàn xuống ghế, nói,

"Anh có nghĩ một người có thể bị gãy ở bên trong không. Như dây đứt nhưng vẫn căng ấy?."

Anh đứng lại. Quay đầu rất chậm. Nhìn tôi không như chủ nhìn nhân viên. Cũng không như một người từng sống đủ lâu để hiểu những lời cao siêu mà tôi vừa nói.

"Em bị đứt dây à?."

Tôi khẽ gật.

"Không sao. Đứt thì thay. Quan trọng là cổ đàn có cong chưa."

Anh nói tiếp, "Cổ cong rồi thì tiếng sẽ méo. Khi ấy, không phải sửa dây nữa mà phải thay cả thân. Nhưng mà, không ai có đủ tiền để thay cả thân đâu."

Tôi khựng lại sau đó quay đi. Lau cây đàn như bình thường. Nhưng trong đầu vẫn lặp đi lặp lại câu đó. Không ai có đủ tiền để thay cả thân. Có lẽ vì thế nên người ta cứ gãy dần đi trong im lặng, như tiếng bass lặng lẽ lạc mất nốt chủ.

Tôi không ngủ đêm ấy. Ngồi thẳng trên chiếc ghế nhựa mà mẹ tôi mua khi còn sống, nói vẫn như vậy, ở đó trầm mặc như muốn nói "tớ không vô hình, chỉ là cậu đang chọn cách không nhìn thấy tớ", tôi chơi từng dây một cho đến khi mặt trời ló ra sau mái nhà đối diện. Rồi tôi cất đàn, mặc đồng phục, và bước ra đường. Một ngày mới. Một tiếng rung trầm chờ đợi.

...

Tôi bắt đầu thấy mình mơ lại, sau gần nửa năm chỉ toàn ngủ với cái đầu trống rỗng từ hôm đó.

Giấc mơ đầu tiên không có hình thù gì, ít ra tôi nghĩ rằng như vậy. chớ là một âm thanh đều đặn, mỏng như sợi chỉ, vang lên ở tầng sâu nhất trong đầu. Không phải tiếng bass, cũng không phải nhịp tim đang đập thình thịch. Nó giống tiếng chiếc ly chạm nhẹ vào thành bồn rửa, rồi dừng lại. Mỗi khi tôi sắp chạm vào điều gì trong mơ, âm thanh ấy lại nổi lên, kéo tôi ra như một nanh vuốt vô hình.

Sáng ra, tôi không thấy mệt. Nhưng cũng chẳng tỉnh mấy. Tôi nhìn mình trong gương da xanh xao, mắt trũng, cổ áo đồng phục bị giãn. Tôi cố gắng mỉm cười thử, chỉ để chắc chắn mình chưa hóa đá như cái cánh bố tôi hoá đá. Nhưng nét cười chỉ nhích được một chút, rồi trượt xuống như nước đổ.

Lúc còn nhỏ, mẹ hay bảo tôi có đôi mắt nặng trĩu như đang ngẫm nghĩ. Nhưng nghĩ cái gì thì mẹ chưa bao giờ nói rõ. Sau này, tôi mới hiểu ra, đó là một lời ám chỉ rằng tôi trông như đang lo lắng cho thứ gì đó mà vốn dĩ nó không thuộc về mình. Nên đó là lí do mà mẹ tôi đặt tên cho tôi là liễu thị lễ mai.

Khi tôi lên chín tuổi, có một lần tôi nhốt mình trong phòng suốt mười tiếng chỉ vì một con mèo con trong xóm chết. Mẹ không phạt. Chỉ gõ cửa ba lần rồi để yên. Tối đó, bà làm trứng chiên và canh rau má, đặt cạnh cửa, nói

"nhưng đừng quên ăn nhé?."

Với suy nghĩ lúc bấy giờ rằng, đó là lúc tôi yêu mẹ nhất. Không phải vì món ăn, mà vì cách bà không cố gắng lê lết tôi.tôi khỏi nỗi buồn đeo bám đang hình thành một vật chất đen ngòm ăn sâu vào trong từng thớ não động lại trong tôi.

Năm tôi mười ba, mẹ ho rất nhiều hơn. Mỗi lần bà ngồi trên ghế sofa là lại lấy tay che miệng như thể đang giấu điều gì đó có thể lây lan ra được. Rồi một đêm, cái đêm của thành phố nơi một ánh đèn vốn chập chờn ở khu phố đông đúc, ánh đèn mà một vài lũ trẻ con cá cược với nhau xem liệu nó sẽ tắt khi nào? hoặc tệ hơn, rằng nó sẽ được thay thế khi nào? bà không dậy nữa. mãi mãi.

Tôi không khóc. Người lớn nghĩ rằng tôi còn quá nhỏ để hiểu những gì đã và đang diễn ra xung quanh. Nhưng tôi chỉ sợ rằng nếu mình khóc, nỗi buồn sẽ trôi hết ra ngoài, cái nỗi buồn là thứ duy nhất mà tôi có. Nó được bộc trong lớp vỏ ngoài thờ ơ hoàn hảo, Và khi cái vật chất đen ấy biến mất. Tôi sẽ chỉ còn là một tiếng sáo rỗng tuếch.

Cha tôi, ông ấy về vào ngày đám tang. Ông mặc đồ vest, tóc bôi sáp, mang theo một người phụ nữ lạ mặt không nói tiếng Việt. Sau khi mọi thứ xong xuôi, ông gọi tôi ra ban công, nhìn xuống sân, và nói với tôi điều mà tôi đã mong đợi bấy lâu sau lễ tang.

"Mày không cần phải sống với tao nữa. Từ đây về sau tao sẽ gửi tiền hàng tháng. Mày đủ lớn rồi nhỉ?."

Tôi gật đầu, ánh mắt dìu xuống. Ông rít thuốc. Gió thổi tàn bay khắp cả khu phố.

Tôi không nghĩ mình thấy tổn thương sau tất cả. Chỉ là từ đó, tôi bắt đầu tin rằng sự có mặt của mình không cần thiết. Rằng mình sẽ là một nhân vật quần chúng luẩn quẩn quanh câu chuyện này. Cứ đầu thai mãi không dừng chân được. Kể từ giờ phút này.

Ba tháng sau. Tôi chuyển về căn phòng trọ hiện tại. Mỗi tháng, ông chuyển đúng ba triệu năm trăm ngàn. Không hơn một xu, một đồng. Nhưng vẫn dư một ít sau khi trả toàn bộ chi phí sinh hoạt trong tháng. Tôi học cách hiện sinh bằng số tiền ít ỏi đó. Sáng đi học, tối đi làm, đêm về thì chơi bass trong phòng mà tôi coi như một sân khấu không bao giờ chào đón khách hàng. Cứ thế trong vài năm.

Nhưng dạo gần đây, có gì đó lạ trong tôi. Như một nếp gấp nhỏ ở trong đầu không chịu duỗi thẳng lại. Hôm trước, khi một người lạ chen lên xe buýt trước tôi, tôi đã nghĩ

"Giá như ông ta ngã xuống đường."

Chỉ là một suy nghĩ thoáng qua nhưng đủ nhanh để bộ não ghi nhớ mãi trong ngày hôm đó, nhưng rõ ràng. Không nhuốm cảm xúc ăn năn, không hối tiếc. Và điều khiến tôi lạnh gáy, là tôi không cảm thấy sai. Tôi vô tội

Tôi đã nghĩ như vậy, và chỉ quay đi, không phản ứng gì nữa. Nhưng đêm đó, tôi lại nghe thấy âm thanh kia trong mơ. Cái âm thanh va đập của chiếc ly thuỷ tinh vào thành bồn tắm. Rõ hơn. lặp lại nhiều hơn. Như tiếng móng tay gõ nhẹ lên trán mình, bảo:

"Thử lại đi. Thử cảm thấy nhiều hơn một chút."

Tôi thức dậy với cổ áo ướt đẫm mồ hôi nhễ nhại. Dưới giường, dây bass bị đứt. Dây thứ ba. Tôi không biết có phải chuột cắn hay do tôi đè lên lúc ngủ. Nhưng nó đứt. Và tôi thấy mình thở ra rất khẽ, nhẹ như một tiếng cười. Ít ra nó không gẫy cổ đàn nhỉ?

...

Sáng hôm sau, ở lớp, Huỳnh Trường Như không trêu chọc tôi như mọi hôm nữa. Hôm nay Cô ấy đang đứng ở hành lang, nói gì đó rất nhỏ với một giáo viên chủ nhiệm, ánh mắt không giống mọi khi không châm chọc, không hằn học, mà lạc hướng như một con ngựa vừa lỡ bước khỏi nơi chốn manh cỏ quen thuộc.

Tôi không biết tại sao mình lại khựng đứng lại sau giờ học. Huỳnh Như đang khóc. Nhẹ. Tôi thấy mình đứng từ xa, không bước đến, không tránh đi, chỉ đứng nhìn. Và rồi tôi nghĩ

"Cô ấy yếu hơn mình tưởng."

Tôi quay đi, chỉnh lại quai cặp. Nhưng một phần trong lòng con người nhỏ bé này, một phần nhỏ nhoi cảm thấy hả hê. Một phần rất nhỏ. Nhưng rất thật.

Và đêm đó, tiếng âm thanh trong mơ vang lên, lần đầu có hình. Một cái bóng mảnh khảnh, gầy, đứng giữa căn phòng không cửa sổ, ngoảnh mặt về phía tôi. Thứ kì dị không biết tốt xấu. Nhưng tôi biết chắc chắn rằng nó mang cho mình hoạ. Nó hỏi

"Mày thấy gì trong mắt nó?"

Tôi không đáp nhưng sững người. tôi biết tôi đã thấy chính mình, khi còn nhỏ. Là nó, đôi mắt đó, đôi mắt mơ hồ rỗng tuếch đó.

Tối hôm đó, khi đến cửa hàng, tôi thấy đèn đã tắt nhưng cửa lại mở hé. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào. Không gian mờ tối, chỉ có ánh sáng xanh từ chiếc máy chỉnh dây phát ra như một đốm mắt cá chết. Tôi gọi một tiếng, "Anh Bằng?" nhưng không ai trả lời.

Tôi bật đèn nhỏ ở góc lau đàn. Trong khoảnh khắc ánh sáng bật lên, tôi thấy anh đang ngồi ở ghế sofa trong góc, lưng hơi gù, tay chống trán như người vừa trở về từ một nơi xa. Gần giống với một nỗi lo âu dễ bắt gặp trước những người vừa nhỏ vừa lớn tuổi như anh bằng. Cái độ tuổi không còn đi học nhưng cũng chẳng lớn để tự mình kiếm tiền mua xe.

"Em tới rồi à." Giọng anh đục và khàn.

Tôi không trả lời. Tôi ngồi xuống ghế bên cạnh, rút cây bass ra khỏi bao, bắt đầu lau. Mỗi động tác đều quen thuộc như một thói quen tẩy não nhẹ nhàng. Nhưng rồi tôi nhận ra anh không nhìn tôi như mọi lần. Ánh mắt anh đặt vào cây đàn tôi cầm, như thể thấy thứ gì đó đã từng thuộc về anh.

"Hồi bằng tuổi em, anh cũng chơi cây giống vậy. Màu đen, cổ dài hơn chút, phím hơi lún vì đánh nhiều."

Tôi ngẩng lên. "Rồi sao nữa?. Anh bỏ chơi lúc nào vậy?."

Anh im một lát. Rồi nói, "khi nhận ra vốn dĩ mình không. Muốn trốn nữa."

Tôi không hiểu. Nhưng cũng không hỏi tiếp.

"Em biết không," anh nói, mắt vẫn nhìn xuống "nhiều người cứ nghĩ tiếng bass chỉ là nền. Nhưng nếu nền đó lệch đi, nguyên bài nhạc sẽ lệch theo. Nó âm thầm dẫn dắt mọi thứ. Và nếu nó lạc như em chẳng ai sửa nổi."

Tôi ngừng tay. Cảm giác sống lưng lạnh đi một chút.

"Có lần anh đánh sai một nốt trong buổi diễn cuối cùng. Chỉ một nốt thôi. Nhưng nó làm anh nghe ra chính mình đã lệch khỏi bài nhạc cả năm trước đó rồi. Từ hôm đó, anh không chơi nữa."

Tôi không rõ vì sao anh kể cho tôi điều đó. Nhưng có gì đó trong ánh mắt anh lúc đó giống tôi: một thứ gì đã vỡ, và vẫn chưa chọn xong giữa việc gắn lại hay để nguyên.

Tôi hỏi, "Anh còn nhớ nốt anh đánh sai không."

Anh cười. "Nhớ. Nó là một Fa. Nhưng đáng lẽ phải là Mi giáng."

Tôi gật. Không vì hiểu, mà vì tôn trọng ký ức đó.

"Thỉnh thoảng, anh nghĩ mình nên chơi lại. Nhưng mỗi lần cầm đàn lên, cổ tay anh run. Không phải do tai nạn. Mà vì anh sợ sẽ đánh đúng. Nếu anh đánh đúng, thì hoá ra suốt từng đó năm bỏ đàn là vô nghĩa."

Tôi chạm nhẹ vào dây bass. Dây hai. Một tiếng trầm rung lên trong không gian im lặng.

"Em không sợ đánh đúng. Em chỉ sợ không còn nghe."

Lần đầu tiên, anh nhìn thẳng vào tôi sau ba tuần kể từ lúc chiếc cổ đàn gẫy.

Rồi anh nói, "Đó là lý do anh thuê em, dù em không nói gì trong buổi phỏng vấn. Em nhìn cây đàn như cách người ta nhìn về một vết thương lâu năm. Em không muốn quên. Chỉ là... quen sống cùng với nó qua từng ấy năm."

Tôi mím môi. Đột nhiên thấy cổ họng nghẹn lại.

Anh đứng dậy, rót nước từ chiếc bình thủy, đặt một cốc trước mặt tôi.

"Mai nghỉ đi. Anh dọn hàng giúp. Về nhà ngủ một giấc dài vào."

Tôi cầm ly nước trên tay không uống. Bên trong phản chiếu mờ mờ mặt tôi và phía sau, cây bass đen huyền dựng đứng như một cái bóng.

Tôi nghĩ, có lẽ tôi không cô độc như mình tưởng. Nhưng điều đó không khiến mọi thứ bớt trầm đi. Nó chỉ làm nốt trầm nghe rõ hơn một chút. Có lẽ anh Bằng đang rất lo ngại cho tuổi thanh xuân của tôi.

Tôi về nhà lúc gần nửa đêm khi chỉ còn vài ánh đèn lấp ló qua ô cửa kính công ty. Trời không mưa, nhưng gió thổi mạnh, mang theo mùi sương ẩm và khói bếp từ mấy khu trọ lân cận. Tôi treo cây bass cạnh cửa, bước vào phòng tắm rửa qua loa, rồi bật đèn ngủ. Ánh sáng cam nhạt làm căn phòng trông như bức ảnh bị phơi quá tay.

Tôi nằm xuống, nhắm mắt lại, cố không nghĩ gì. Nhưng chỉ vài phút sau, tôi nghe thấy tiếng bước chân. Không rõ. Không đều. Như ai đó đang bước chậm trên sàn nhà có nhiều lỗ lõm, nhiều vết nứt.

Tôi mở mắt. Không ai cả. Chỉ là ánh sáng đèn ngủ phản chiếu từ tấm kính tủ. Nhưng khi tôi quay đầu, tôi thấy mình trong gương và bóng sau tôi là một cô gái tóc dài, đang đứng rất yên. Gần như dính vào bức tường.

Tôi bật dậy, tim đập mạnh. Không có ai. Gương trống trơn. Phòng vẫn yên ắng. Nhưng tim tôi thì không. tôi dựa lựng vào góc tường nơi dễ quan sát không góc chết. Tôi ngồi thở đều. Rất lâu. Khi bình tĩnh lại, tôi viết lên tờ giấy nhỏ dán cạnh bàn học:

"Nếu thấy điều gì đó lạ hãy nhắm mắt và đếm đến năm. Nếu nó vẫn còn, thì đừng tin mắt mình nữa."Liễu Thị Lễ Mai – một nữ sinh sống cô lập, bị bắt nạt và mang trong mình quá khứ u uất. Mỗi đêm, cô chơi bass trong cửa hàng guitar để quên đi thực tại. Nhưng rồi những ảo giác, tiếng nói lạ và cảm xúc đen tối dần trỗi dậy, cuốn cô vào hành trình đối mặt với bản thân, tội lỗi, và câu hỏi: liệu mình có thật sự vô tội?

Đêm đó, tôi ngủ với cây bass để sát lồng ngực, không còn treo cạnh cửa. Mà là treo ngay trái tim khô cằn nặng trĩu chông gai này. Như một thứ gì đó còn thực, còn nặng tay, và không thể hiện ra bất cứ hình dạng ma quái nào. Không còn sự loạn trí nào.

...

Buổi sáng hôm sau, trời không nắng. Không mưa. Không một chút ban mai. Chỉ là một thứ ánh sáng xám xịt phủ khắp sân trường như một lớp bụi mịn không thể phủi đi.

Tôi đến lớp sớm. Trên bàn tôi có một tờ giấy gấp tư. Không ghi tên. Không mùi. Không dấu hiệu của bất kỳ ai quen tay gấp kiểu này.

Tôi mở ra. Bên trong là một câu duy nhất, viết bằng bút chì đậm:

"chết đi"

Không chữ ký. Không dòng thứ hai. Giấy không cũ, không mới, chỉ hơi cong ở mép như đã được đặt trong tay ai đó quá lâu trước khi bị thả xuống. Tôi cầm tờ giấy rất lâu, rồi xé nó ra làm ba phần, nhét vào túi. Không vứt.

Trong đầu tôi không có ý nghĩ rõ ràng nào về thủ phạm. Có thể là Huỳnh Trường Như. Có thể là một người ngoài lề. Cũng có thể là một ai đó vô danh trong lớp mà tôi chưa bao giờ nhìn thẳng mặt. Nhưng điều khiến tôi rùng mình không phải là câu chữ. Mà là cảm giác nó đúng.

Tôi từng nghĩ mình là người vô tội. Không bắt nạt ai. Không đáp trả ai. Không khuấy động thứ gì. Một con người bị động chỉ tồn tại. Chỉ đi học. Chỉ làm việc. Chỉ cô đơn trên chính chiếc giường của mình mỗi tối. Nhưng có một vết trong lòng tôi âm ỉ, xám như vết mực cũ từng nói với tôi rằng, tồn tại mà không phản ứng cũng là một dạng đồng lõa.

Tôi nhớ lại một lần khi còn học cấp hai, có một bạn nữ bị các bạn nam trong lớp trêu chọc đến mức sợ đi học. Tôi ngồi bàn cuối, không làm gì. Không lên tiếng. Không góp vui. Nhưng cũng không bước ra khỏi lớp để ngăn lại hay tìm thầy cô. Tôi chỉ nhìn theo, giống như nhìn một con ruồi bị mắc trong mạng nhện. Và khi bạn đó chuyển lớp, tôi đã thở phào nhẹ nhõm.

Lúc đó, tôi nghĩ, ít nhất chuyện đó không xảy ra với mình. Giờ tôi mới hiểu: nghĩ như thế, nghĩa là tôi đã chấp nhận cho qua, sự vô tâm có đồng thuận này làm tôi đến bây giờ phát ngán.

Tôi nhét ba mảnh giấy vào hộp bút. Trong lòng có gì đó lặng đi một nhịp. Không phải tội lỗi mà là một thứ giống như tảng đá bị nhấc khỏi bề mặt, để lộ lớp rêu và những sinh vật đen bên dưới.

Tiết học trôi đi như nước chảy qua vết nứt. Tôi không nghe được một chữ nào. Chỉ còn lại âm thanh gõ đều của phấn lên bảng, tiếng lật sách, tiếng thở dài.

Đến giờ ra chơi, tôi ở lại trong lớp. Không ai nói chuyện với tôi. Nhưng tôi không thấy cô độc. Cô độc là một thứ gì đó xa hơn, lạnh lẽo đeo bám hơn. Còn thứ tôi đang cảm thấy giống như bị nhúng tay vào nước ấm và không dám rút ra, sợ lạnh đột ngột sẽ làm mình run lên. Nói cách khác, phải lòng với nỗi cô đơn.

Tôi úp mặt xuống bàn, nhắm mắt. Trong một thoáng, tôi thấy lại hình ảnh cô gái trong gương đêm qua tóc dài, đứng yên như tượng, nhưng mắt cô ấy thì dõi theo tôi. Không đe doạ. Không buộc tội. Chỉ nhìn như thể đang đợi tôi nhớ ra điều gì. Tôi không thể mở mắt, cơ thể này đã bị bào mòn đến mức ý thức đã muốn rời bỏ nó đi.

Một tiếng chạm nhẹ vào bàn khiến tôi mở mắt. Là Huỳnh Trường Như.

Cô ấy không nói gì. Chỉ nhìn tôi. Tôi cũng không nói gì. Cả hai không mấy lảng tránh. Cho đến khi đầu tôi lui về phía sau.

Rồi cô ấy bỏ đi, không để lại gì, không thêm động tác nào. Cứ thế mà đi ra khỏi lớp, để lại một khoảng im lặng bị kéo căng như dây đàn vừa bị vặn quá tay. Tôi rút ba mảnh giấy trong hộp bút ra, sắp lại như cũ.

Trong đầu tôi có một ý nghĩ rất rõ: nếu ngày mai có một tờ giấy nữa, tôi sẽ không xé nó ra.

Tôi sẽ giữ lại.

Tôi sẽ nhớ lại.

Tôi sẽ lại không vô tội.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận