Tập 01: Đối Đầu
Chương 00: Khởi đầu cho một lịch sử của khối quốc gia - Phần 2
0 Bình luận - Độ dài: 9,953 từ - Cập nhật:
-Raipur, ngày 29 tháng 4 năm 2068-
“Vô vọng, bị động, và đơn độc....” Chỉ ba từ, là đủ để diễn tả tất cả những gì đang hiện diện ngay tại đây, nhất là trong cái thời điểm căng thẳng này.
Droupado thuộc sư đoàn 42 lực lượng lục quân và Murmu thuộc đội biên phòng số 89 ở Rajasthan là hai trong số những con người thấu hiểu rõ điều này nhất, khi chiến trường vốn đang rất ác liệt và hoàn toàn lệch hẳn về một phía, kể từ khi ‘cuộc thập tự chinh’ của những kẻ mang màu da trắng sáng trên vùng đất tôn giáo này. Họ gặp nhau cách đây gần năm mươi ngày trên chuyến bay tải vận cùng tâm thế tử thủ trên những gì còn sót lại tại mảnh đất của tổ tiên. Hạ cánh xuống Raipur, ai cũng mệt mỏi khi vừa thoát chết khỏi mặt trận cũ thì lại bị mang ra làm khiên thịt ở nơi khác. Nhưng với cấp hàm của một sĩ quan tầm trung hoặc hạ sĩ quan, thì mệnh lệnh của những kẻ ở cao hơn là tuyệt đối. Và đối với thực trạng hiện tại, đào ngũ chính là phản quốc.
Raipur từng là một thành phố hành chính chính của bang, đồng thời cũng một trong những thủ phủ kinh tế mới tọa lạc tại quốc gia theo đạo Hindu này. Những tòa nhà chọc trời vừa xây, những tuyến đường rộng rãi đến tận tám làn đường, những ngôi đền tích hợp công nghệ nhằm thúc đẩy tín ngưỡng, cùng những dòng người tấp nập trên những tuyến phố sang chảnh của thành phố. Nhưng đó là chuyện của ngày hôm qua. Hôm nay, các sĩ quan đang hò hét, giọng bực tức khi la hét và cố gắng dàn quân vào vị trí. Các vị trí tập hợp được đánh dấu ở khắp mọi nơi, từ nền đất đến những tấm bảng đen cũ. Trong những căn lều chỉ huy dã chiến, tiếng ồn ào vang vọng khắp nơi, từ tiếng chửi rủa và lăng mạ kẻ địch đến tiếng cãi nhau khi các sĩ quan chỉ huy bất đồng về quan điểm. Trong khi đó, khung cảnh bên ngoài thì ổn hỗn loạn hơn khi các binh sĩ đang chạy đôn chạy đáo trên những khối kiến trúc đổ nát, tay cầm theo trang thiết bị quân dụng và luôn trong tình thế sẵn sàng bị tấn công.
“Lạy thánh Shiva, tất cả đều đổ dồn về đây à?” Droupado lên tiếng sau khi bước xuống từ máy bay chuyển quân.
“Nghe bảo cấp trên muốn tử thủ tại đây!” Murmu lên tiếng, trong khi di chuyển phía sau gã.
Cả hai bắt tay sau khi gặp lại nhau. Đối với những người đàn ông mà thời gian sống của họ chỉ còn tình bằng ngày, như vậy là đủ. Dưới lệnh của viên đại tá chỉ huy, họ di chuyển đến vị trí chỉ định của phân đội. Phân đội này không nhiều, có vẻ những người khác đang trên đường đến đây, hoặc chuyến bay vận chuyển của họ đã bị bắn hạ và nổ tung dưới bầu trời của các vị thần. Dù sao thì còn gì tuyệt với hơn được hội ngộ với đức tin trong tâm hồn của mỗi con người.
“Sallar Hur, sư đoàn 19 thuộc lực lượng thuỷ quân lục chiến!”
“Kallar Rasta, lục quân, sư đoàn 87!”
“Droupado Kumar, sư đoàn 42 lục quân. Còn đây là Murmu Das, đội biên phòng số 89.”
Và cứ như thế, từng người, từng người lần lượt giới thiệu về bản thân mình. Mỗi con người, mỗi cái tên, tất cả đều mang theo chúng cùng với đơn vị của họ, cũng như lòng trung thành mà mỗi người con dành cho đất nước và niềm tin vào sự dẫn dắt của những lãnh đạo đứng đầu. Và đặc biệt hơn, kể từ khi chiến tranh bỗng dưng ập xuống vùng đất thánh này, tất cả những cái tên đi kèm với đơn vị đó, nó không còn là những đoạn giới thiệu bình thường, mà gần như trở thành kỷ vật cho mỗi người lính. Vì ít nhất, kể cả khi tất cả có tan xương nát thịt, thì những kẻ ở lại cũng không quên người từng đứng cạnh là ai. Đúng vậy, những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của những gã lính này. Ít nhất mỗi nấm mồ cũng nên có một cái tên!
Mỗi ngày cứ trôi qua, và cứ một ngày, thì phân đội lại ít thêm một chút. Vậy là đã mười tám ngày trôi qua tại chiến trường Raipur, phân đội giờ đây chỉ còn vài người còn sống. Vì lý do đó, chỉ huy trưởng đã gom những tên còn sót lại vào một phân đội khác cho nhiệm vụ kế tiếp. Và tất cả đều được nhận một phần thưởng cho những ngày cố tồn tại của họ, một đêm không gác. Đối với những người đàn ông này, đôi khi những khoảng nghỉ như vậy là tất cả những gì cả lũ cần. Vậy nên, họ tự thưởng cho bản thân mỗi người một lon bia từ cái máy bán hàng đã hỏng gần điểm đóng quân, một chén cà ri ăn liền thơm lừng xin được từ bếp ăn dã chiến, và cây đàn ghita cũ rích chôm từ phòng chỉ huy. Bốn người ngồi quây quần bên nhau như thể họ đã cùng tiến bước hơn chục năm, dù chỉ vừa gặp cách đây gần ba tuần. Từng người kể về câu chuyện của họ, về gia đình, bạn bè, cho đến những gì tất cả đã chứng kiến ngay khi phát súng đầu tiên nổ ra, thật ấm cúng.
“Ai mà ngờ được tụi nó lại đảo chính, đã thế còn kéo theo đám khỉ trắng vào!” Kallar lên tiếng.
“Lạy thánh Shiva! Nên giờ nơi này chẳng khác gì cái bãi thử nghiệm vũ khí cho tụi nó.” Droupado hớp một ngụm bia, gã cố gắng chỉ nốc một ngụm thật ít, để dành phần cho đêm dài.
“Mẹ nó chứ, trang bị kiểu này thì chưa thành bãi thịt là còn may, chứ nói gì đến dập được tụi nó” Sallar vẫn đang hí hửng với chén cà ri của gã.
“Mà này Murmu, tao nghe bảo ở biên giới lúc đó, tụi nó chơi cả người máy à?” Gã quay sang Murmu, người đang ngồi trầm ngâm.
“Ừ, nghe chỉ huy bảo đấy là chiến giáp gì gì của tụi nó. Nhưng tao thấy nó giống như giáp cho người mặc thì đúng hơn! Gần cả đội của tao nằm dưới chân thằng đó”
“Mà nó trông như nào?”
“Tụi bây nhớ cái phim người sắt hồi xưa hay xem không? Y thế, có điều nó nhanh và bắn toàn plasma với laser!”
“Mẹ nó nghe hiện đại vãi! Chẳng bằng chúng ta, mỗi cây hàng này.” Droupado như hét lên, rồi tạc lưỡi nhìn về cây súng trường đạn năm ly của gã. Dù đây là thế hệ mới nhất được sản xuất nội địa, nhưng so với cái thứ công nghệ của đám khỉ trắng bên kia biên giới, chẳng khác gì lấy trứng chọi với đá.
“Mà này, tao nghe bảo là mấy thằng ở trên đang muốn hợp tác với tụi Đông Nam Á ấy. Hình như tính dùng vũ khí ma pháp gì đó của tụi nó.” Sallar đã đớp sạch cái chén cà ri của gã. Có vẻ cũng lâu rồi, gã mới có một bữa ngon như vậy.
“Cái đồ ăn liền đấy mà mày đớp nhanh thế Sallar? Mà bỏ đi. Hôm trước tao cũng nghe thằng chỉ huy Karlan bảo thế với mấy thằng khác. Mà nhìn mặt căng lắm, nên tao cũng chẳng hy vọng gì nhiều.” Kallar tu một hớp sâu, đến khi lon bia cạn sạch. “Ơ, hết rồi?”
Murmu thấy thế, liền ném lon bia của bản thân về phía Kallar. Gã không thích uống thứ này. Cuộc đời là quá đủ với gã rồi, nên gã chẳng muốn phải tu thêm cái thứ đồ uống mang đậm vị đời này. Kallar chụp lấy, và để đáp lại, gã ném bao thuốc lá về phía người đối diện, kèm một câu cảm ơn chân thành. Đốt điếu thuốc, Murmu hút một hơi sâu, để những dòng khí này ngập tràn trong phổi, để những tiền chất nghiện thấm vào từng mạch máu của gã. Rồi gã nhìn lên trời, ánh mắt xa xăm. Gã nhớ rõ, kể từ ngày mọi đảo chính xảy ra, đám sĩ quan cấp cao luôn mang theo mấy tên lính như cả đám vào tất cả các cuộc chiến, cùng với ba lô, túi đựng đạn dược và đống vũ khí có phần tụt hậu này. Sau đó, cả đám phải giữ chúng thật kỹ, bởi vì một khi cuộc chiến bắt đầu, mọi thứ nhanh chóng mất đi định nghĩa và những gì trong trong này là tất cả những gì họ có. Gã vẫn nhớ cái ngày mà mặt và tay dính đầy bùn và máu đồng đội, phù hiệu đơn vị thì đầy bụi bẩn. Rồi mấy ngày sau, những chiếc áo giáp chống đạn bẩn thỉu hay những cái quần rằn ri và những khẩu súng nằm trơ trọi trên mặt trận. Tất cả đều chẳng thể phân biệt được, và cũng chẳng ai rõ những kẻ như gã còn sống hay đã về với thánh thần.
Và cuối cùng, ngày này đã đến. Raipur đã thất thủ.
Trung tâm thành phố Raipur sụp đổ vào rạng sáng ngày 28 tháng 5, tức gần một tháng sau khi hệ thống phòng thủ đô thị được triển khai. Sáng hôm đó, những vụ nổ kinh hoàng oanh tạch khắp mọi nơi, khi những cỗ máy của kẻ thù, những drone AI tự hành, những cổ xe tank hiện đại, những chiến cơ với công nghệ tối tân tràn vào từ phía tây nam của thành phố. Raipur rung chuyển, như thể chính thành phố đang gào thét trước một lực lượng hùng hậu như này. Tuyến phòng thủ số 9, nơi bốn thành viên trong phân đội đóng quân, tan rã chỉ trong chưa đến một giờ. Hệ thống chiến hào phân bổ khắp thành phố vỡ vụn hoàn toàn, để lại dư âm của mùi máu và mùi thịt cháy khét của tử thi trong không khí. Hệ thống liên lạc vô tuyến chết cứng. Không còn mệnh lệnh, không còn chỉ dẫn. Chỉ có khói và tiếng gầm của xe tank địch đang tràn ngập mọi tuyến đường.
Họ cố chạy, cùng hàng nghìn người khác, qua những con phố ngập gạch vụn và xác người. Bầu trời đen kịt bởi khói và phi cơ tiêm kích hiện đại đang bắn hạ những con mồi cổ lỗ sĩ. Những chiếc đèn đỏ của chúng lấp ló khi khai hoả từng loạt tên lửa như những sợi thòng lọng đang quấn lấy toàn bộ lực lượng không quân. Từng tiếng nổ vang dội trên nền trời, nối tiếp là những tiếng hét kinh hãi khi một chiếc tiêm kích phe ta rơi thẳng vào đoàn binh lính đang tử thủ. Rồi tiếng động cơ gầm rú, tiếng kim loại va vào đá, tiếng người hét lên trước khi bị nghiền nát. Không ai tin rằng nơi đây, một trong những phòng tuyến quan trọng của lực lượng chính quy, cũng là nơi họ đặt chân đến chưa đầy một tháng trước, đã thất thủ. Nó đã sụp đổ, và với nó, cánh cửa cuối cùng dẫn đến sự tuyệt diệt của cả một hệ thống chính trị đã mở toang.
“Không còn tiếp viện!” Kallar gắng gượng nói, giọng gần như lạc đi vì kiệt sức. “Chúng ta toi rồi.”
“Còn sống là còn chạy. Thánh Shiva không để cả đám chết ở đây đâu.” Droupado cố nắm lấy vai gã, thúc lên cùng với Murmu.
Tất cả cố chạy đến đền Dudhadhari Math, một công trình kiên cố ở gần trung tâm thành phố, nơi được đánh dấu là tuyến phòng thủ cuối cùng. Đại úy Sanjay Gupta thuộc lực lượng phòng không không quân dẫn đầu, nhưng gã hiện tại không còn là chỉ huy, mà chỉ là một tên đàn ông đang hét lên giữa tiếng súng, cố để giữ đội hình rút lui không bị tan rã. Năm trăm binh sĩ lê bước qua đống đổ nát, vấp ngã, bị bắn, bị bỏ lại. Một số khác thì đang đào ngũ vì quá tuyệt vọng. Họ chắc chắn sẽ chết hoặc bị đẩy lùi trong phạm vi hai trăm mét, hoặc cố chạy vào những con hẻm tối tăm chỉ để bị đám chó săn của bọn khỉ trắng săn lùng. Rồi từng người, từng người buông súng. Ngược lại, những kẻ đang cố nắm lấy sợi dây của hi vọng lại cảm thấy thật tồi tệ khi phải chứng kiến những người cùng chiến tuyến ngã xuống. Những người lính vô danh, danh tính của họ đã mất đi như bị phủ một lớp màng đầy tro, và cũng chẳng ai còn có thể nói được danh tính cùng với đơn vị của mình. Những người đó, có người chọn ngồi trước ngưỡng cửa của một cửa hàng, người thì bên những bức tường đổ nát, kẻ thì lặng lẹ trong bóng tối hôi hám của đường hầm. Một số thì lại kề súng vào miệng hoặc rút chốt trên quả lựu đạn cuối cùng. Vì chỉ có gặp mặt tử thần là điều duy nhất có thể làm lúc này. Nhưng hầu hết chỉ ngồi, để bị băng hoại bởi sự tuyệt vọng. Không ai đứng dậy nổi. Những kẻ đó bị bỏ lại phía sau. Họ ngồi cho đến khi tử thần gõ cửa, và việc đó chẳng tốn mấy thời gian. Tất cả chỉ còn là những cái bóng, chờ đợi chiến tranh bóc trần.
Và hi vọng, thì luôn luôn đi muộn một bước, đặc biệt là dành cho những kẻ còn chút ý chí cuối cùng. Pháo kích từ trên cao bắt đầu đổ xuống từ mọi phía. Tiếp đến là những cỗ máy khổng lồ, những mẫu xe tank mang ụ súng plasma, bước qua các tàn tích đổ nát, rồi nghiền nát những thứ còn sót lại dưới lớp bánh lăn chục tấn. Những tên lính ngồi trong đó, chúng không còn là con người, không phải là máy móc, mà là thứ gì đó tệ hơn. Là những cỗ máy chiến tranh mang nhân dạng đã học được cách tận hưởng cảm giác được hủy diệt những tên thấp hèn trong cùng giống loài. Từng phát đạn của thứ vũ khí năng lượng ấy nghiền nát mọi thứ đến tận cấp độ phân tử, mỗi phát bắn đều làm mặt đất rung chuyển, làm tan biến tất cả dù cách xa hàng trăm mét.
Rút lui được một đoạn, thì mọi chuyện lại càng tệ hơn. Kẻ thù xuất hiện từ phía bắc, không chỉ drone mà còn một thứ đáng sợ hơn, thứ đã chôn vùi sư đoàn của Murmu dưới bốn tấc đất, những bộ chiến giáp. Chúng được trang bị kỹ càng đến tận răng. Những bộ giáp được đóng từ những lớp e-carbon tân tiến, thứ công nghệ vật liệu bất chấp mọi loại súng đạn, thêm những cục pin năng lượng đang phát ra thứ ánh sáng xanh lè trên lưng. Chúng đồng loạt lên đạn. Những khẩu súng ngoại hình không khác gì một cây MSR, nhưng đấy không phải những cây bolt-action đã bị khai tử từ những năm 2020, mà là một dạng súng năng lượng tân tiến, phát ra những tia sáng xanh biếc khi lên nòng. Chúng nhắm mục tiêu, rồi bóp cò. Không phải chỉ một người nằm xuống, mà là một nhóm phải nằm xuống, khi từng dòng năng lượng xuyên thấu lồng ngực của đồng đội rồi để lại một cái lỗ to bằng cả lòng bàn tay. Một thứ vũ khí ghê rợn mà đám khỉ trắng đã quyết định thử nghiệm và thực nghiệm trên vùng đất thánh này.
Khói khắp mọi nơi. Bụi mù. Máu bốc hơi. Tiếng bước chân. Tiếng nổ và tiếng gầm liên tục của vũ khí. Rồi tiếng của một thứ gì đó khi chúng đập mạnh vào da thịt. Ai cùng đoán được rằng một người đồng đội vô danh khác đã dính đạn. Rồi một tiếng đấm đi kèm với một tiếng thở hổn hển khi không khí bị ép ra khỏi phổi. Kế tiếp là mùi hôi thối nồng nặc của vải cháy và máu, bên cạnh là các cơ quan nội tạng bị đốt cháy và gần như tách ra khỏi cơ thể để tràn ra ngoài. Tất cả những kẻ sống sót đều học được âm thanh đó rất nhanh dù cho chưa biết nó, vì nó lặp lại hàng chục lần mỗi phút, tính từ khi nơi này sụp đổ.
Droupado nắm lấy tay áo bạn mình rồi sốc họ lên và cùng nhau chạy. Những người khác cũng chạy. Khi không có chỗ nào che chắn. Cả đám trườn lên một đống gạch vụn, những viên đạn găm phầm phập vào những mảnh vụn rối rắm xung quanh họ. Và sau đó, bằng một lời kêu gọi vô hình, Sallr đã quay đầu nhìn lại. Gã đã ước rằng lẽ ra bản thân không nên làm thế.
Thứ gã thấy, chính là cảnh đại uý Sanjay Gupta dẫn hai trăm người đi sai hướng, lao thẳng vào ổ phục kích. Những chiến giáp mạnh mẽ, phủ bộ giáp đen bóng để bảo vệ ‘phi công’ bên trong, bước ra từ khói. Giáp của chúng loang lổ là vết máu, một số khác khắc từng dấu lên như một chiến lợi phẩm. Chúng lao vào đám đông của Gupta bằng động cơ phản lực phía sau. Và chiến đấu, chưa bao giờ tồn tại trong định nghĩa của chúng. Chỉ có hai chữ tàn sát. Lưỡi kiếm plasma rít lên, xẻ thịt thành mây máu. Những tên đồng đội từ đơn vị khác chỉ đứng nhìn và reo hò, như khán giả đang tận hưởng bữa tiệc xác thịt của đám súc vật từ dân tộc bản địa.
Rồi gã thấy chúng nhắm đến chỗ nhóm của Đại úy Hajjar. Gã nhìn thấy Hajjar và những người xung quanh la hét và bắn đạn trong vô vọng để cầm chân đối phương. Và họ đã thất bại. Những chiến giáp mặc giáp đen lại lao vào đám đông, xuyên qua tất cả bằng những thanh kiếm plasma hoặc cưa năng lượng trên tay. Chúng lao vào như đoàn một đoàn tàu mất thắng, rồi tông vào đám người đang hò hét trong tuyệt vọng. Giết mổ. Tàn sát. Đó là những gì mà Sallar muốn quên đi sau ngày hôm nay.
“Chạy!” Murmu hét, kéo Sallar lên dốc. “Chúng ta phải đến được đó”
Những tên sống sót bò qua những xà nhà gãy gập của một tàn tích đã sụp đổ, chỉ còn ba mươi người sống sót. Và ba mươi người này đã không phạm sai lầm như đại uý Gupta, cũng không tuyệt vọng như đại uý Hajjar. Cả đám tiếp tục bò, đến khi trèo lên được một mái nhà đã đổ gần đó. Sự thật là cái mái nhà này đã chẳng còn. Một công trình kiến trúc khổng lồ khác đã sụp đổ, không còn lại gì ngoài khung dầm và cột vươn lên từ biển gạch vụn vỡ vụn. Trước khi lên được đây, họ bắt đầu bò dọc theo các xà nhà, khoảng ba mươi người xếp thành hàng một, bò dọc theo hành lang dầm rộng một thước. Mọi người trượt chân ngã, hoặc bị trượt té bởi dầu ở bên dưới. Một số đỡ theo những người khác khi họ cố gắng bám trụ. Họ đều đã trải qua nỗi sợ hãi. Nhưng dần dần, chúng chẳng còn quan trọng nữa. Ngay phía sau tiếng rít của lưỡi kiếm và tiếng gào của kẻ thù vẫn vang lên.
Murmu suýt ngã nhưng Kallar đã bám lấy gã và dìu lên phía trên. Sau khi rời khỏi nóc nhà, cả đám đến được một hội trường được trang trí tinh xảo. Họ là một trong những người đầu tiên làm được điều này. Họ quay lại nhìn những người bạn của mình, những người chiến hữu còn sống đang bám chặt như đàn kiến vào những xà nhà hẹp. Họ đưa tay ra, nắm lấy tay, đưa một số người đến nơi an toàn.
Ở phía xa, một cỗ xe tank hiện ra, to lớn như một con thuỷ quái trong những bộ truyện viễn tưởng, giáp xanh lè vì những dòng năng lượng đang lấp ló trong làn khói. May mắn là nó không nhắm vào họ, mà chỉ đi ngang qua để tìm thứ gì đó lớn hơn trước khi huỷ diệt. Nhưng “mỗi bước chân” của nó đủ làm mặt đất phải rung rên vì lo sợ, mỗi phát súng làm không khí phải trở nên bỏng rát vì tổn thương. Tiếng ồn như muốn đi xuyên qua màng nhĩ trước khi phá huỷ hoàn toàn hệ thống thần kinh của bất kỳ kẻ xấu số nào.
Họ vẫn đứng trên cái hội trường đổ nát này, vẫn là ba mươi người đó vì cả đám chẳng ai biết nên đi đâu rồi về đâu. Các tòa nhà xung quanh đang cháy rụi, đường phố thì ngập gạch và xác, trong khi đền Dudhadhari Math giờ đây chỉ còn là một nắm tro tàn.
“Chúng ta nên quay lại!” Droupado quỳ xuống, nhổ ra bụi và máu. “Tử thủ”
“Tử thủ bằng cái gì? Đối đầu lại chúng à?” Seller nhìn gã, mắt mờ đi vì khói.
“Chết ở đây hay chết khi chạy, có khác mẹ gì nhau?” Droupado hỏi. “Tao thà chết khi còn là chính mình.”
“Tao cũng vậy!” Murmu, mũ sắt vỡ nát, máu chảy xuống cổ, gật đầu.
Không ai nói thêm. Họ đứng dậy, nhặt vũ khí, và quay lại con đường đã chạy trốn khi nãy. Nhưng qua làn khói, một bóng dáng đại diện cho cơn ác mộng đã hiện ra. Một chiến giáp, giáp đen cháy xem, khiên chống đạn đầy vết xước, thanh kiếm plasma vác trên lưng. Mắt nó quét qua họ. Rồi không một lời cảnh báo, tên phi công trong bộ chiến giáp giơ khẩu súng năng lượng lên. Một âm thanh tải đạn vang lên ngay sau đó như để khẳng định một điều chắc nịch rằng, thánh thần đang chờ đợi những con chuột ngu si này. Một luồng sáng xanh rực bắn ra, vạch ngang không khí. Rohan Desai từ đơn vị pháo binh số 12 chưa kịp phản ứng, cơ thể gã nổ tung thành một bãi thịt nhầy hoà trộn giữa máu với kim loại. Những người xung quanh hét lên, lùi lại, nhưng chẳng còn nơi nào để chạy.
Aarav Patel từ lữ đoàn số 7 gào lên, giơ súng bắn trả. Đạn trúng vào tấm khiên năng lượng của bộ chiến giáp, rồi bật ra trong bất lực như những giọt mưa rơi trên phiến đá đá. Vikram lao lên, bắn liên tiếp, nhưng hắn chỉ bước tới, không hề chậm lại. Thanh kiếm trên tay lại rít lên, vung một đường cong. Cả hai đã ngã xuống, thân thể bị chém đôi hoàn toàn, còn máu bốc hơi trong không khí bởi nhiệt lượng từ cú bổ. Tất cả đều nhận ra, phản kháng khi này là tuyệt vọng, nó chỉ có thể kéo dài mạng sống thêm vài phút, trước khi đón nhận cái chết bất kỳ tử của tên phi công kia.
Nhưng ý chí của những gã này thì khác. Họ không muốn tin, không muốn nghe. Bản năng sống còn đang thúc đẩy thuỳ não sinh ra một lượng lớn hormone, và thứ đó làm tất cả trở nên ‘điên loạn’. Một gã lính khác, là Kiran Thapa thuộc biệt đội Gurkha số 12 thở hổn hển, tay run khi rút từng quả lựu đạn ở thắt lưng. Môi gã mím chặt, mắt đỏ ngầu, ánh lên nỗi hận thù sâu sắc. Không lời nào thốt ra. Chỉ còn hành động. Gã kéo chốt, cánh tay vung lên chậm rãi. Những quả lựu đạn nhắm thẳng vào còn quái vật trước mắt, xoay tròn, ánh kim loại nháy lên dưới làn khói xám. Vụ nổ bùng lên, những quả cầu lửa đỏ rực xuất hiện nhằm nuốt lấy đống đổ nát, làm mặt đất rung chuyển. Gạch đá văng tứ tung, khói đen cuộn lên như một bức màn che kín ánh sáng.
Tất cả nín thở, mắt dán vào màn khói. Nhiều giây trôi qua. Rồi một tia năng lượng lao thẳng tới, xuyên qua trán của Kiran. Cơ thể gã co giật, rồi bất giác ngã xuống. Kế đó, bóng dáng hùng vĩ ấy của chiến giáp lại hiện ra, giáp đen lấp ló qua làn khói mỏng dần. Những vết xước mới xuất hiện trên lớp giáp, nhưng nó vẫn đứng, bất động. Khe mắt đỏ rực quét qua tất cả. Dapi thuộc đội trinh sát Raipur số 3 đứng gần đó chỉ có thể ngơ ngác nhìn, tay vẫn đang chĩa súng, hoàn toàn không tin vào hành động vô ích vừa rồi của đồng độ. Một luồng sáng xanh khác lại lóe lên từ khẩu súng trên trên tay bộ chiến giáp. Cơ thể Dapi tan rã trong chớp mắt, chỉ để lại một đám tro mịn rơi lả tả xuống nền đất.
Tiếng hét bật ra từ đâu đó trong đám đông, yếu ớt, lạc lõng. “Chạy!” Nhưng đôi chân họ nặng như chì, mắc kẹt trong đống gạch vụn và nỗi sợ hãi về một thứ sức mạnh áp đảo. Bộ chiến giáp ấy vẫn bước tới, mỗi bước làm mặt đất nứt ra, tiếng kim loại va chạm vẫn cứ vang lên. Nó không vội. Không cần vội. Thanh kiếm plasma trong tay tiếp tục bổ xuống, phát sáng ra thứ ánh sáng xanh lam kỳ dị, cùng nhiệt lượng nóng đến mức không khí xung quanh phải trở nên méo mó. Lại một đường vung chậm rãi. Ba bóng người ngã xuống, cơ thể họ bốc cháy trước khi chạm đất, hóa thành tro đen bay lượn trong gió.
Murmu bám vào một mảng tường vỡ, tay đầy máu, kéo Droupado lên. Mặt gã trắng bệch, mắt mờ đi vì đau và kiệt sức, nhưng đôi tay vẫn cố bám lấy Murmu.
“Nhắm vào mắt nó!” Murmu thì thào, giọng khàn đặc, gần như không nghe thấy. Gã giơ súng, ngón tay run rẩy trên cò. Một phát đạn bắn ra, trúng ngay khe sáng đỏ trên mặt nạ của chiến giáp. Khe mắt nhấp nháy, đầu nó khựng lại, như thể bị giật ngược. Một tia hy vọng lóe lên trong lồng ngực của những người còn sống, nhưng nó rất nhỏ bé và mong manh.
Nhưng chỉ một giây. Con quái vật ấy lại gầm lên, âm thanh gầm gú của các động cơ và thứ sắc xanh toả ra từ cục pin năng lượng phía sau khiến không khí cũng phải hoảng sợ. Bung toàn bộ công lực, nó lao tới không một chút do dự, không khác gì một cơn bão. Thanh kiếm plasma tìm đến bụng một tên lính gần đó, là Anil Kapoor thuộc đội công binh Himalayan số 3. Gã ta không kịp hét. Cơ thể thì bị nhấc bổng, treo lơ lửng trên lưỡi kiếm, máu sôi lên vì nhiệt lượng, bốc hơi trước khi nhỏ xuống. Tên phi công ấy lắc nhẹ tay, ném cơ thể sang bên như vứt bỏ một món đồ chơi đã hỏng.
Cuộc săn vẫn cứ tiếp tục, và chỉ còn mười người sống sót. Một phát súng nữa từ ai đó, nhưng đạn vẫn bật ra khỏi giáp, một hành động vô nghĩa. Rồi tám. Một người ngã, đầu vỡ toạc bởi cú đập của tấm khiên. Rồi sáu. Đạn bay qua lại, nhưng mỗi viên chẳng đủ để tạo nên một vết xước nhỏ trên lớp giáp đen. Murmu, với hơi thở đứt quãng, lôi một quả lựu đạn điện từ từ túi. Gã nhìn về phía người đồng đội, gật nhẹ đầu như thay lời muốn nói. Cơ hội cuối cùng cho chúng ta! Dồn chút sức lực cuối cùng, gã ném, quả lựu đạn xoay tròn. Vụ nổ bùng lên, ánh sáng lóe khắp cả con phố, làm cánh tay của tên phi công giật một thoáng rồi khựng lại. Nhưng nó vẫn không ngã. Và tệ hơn nữa, nó vẫn không chậm lại.
Droupado hét lên, không phải vì sợ, mà vì cơn giận đang thiêu rụi cả lồng ngực. Gã bất chấp tất cả để lao tới, con dao găm trong tay lóe lên dưới ánh mặt trời. Lưỡi dao đâm vào khe hở ở khớp giáp của bộ chiến giáp, nơi kim loại nối với nhau. Một tia lửa bắn ra vì ma sát, nhưng lưỡi dao cũng gãy đôi và từng mảnh vụn của nó rơi thẳng xuống đất. Tên phi công xoay người, tấm khiên đập ngang như búa tạ trước khi đạp thẳng vào lồng ngực của gã. Gã văng xa cả mét. trong khi xương thì vỡ vụn. Cơ thể của gã đáp đất sau một cú lăn dài, máu trào ra từ miệng. Murmu lao tới, bất chấp cơn đau ở vai, kéo đồng đội vào một góc khuất sau đống gạch. Một luồng sáng xanh bắn tới, sượt qua vai gã. Máu phun ra, từng dòng máu tươi nóng hổi, thấm đẫm cả áo chống đạn. Gã gào lên, nhưng tay vẫn bám chặt lấy Murmu và để cho đồng đội lôi ra khỏi tầm súng.
Chỉ còn năm người. Một bóng người trẻ, mũ sắt lệch lạc, đứng giữa phố, ôm dây lựu đạn cuối cùng. Mắt cậu trống rỗng, môi mấp máy, nhưng không còn danh xưng nào thốt ra. Cậu kéo chốt, cánh tay giơ lên chậm chạp, như thể mang theo cả niềm hi vọng của Raipur. Rồi cậu thì thào gì đó, và nhảy thẳng vào bộ chiến giáp đáng nguyền rủa. Vụ nổ nuốt lấy cả hai, ánh sáng trắng lại lóe lên, làm tên phi công phải lùi lại, giáp đen bốc khói. Nhưng khi tất cả đi qua, nó vẫn đứng đó, không một vết nứt, như thể cả sự hy sinh ấy chỉ là một cơn gió thoảng qua.
Bốn bóng người co rúm sau bức tường gạch vỡ, lưng ép chặt vào lớp bê tông lạnh buốt, thở hổn hển khi dòng khí rít qua kẽ răng. Sallar Hur, Kallar Rasta, Droupado Kumar, và Murmu Das ôm chặt súng, mỗi người chỉ còn một băng đạn, khoảng vài chục viên, không hơn không kém. Đống đổ nát xung quanh vẫn bốc lên mùi máu của đồng đội và mùi khét của kim loại. Những cột khói đen vẫn cứ cuộn trào lên bầu trời Raipur, che lấp hoàn toàn màu xanh của hy vọng bằng thứ sắc xàm đáng nguyền rủa. Tiếng bước chân kim loại vẫn nặng nề vang lên, mỗi nhịp là một cú đập vào lồng ngực họ. Bộ chiến giáp thế hệ mới, thứ đang săn lùng những tên sống sót, đã ngửi thấy mùi con mồi.
Hệ thống quét laser và quét tầm nhiệt của nó xuyên qua mà khói, và vị trí con mồi đã được xác định. Khấu súng năng lượng trên tay bắt đầu nạp đạn, tiếng kim loại lạch cạch vang lên như lời thì thầm của định mệnh. Bức tường rung chuyển khi nó lao tới, “mỗi bước” của nó làm gạch đá lạo xạo xung quanh.
Sallar, mồ hôi trộn với máu chảy dài trên mặt, lẩm bẩm một lời cầu nguyện đứt quãng.
“Không thể kết thúc thế này—” Gã chưa kịp dứt lời, thì một bàn tay giáp khổng lồ xuyên đã qua bức tường, rồi chộp lấy cổ gã, nhấc lên như nhấc một con búp bê hỏng.
Những ngón tay kim loại siết chặt, xương cổ của gã kêu răng rắc, mắt thì lồi ra, hơi thở thì nghẹn lại thành tiếng rên khàn khàn. Máu bắt đầu rỉ từ khóe miệng, nhỏ xuống lớp giáp đen đang lấp lóe.
“Thằng khốn!” Droupado gầm lên, nhảy ra khỏi chỗ nấp, giơ súng trường lên. Gã cố gắng xả đạn, từng viên đạn gào thét lao vào mũ giáp của kẻ địch, bắn ra tia lửa và những vết xước nhỏ xíu dần hình thành. Murmu và Kallar cũng lăn ra, súng nổ liên hồi, ánh sáng từ họng súng lóe lên như thứ ánh sáng lẻ loi ở cuối đường hầm. Đạn găm vào giáp nó, nhưng tất cả chỉ là muỗi đốt inox. Khe mắt đỏ của nó nhấp nháy, không chút phản hồi, có thể tên phi công bên trong đang cười nhạo sự tuyệt vọng của những kẻ đang cố giành lấy sự sống này.
Sallar giãy giụa, tay vẫn cố gắng cầm súng, xả tất cả những gì còn lại vào mũ của nó. Mặt gã tím tái, lưỡi thè ra, nhưng đôi mắt lại ánh lên lửa hận khi nã từng viên đạn. Droupado hét lên, ném khẩu súng rỗng vào bộ chiến giáp, rồi giơ cao khẩu súng lục còn lại và bắn trong vô vọng. Tên phi công chỉ nghiêng đầu, giơ cánh tay còn lại lên, thanh kiếm plasma sáng rực, chuẩn bị đòn tất sát nhằm kết liễu tất cả.
Một tiếng rít sượt qua trong không khí. Cây đại kiếm thép lao qua màn khói, xoay tròn, lưỡi phát ra luồng năng lượng đỏ. “Phập!” Nó cắm ngập vào cánh tay giáp của tên phi công trước khi liếm một đường cắt ngọt lịm. Sallar rơi xuống đất, ho sặc sụa, máu chảy ra từ miệng. Cánh tay cụt của kẻ địch phun tia lửa, chất lỏng đen đặc nhỏ xuống, hoà trộn cùng máu của hắn, tạo nên mùi hôi thối đáng kinh tởm.
Bộ chiến giáp ấy lùi một bước, khóe mắt nhấp nháy. Từ bóng tối, một bộ chiến giáp xám xông ra, cao lớn, giáp đầy những vết cháy, cùng với một bộ động cơ phóng đang thải ra những hạt năng lượng đỏ rực. Nó lướt qua rồi chộp lấy cây kiếm, bổ mạnh xuống một đường. Chiến giáp đen gắng gượng giơ súng, ánh sáng xanh ánh lên trong nòng. Nhưng chiếc chiến giáp xám lại nhanh hơn, kiếm vung lên, một đường chém cong hoàn hảo. “Xoẹt!” Lưỡi kiếm xé nát ngực kẻ địch, tia lửa bắn tung toé, máu đỏ phun ra như suối. Tên phi công ấy bất giác lui lại, lảo đảo, nhưng súng vẫn nhắm thẳng. Đồng minh của phe ta vẫn không dừng lại. Nền hạt tiếp tục giải phóng và nó lại lao tới, vũ khí chém ngang lần nữa. Chỉ một âm thanh nhẹ nhàng, và đầu của tên phi công kia hoàn toàn lăn lóc trên đất, mắt đỏ đã tắt ngúm. Cơ thể khổng lồ sụp xuống, rung chuyển mặt đất, dầu máy và máu thấm đẫm đống gạch vụn.
Tên phi công trong bộ giáp xám liếc sang những kẻ sống sót, trong khi tra lại đại kiếm lên lưng. Tất cả mũi súng đều hướng vào gã, nhưng bản thân không hề bất ngờ.
“Đồng minh, hãy rút lui! Đây là lệnh! Viện binh sẽ tiếp quản nơi này!” Tên phi công lên tiếng. Dù chất giọng hơi khó nghe vì hệ thống phiên dịch tự động, nhưng có thể đoán gã này chỉ ngoài 35.
“Viện binh?” Cả đám đồng thanh, ngơ ngác, trong khi súng hơi chùng xuống.
“Chúng tôi đã gửi thông báo cách đây ít phút. Các anh có thể rút lui!”
“Không! Chúng tôi vẫn còn có thể chiến đấu.” Cả bốn gã nhìn nhau, rồi cùng đứng nghiêm, và chào kiểu quân đội.
Tên phi công thấy thế, cũng chẳng nói gì nhiều. Gã chỉ thở dài, rồi lấy một cái hộp nhỏ gắn trên động cơ phía sau, sau đó đổ tất cả những gì bên trong xuống đất. Từng băng đạn rơi xuống. Bốn kẻ sống sót hiểu ý, liền nhanh chóng thu gom, nạp đạn, lên cò, và sẵn sàng cho những trận chiến phía trước. Sau khi nạp xong đạn, cả bốn gom theo những băng đạn còn lại làm dự trữ, đến khi Droupado lên tiếng
“Droupado Kumar, sư đoàn 42 lục quân.”
“Không cần thiết!” Tên phi công trong bộ chiến giáp trả lời mà không thèm liếc mắt. “Các anh nên giữ kỷ luật và bớt ồn ào lại!”
“Không! Chúng tôi cần anh biết danh xưng của chúng tôi!” Murmu lên tiếng.
“Không quan trọng!” Bộ chiến giáp xám quay lại nhìn.
“Nó quan trọng với chúng tôi!” Gã hét lớn. “Đấy là những gì chúng tôi có! Tôi là Droupado Kumar thuộc sư đoàn 42 lục quân.”
“Tôi là Sallar Hur, của sư đoàn 19 thuộc lực lượng thuỷ quân lục chiến!”
“Còn tôi là Kallar Rasta, thuộc lực lượng lục quân của sư đoàn 87!”
“Tên tôi là Murmu Das, thành viên đội biên phòng số 89.”
Phi công trong bộ chiến giáp để tất cả điểm danh, sau đó gã gật đầu.
“Phi công thử nghiệm số 11, Verg. Thuộc Viên nghiên cứu Ma pháp!”
-Một nơi nào đó, Viện nghiên cứu Ma pháp, ngày 28 tháng 5 năm 2068-
Bình minh tại vùng đất này thật tĩnh lặng. Không tiếng chim hót, không tiếng gà gáy, cũng chẳng có tiếng thúc giục thường thấy của những người nông dân chăm chỉ nơi vùng quê, chỉ có những cơn gió dịu nhẹ. Từ phía xa, những khoảng đồng bằng bát ngát nhưng đầy vết đạn pháo, đủ thấy rằng nơi này chẳng gần một khu dân cư nào. Nhưng cũng đúng, chính phủ nào lại cấp phép xây dựng một cơ sở thí nghiệm nguy hiểm gần khu dân cư, thật hiển nhiên! Ngay trên những khối đất đá vốn nứt vỡ phía xa ấy, những vết cháy xém, những hố bom, những dấu tích của đạn pháo, chính là minh chứng cho nhiều quá trình thử nghiệm và thực nghiệm khác nhau mà cơ sở này dành cho các loại vũ khí chiến lược mới.
Trái ngược với khung cảnh tồi tàn bên dưới, trên sân thượng của tòa nhà chính, một thế giới khác lại hiện ra. Những chậu cây xanh mướt, lá lấp lánh sương sớm, đang đung đưa trong những cơn gió đầu ngày. Hoa cẩm tú cầu và oải hương nở rộ, sắc màu rực rỡ như thách thức sự u ám từ phía xa xa. Bên trên, một mái che hợp kim trong suốt vươn cao, cong mềm mại như đôi cánh của con đại bàng giữa bầu trời tự do, tán những ánh nắng đầu tiên thành những vệt sáng lung linh, rồi làm chúng nhảy múa trên mặt đất. Dưới mái che, những chiếc bàn gỗ mun dài, bóng loáng, được đánh verni tỉ mỉ, đứng ngay ngắn bên cạnh hàng ghế tựa chạm khắc tinh xảo cùng với những tấm đệm lót êm ả. Từng đường nét hoa văn trên đó chính là lời kể lại về câu chuyện của những cánh rừng xa xôi, nơi chưa bị chiến tranh chạm tới. Mỗi chiếc ghế là một lời mời gọi, một khoảnh khắc nghỉ ngơi hiếm hoi giữa những ca làm việc khắc nghiệt, nơi tâm trí có thể tạm quên đi tiếng gầm của máy móc và mùi khó chịu của các mẫu vật thử nghiệm. Nếu phải diễn tả, thì một ốc đảo giữa sa mạc cằn cỗi, chính là thứ ẩn dụ tốt nhất về nơi này.
Tại lan can, vẫn là cái gã ngoại quốc ấy, Theresis Rethres. Đôi mắt của gã thâm quầng không khác gì hai hố sâu, nhưng mái tóc lại được chải chuốt gọn gàng và lịch lãm. Khoác trên mình bộ đồ công chức thường thấy, không ai biết rằng gã này vừa trở về từ một nơi rất khắc nghiệt, một nơi bản thân từng gọi là nhà. Nhưng trái ngược với cảm xúc thất vọng mà bao năm qua gã luôn mang, vẻ hạnh phúc đôi khi vẫn thoáng qua trên khuôn mặt của người đàn ông đã 70 này. Gã lê đôi giày bám đầy bụi dọc theo lan can, ánh nhìn hướng về phía chân trời xa, tay ôm chặt cốc cà phê bốc khói vừa mua từ máy bán hàng tự động gần đó, hơi nóng phả vào lòng bàn tay lạnh giá và nhăn nhún vì tuổi tác của gã. Mùi cà phê đậm đà thoáng át đi những ký ức về mùi xác chết và máu, nhưng không thể xóa sạch tiếng vang từ những vụ thảm sát pháp sư vẫn đang réo rắt trong đầu, những tiếng gọi của quá khứ. Rồi gã dựa người vào lan can, đảo mắt qua những hàng hoa tươi xanh và đầy màu sắc, trước khi dừng lại ở một bông cẩm tú cầu đang khẽ rung trong gió, như thể cố níu lấy chút bình yên giả tạo của ốc đảo này. Nhắm mắt lại, gã hít một hơi sâu, cảm nhận sự yên bình hiếm hoi trong tâm hồn, trước khi nở một nụ cười đầy ẩn ý.
“Vẫn bận bịu thế à?” Theresis lên tiếng, mở mắt nhìn về phía gã đàn ông đang bước đến.
Teach Kwok bước lên sân thượng, đôi giày da bóng loáng bằng cách thần kỳ nào đó vẫn kêu cộp cộp trên nền lát đá hoa cương, mỗi bước vang lên chính một nhịp điệu do tự gã sáng tác. Bộ vest lụa xám, cắt may hoàn hảo, ôm sát thân hình, lấp lánh dưới ánh nắng sớm, vải mịn đến mức chảy theo từng cử động. Hương nước hoa thoảng qua, đậm chất gỗ đàn hương, hòa quyện với mùi sương từ hệ thống làm mát. Một tay giơ lên, vẫy nhẹ, ngón tay đeo nhẫn lóe sáng, chào người bạn tóc trắng đang dựa vào lan can dưới ánh bình minh. Bên trong cặp kính, gã lướt mắt liên tục trong không gian, nhưng không phải để dừng lại ở nơi những chậu cẩm tú cầu hay hàng oải hương đung đưa trong gió. Thay vào đó, tầm nhìn của gã bị chi phối bởi những dòng chữ số lấp lóe trong không trung. Các biểu đồ trôi qua, số liệu nhảy múa. Từ báo cáo doanh thu, cập nhật từ các giám đốc điều hành của tập đoàn Kwok, tiến độ thử nghiệm của hệ thống A.E.T.H.E.R, cho đến dữ liệu về hiệu suất của hệ thống vũ khí Y.A.M.A.T.O. Ngón tay vẫn liên tục lướt nhẹ trong không khí nhằm điều khiển giao diện ảo. Mỗi cử động của gã chính là minh chứng cho hình ảnh của một nhạc trưởng đích thực, một đầu tàu mang theo hơi thở của cả một doanh nghiệp. Và rồi, một cái chạm vào gọng kính, màn hình số biến mất, gã tháo kính, gấp gọn, và nhét vào túi áo vest với động tác thuần thục. Teach đặt cặp da cá sấu lên hàng ghế gỗ gần đó, khóa vàng lấp lánh khẽ kêu lên khi chạm vào cạnh bàn. Rồi gã lẩm nhẩm một giai điệu jazz cũ, chân vô thức đánh nhịp, mũi giày gõ nhẹ xuống sàn, tạo thành những âm thanh nhỏ hòa vào tiếng gió. Sau đó gã bước tới chỗ người bạn, dáng đi vẫn thong dong đầy vô lo. Gió khẽ làm tung vạt áo vest, để lộ chiếc đồng hồ đeo tay lấp lánh, kim cương nhỏ xíu đính trên mặt số phản chiếu lại ánh sáng đầu ngày.
“Đến sớm thế bạn tôi? Bình minh chắc phải chờ anh đến mới dám ló dạng đấy!” Gã chào bạn mình.
“Viện trưởng đâu?” Theresis vẫn thế, luôn luôn bỏ qua những câu đùa cợt nhả từ bạn mình.
Gã chỉ im lặng, rồi chuyển ánh nhìn từ người đàn ông tóc trắng sang mặt trời ở phía xa. Sau một vài giây, gã vẫn không đáp lời, thay vào đó rút từ túi trong áo vest một tờ báo mới in, và đẩy nó về phía người bạn đối diện. Dòng chữ in đậm trên trang nhất sáng lên dưới ánh sớm: “Chính phủ Lâm thời Indi chính thức hợp tác với Vienakamlos.” Theresis nhận lấy, ngón tay lướt qua mép giấy, quét nhanh qua từng dòng chữ, trước khi bước chậm rãi cùng với tờ báo trên tay. Đến hàng ghế gỗ bóng loáng, gã thả mình xuống, ghế kêu phịt của tấm đệm lót thì thầm dưới sức nặng của gã. Cốc cà phê được đặt lên bàn, hơi nóng vẫn bốc lên, xoáy vào không khí mát lạnh từ hệ thống phun sương trên trần. Tờ báo mở rộng trên tay, che khuất gương mặt, chỉ để lộ đôi mắt đỏ quen thuộc đang lấp lánh sau mép giấy. Hơi thở gã chậm lại, như thể mỗi từ trên trang báo là một mảnh ghép cho một hi vọng xa vời.
Không ai vội vã. Teach bước chậm rãi về phía máy bán hàng tự động, ánh sáng tự nhiên từ phía lan can phản chiếu lên mái tóc của gã, làm nổi bật lên những sợi tóc đã chuyển bạc, thứ đang ẩn sâu dưới lớp đen bóng của mái tóc. Đùng là dù cố gắng chăm sóc bản thân đến mấy, những dấu hiệu của quá trình lão hoá, chẳng bao giờ có thể che giấu hoàn toàn được. Đôi giày da ấy vẫn gõ xuống sàn đá hoa cương, âm thanh lộp cộp đều đặn sau mỗi nhịp bước. Gã nhấn nút, máy vang lên những tiếng nhạc chuông quen thuộc, rồi một lon soda lạnh ngắt trượt ra, lấp lánh dưới lớp sương lạnh. Rồi tiếng lộp cộp ấy lại vang lên, to dần, trước khi dừng lại và nối tiếp bởi một tiếng cạch của lon nước và xì của tấm đệm. Gã đã ôn tồn ngồi trên chiếc ghế ở phía đối diện bạn mình. Rồi chờ đợi, chờ đợi người bạn ấy đọc xong tin tức trước khi mở lời.
Trầm ngâm một lúc lâu với tờ báo cùng dòng suy nghĩ về người bạn thân của gã. Cái tên mà mồm thì bảo giải ngũ, trong khi chân vẫn lặn lội sang nước bạn. Rồi cuối cùng, Theresis cũng cất tiếng.
“Mọi thứ đang tiến triển đúng như những gì cả ba chúng ta muốn. Nhưng vấn đề ở đấy lại sớm hơn những gì đã tính toán. Cậu nghĩ thế nào?” Gã nhìn thẳng về phía người đối diện, chống một tay lên tay vịn để đỡ cằm, trong khi ngồi bắt chéo chân.
“Anh nên hỏi Văn. Như đã nói, tôi là người làm kinh tế, không phải nghiên cứu hay hoạch định chiến lược, nên chắc chắn không thể giúp anh.” Teach buông một câu, trong khi ngả người ra lưng ghế và bắt chéo chân.
“Tuy vậy, việc Indi nhanh chóng đạt được thỏa thuận với Liên minh cho thấy chúng cũng tuyệt vọng như phía anh ngày trước.” Teach tiếp tục.
“…” Theresis chỉ im lặng, rồi gã phát ra một tiếng thở dài. Người đối diện nói đúng, quốc gia theo đạo Hindu kia không khác gì tổ quốc của gã ngày trước, tuyệt vọng. Thế nhưng, nết buồn phiền đầy chán chường đấy chẳng ở được bao lâu, trước khi bị thay thế bởi một cảm xúc khác ngày bên trong ánh mắt đầy hi vọng.
“Bên anh thế nào rồi?” Teach lên tiếng nhằm cắt ngang dòng suy nghĩ bí ấn của người đối diện, có lẽ chính gã cũng nhận ra sự thay đổi đang dần xuất hiện trong từng đường cơ trên khuôn mặt của người chiến hữu lâu năm.
“Khá khả quan!” Gã trả lời, cố gắng ẩn đi nét hạnh phúc vừa rồi.
Cả hai yên lặng, ngồi nhìn nhau. Dù Theresis cố gắng lơ đi ánh mắt khiêu khích của bạn mình bằng cách hớp nhẹ một ngụm cà phê, cái ánh nhìn đấy vẫn làm gã cảm thấy ngột ngạt. Cả hai vẫn cứ ngồi, vẫn cứ im lặng dù nhiều phút trôi qua. Teach vẫn thế, bằng cái thủ pháp bản thân tự gọi là nhìn chằm chằm cùng nụ cười nhếch môi ấy, gã cứ hướng tầm nhìn về tên tóc trắng đối diện. Gã không lên tiếng, chẳng bao giờ lên tiếng, nhưng Theresis hiểu tên này muốn biết điều gì. Và rồi, gã mắt đỏ ấy cũng chịu thua, chỉ có thể mở điện thoại, rồi bật một đoạn ghi hình ngắn trên sóng truyền hình mà bản thân đã lưu lại, trước khi đẩy nó về phía gã doanh nhân đối diện.
Teach nhận lấy điện thoại, rồi bắt đầu chú tâm vào đoạn ghi hình phỏng vấn trên đó. Hiện lên trên là hình ảnh của một cô gái trẻ mang bộ tóc hồng cùng con ngươi đỏ sẫm, đoán chỉ chừng chưa đến 30. Nhưng trái ngược với mái tóc hồng nữ tính ấy, thì trên khuôn mặt người con gái ấy đầy vết lấm lem của bùn đất và tro bụi như thể chiến trường là nhà của cô. Dù không thấy rõ toàn bộ trang phục, nhưng lấp ló trong đó là bộ quân phục đơn vị đặc chủng của một Liên bang đã tan rã, cùng với huy hiệu của một tổ chức nhà nước lâm thời mới. Mang chéo trên người là một khẩu súng kỳ lạ đang phát ra những hạt năng lượng mang màu sắc giống với đôi mắt của chủ nhân. Thứ đấy chẳng phải đến từ N.A.T.O, cũng chẳng phải những con hàng được sản xuất bởi Liên bang, nhưng có vẻ nhưng chẳng ai quan tâm đến nguồn gốc của nó. Cô ta trả lời phỏng vấn bằng tiếng địa phương, và may mắn là Teach hiểu người con gái ấy đang nói gì. Bên dưới cùng, chính là một dòng ghi bằng tiếng bản địa về chức danh của người đấy, Theresa Rethres, người đứng đầu Nhà nước Lâm thời Urasus.
“Con bé vẫn thế nhỉ? Cứ thích đích thân làm mọi thứ.” Teach cười mỉm, sau khi trả điện thoại lại cho Theresis.
“Ít nhất nó đã thành công, nhưng nhiêu đấy chưa được xem là thành tựu.” Theresis khịt mũi, làm ra bộ mặt đặc trưng của những phụ huynh Châu Á.
“Xem ai đang nói kìa. Tốn hơn ba mươi năm, lại chẳng làm được gì. Trong khi đứa con gái chỉ tốn có chưa đấy 2 năm.” Như được kiến tạo, Teach bắt đầu thở ra những câu nói đầy quen thuộc với bạn thân của mình.
Theresis cố gắng lảng tránh đi, đồng thời không biểu lộ một tý cảm xúc cá nhân nào. Tuy vậy, ngay lúc này, tâm trí của gã tràn ngập hình ảnh đứa con gái yêu dấu ấy. Hình ảnh cô con gái từ khi còn bé xíu đến khi đủ lông đủ cánh để đá ghế và thay thế gã trong tổ chức nhà nước mới. Teach ngồi đó, quan sát từng chuyển động trên khuôn mặt. Gã không lên tiếng mà chỉ ngồi đó, ngắm nhìn một người cha đang tự hào về đứa con gái của bản thân.
Được một lúc lâu, gã tóc trắng lấy lại vẻ mặt u sầu đặc trưng lúc đầu, rồi hướng về phía Teach.
“Văn có nói gì với cậu về chuyện khối quốc gia không?”
“À có, tôi quên mất!” Teach mở túi xách ở ghế bên cạnh, lấy ra một xấp tài liệu, rồi đưa nó cho gã đối diện.
“Đây! Văn bảo đưa nó cho anh.”
Theresis nhận tập tài liệu từ tay Teach, những ngón tay gân guốc lướt nhẹ trên bìa kiếng phẳng phiu, như thể đang cảm nhận nhịp đập của từng con chữ bên trong. Gã ngồi thẳng, lưng không chạm ghế, đặt tập tài liệu trước mặt, mở trang đầu tiên với động tác chậm rãi. Tập tài liệu này không quá dày, chưa đầy hai mươi trang, kêu sột soạt dưới đầu ngón tay khi từng trang giấy miết vào nhau. Đối với gã, mỗi âm thanh cùng động tác đang thật sự hòa nhịp cùng tiếng thở nhẹ nhàng của bản thân. Gã lật từng trang, ánh mắt di chuyển chậm để không bỏ sót một chữ nào, dù đó là một dấu chấm hay một con số. Đôi lúc, gã dừng lại, ngón trỏ giữ chặt mép giấy, đầu hơi nghiêng, rồi đối chiếu những dòng chữ với từng lý tưởng sâu thẳm trong tâm trí. Một cơn gió lùa qua, làm lay động vài sợi tóc trên trán, nhưng gã chẳng màng, tay trái vô thức gõ nhè nhẹ lên bàn, nhịp điệu đều đặn như một chiếc đồng hồ. Những con chữ trên trang giấy, chúng ngắn gọn, cô đọng, nhưng lại mang theo giấc mơ của Văn. Không! Là giấc mơ của cả ba người đàn ông đều quá tuổi lục tuần này. Và Theresis đọc chúng với sự chăm chú của một pháp sư thuần tuý, của kẻ đã mất đi tất cả, từ tổ quốc đến giống loài. Có lúc, gã khẽ nhíu mày, đôi môi mím chặt, rồi lại giãn ra khi lật sang trang tiếp theo, như vừa tìm thấy mảnh ghép khớp với kỳ vọng. Nhiều phút trôi qua, gã vẫn chăm chú đọc. Gã đọc kỹ, đọc kỹ đến mức ai cũng nghĩ gã đang học thuộc lòng từng con chữ và chẳng để tâm đến chuyện đời. Một giọt cà phê đọng trên mép tách rơi xuống bàn, gã không để ý. Một chiếc lá từ ban công bay ngang tầm mắt, gã cũng chẳng nhìn. Tất cả những gì tồn tại bây giờ là những dòng chữ, những ý tưởng, và sự kỹ càng của một người đang tìm kiếm hy vọng, từng chữ một, để chắc rằng giấc mơ của bạn mình không chỉ là lời nói, mà là một con đường có thể bước đi.
“Vậy ra đây là những gì cậu ta đã nói!” Theresis đọc xong, rồi đặt tập tài liệu xuống bàn. “Nhưng có một vấn đề, tôi không chắc, chính là quân đội. Việc thành lập một đội quân cho toàn khối, thì liệu người dân các nước thành viên có đồng ý? Tôi quan ngại nếu họ bảo việc để quân đội khối quản lý song song với quân đội của quốc gia sở tại, chính là đưa ngoại bang vào! Chưa kể đến việc có thể bị gán ghép cho hành vi hạ bệ tổ quốc.”
“Những con bò sẽ nói như thế!”
“…”
“Văn có nói về vấn đề này. Anh ta bảo rằng quân đóng tại nước sở tại sẽ do quân đội của nước đó đôn lên, hoặc tuyển quân từ chính quốc gia đó. Bên cạnh đó, đối với vấn đề trong nước như bảo an và an ninh biên giới, thì quân đội quốc gia sẽ luôn có quyền cao hơn.”
“Và?”
“Anh thừa biết mà, đấm đám khỉ trắng khi chúng xâm phạm, là trách nhiệm của tất cả.”
“Vậy việc vận hành cả hai khối quân sự, là để đề phòng việc quân đội đảo chính, như trong này đã ghi?” Theresis chỉ vào mục quân sự trong tập tài liệu.
“Có thể nói là vậy! Bài học những năm 2021 vẫn còn đó!”
“Vậy ai sẽ lãnh đạo khối? Tôi không chắc việc để một cán bộ từ quốc gia nào đó lên lãnh đạo toàn khối là một ý hay. Vì lợi ích nhóm sẽ xuất hiện” Theresis ngừng một hồi, rồi bất chợt hỏi. Gã có quyền hỏi như vậy, vì quốc gia của gã đã bị diệt vong chỉ vì một tên tân tổng thống chỉ tập trung vào lợi ích và nghe theo lời xúi giục của trời tây.
“Anh nghĩ là ai?” Teach đan xen hai lòng bàn tay, chồm người về phía trước.
“Một kẻ đã ‘tiến hoá’?” Theresis nhíu mày, đồng thời nói ra nghi ngờ của bản thân. “Tôi đoán thế. Nhưng tôi nhớ nó chỉ nằm trong đống chữ nghĩa về học thuyết tiến hoá dưới ảnh hưởng của Thema mà Văn từng nghiên cứu?”
“Không bạn tôi ơi! Văn đã tìm thấy người đó, và anh ta đã chứng kiến khoảnh khắc đấy!” Teach ngã người ra sau ghế, rồi trấn an bạn mình.
Bất chợt, đôi mắt đỏ thẫm của Theresis lóe lên, chuyển thành sắc vàng óng ánh, rực rỡ . Từ sâu trong đồng tử, những tia sáng nhỏ li ti bắt đầu nhảy múa, những dòng điện hữu hình chạy dọc mống mắt, lấp lánh, sắc nét, tựa hồ một cỗ máy sống đang khởi động. Gã nheo mắt, hàng lông mày khẽ chau lại, cố gắng xuyên thấu ý định ẩn sau lời nói của người bạn ngồi đối diện. Nhưng tất cả những gì gã nhận được chỉ là nụ cười mỉm bình thản, và vẻ mãn nguyện trên khuôn mặt Teach, như thể gã kia đã nhìn thấu một bí mật mà chính bản thân gã chẳng hề hay biết. Rồi gã hít một hơi sâu, nhìn về phía tập tài liệu trên bàn.
“Vậy giờ, chúng ta sẽ tiến hành bước thứ ba của kế hoạch. Tôi không rõ anh ta sẽ chọn ai, nhưng tôi tin cả hai người!” Theresis nắm chặt lòng bàn tay, như thể một ngọn lửa quyết tâm đang rực cháy lại sau bao năm lụi tàn. “Một khối quốc gia, nơi ma pháp hòa vào cuộc sống, nơi pháp sư có thể sống yên bình mà không sợ hãi, một nơi sẽ kế thừa ý chí của tất cả chúng ta.”
Teach chỉ gật đầu, gã cũng có một mong muốn như vậy. Hớp ngụm cà phê nguội còn lại, gã hướng mắt về chân trời phía xa, nơi đang lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tương lai nào đang đón chờ tất cả? Liệu nhân loại có thể sống cùng ma pháp hay không? Liệu tất cả có thể thấu hiểu mà không cần đối đầu? Và còn ‘đối thoại’? Chẳng ai có thể trả lời cho câu hỏi đó. Nhưng có một điều rằng, tập tài liệu vẫn nằm trên bàn, mang trong đó tất cả hoài bão của những cá nhân về một tương lai tốt đẹp cho tất cả, cùng một dòng chữ:
“Liên hiệp các Quốc gia Đổi mới và Phát triển Ma pháp - N.A.T.I.O.N”


0 Bình luận